1 Bốn bài thi của Phó đại sĩ Tác giả : Văn Thận Độc Dịch giả : Dương Đình Hỷ Phó đại sĩ (497-569) là một cư sĩ đời Tề, Lương người huyện Nhĩa Ô nay thuộc tỉnh Triết Giang. Năm 16 tuổi lấy Lưu thị, sanh 2 con là Phổ Thành, Phổ Kiến. Năm 22 tuổi được một vị tăng Thiên Trúc là Đạt Ma chỉ dẫn tu đạo, phát nguyện tu Đạo, có nhiều thành tựu. Ông làm hơn 300 bài kệ giải thích Phật ý. Khuyên người đời công danh lợi lộc, đời người chỉ là ảo hóa vô thường. Thio văn của ông khiến chúng ta nhận xét chính xác phương pháp tu Đạo. Dưới đây chúng tôi đề cập đến Tứ tướng thi, và phân tích chúng. I- Tướng Sanh. 識 托 浮 泡 起 Thức thác phù bào khởi 生 從 愛 欲 來 Sanh tùng ái dục lai 昔 時 曾 長 大 Tích thời tằng trường đại 今 日 復 嬰 孩 Kim nhật phục anh hài 星 眼 隨 人 轉 Tinh nhãn tuỳ nhân chuyển 未 唇 向 乳 開 Vị thần hướng nhũ khai
2 為 迷 真 法 性 Vi mê chân pháp tính 還卻受輪迴 Hoàn khước thụ luân hồi. Thức do bọt nước khởi Sinh từ ái dục tới Ngày ngày càng lớn khôn Nay đã thành hào môn Con mắt theo người chuyển Môi hồng hướng nhũ hoa Vì mê chân pháp tánh Luân hồi bao giờ ra. Bài kệ này giải thích cụ thể tướng sanh. Đời người như bọt nước, sinh sinh diệt diệt, không lúc ngưng nghỉ. Trẻ con biến thành người lớn, ngày qua là ngày hôm nay. Đối với đứa trẻ mà nói, nó là người trưởng thành do luân hồi mà đến thế giới này, lúc môi hồng mà bú vú mẹ để trưởng thành, bị mê hoặc mà sống qua ngày, đời này hết, lại luân hồi trong sáu đường. Phó đại sĩ đối với cuộc đời bèo bọt rất thất vọng, ông hy vọng nhiều người được giải thoát. II- Tướng Lão. 覽 鏡 容 顏 改 Lãm kính dung nhan cải 登 階 氣 力 衰 Đăng giai khí lực suy 咄哉今已老
3 Đốt tai kim dĩ. lão 趨 拜 禮 還 虧 Xu bái lễ hoàn khuy 身 似 臨 崖 樹 Thân tự lâm nhai thụ 心 同 念 水 龜 Tâm đồng niệm thuỷ quy 尚 猶 耽 有 漏 Thượng do đam hữu lậu 不 肯 學 無 為 Bất khẳng học vô vi. Nhan sắc đã thay đổi Khí lực thì giảm đi Ngày nay đã già lão Lễ lạy mà làm gì? Thân như cây cổ thụ Tâm như con cổ quy Do còn chỗ hữu lậu Chẳng chịu học vô vi. Bài kệ này miêu tả nỗi khổ của người già, không ai tránh khỏi cái khổ này. Ngạn ngữ có nói công đạo trên đời này là bạc đầu, dù là quý nhân cũng không tránh khỏi. Đức Phật Thích Ca đương thời thấy con người phải trải qua bốn cái khổ : sanh,lão, bệnh, tử, nên muốn giải quyết vấn đề này Ngài đã xuất gia, cuối cùng ngồi dưới gốc cây Bồ đề Ngài đã giác ngộ. Đời người rất ngắn ngủi lúc trẻ không lo lắng, về già da nhăn, tóc bạc, sức lực suy yếu như thi nhân Lý Bạch nói : Ông chẳng thấy nước sông Hoàng từ trời đổ xuống Chẩy ra bể và không trở lại Tóc còn xanh, chiều đã bạc như tuyết...
4 Trong 4 câu đầu Phó đại sĩ nói đời người ngắn ngủi, giả tạm vừa là trẻ con đã thành lão ông đầu bạc, da nhăn nheo, chống gậy không hơi sức, lên thềm leo 3, 4 bực phải nghỉ một lần, chẳng bằng lúc trẻ đi thoăn thoắt. Lúc này lực đã bất tòng tâm. Lễ Phật nào có ích gì? Thân như cổ thụ, tâm như rùa già. Nếu không chịu học Phật pháp thì phải chịu những khổ nạn này. III- Tướng Bệnh. 忽 染 沈 痾 疾 Hốt nhiễm trầm kha tật 因 成 臥 病 人 Nhân thành ngoạ bệnh nhân 妻 兒 愁 不 語 Thê nhi sầu bất ngữ 朋 友 厭 相 親 Bằng hữu yếm tướng thân 楚 痛 抽 千 脈 Sở thống trừu thiên mạch 呻 吟 徹 四 鄰 Thân ngâm triệt tứ lân 不 知 前 路 險 Bất tri tiền lộ hiểm 猶 尚 恣 貪 嗔 Do thượng tứ tham sân. Bỗng nhiên mắc bệnh nhiễm Trở thành một bệnh nhân
5 Vợ con buồn chẳng nói Bạn bè chẳng tương thân Đau đớn khắp mọi chỗ Láng giềng phiền kêu ca Không biết đường trước hiểm Tham, sân, si còn la. Như đã nói sanh, lão,bệnh, tử không ai tránh khỏi, khổ vì mắc bệnh cũng thế, không ai có thể tránh được. Hạnh phúc là những người bị bệnh trong một thời gian ngắn, bất hạnh là những người nằm liệt giường lâu. Có những người bị bệnh từ nhỏ, cả đời phải tranh đấu với nỗi khổ của tật bệnh. Vì vậy Trung Quốc có câu : Phàm những người nằm liệt giường thì kiếp trước không phải là con hiếu thảo. Đức Thích Ca Mâu Ni nhân một lần đi chơi ngoài thành thấy một người có bệnh, mới có ý tưởng xuất gia, quyết tâm học Đạo. Phó đại sĩ nói dù trẻ hay già bỗng bị bệnh nằm trên giường, vợ con thấy bị bệnh lâu buồn không nói, bạn bè không viếng thăm, láng giềng chán vì những tiếng kêu la. Tương lai chẳng biết thế nào, sân, si khởi lên, bệnh lại càng nặng. IV- Tướng Tử. 精 魄 辭 生 路 Tinh phách từ sanh lộ 遊 魂 入 死 關 Du hồn nhập tử quan 只 聞 千 萬 去 Chỉ văn thiên vạn khứ 不 見 一 人 還 Bất kiến nhất nhân hoàn
6 寶 馬 空 嘶 立 Bảo mã không tê lập 庭 花 永 絕 攀 Đình hoa vĩnh tuyệt phàn 早 求 無 上 道 Tảo cầu vô thượng đạo 應 免 四 方 山 Ưng miễn tứ phương sơn. Tinh phách biệt đường sống Du hồn vào tử quan Chỉ thấy vạn người mất Không một người quy hoàn Ngựa quý không dây buộc Hoa đình không thể vin Sớm cầu Đạo vô thượng Miền núi ép vô tình. Không kể địa vị cao thấp trong xã hội, giầu hay nghèo, bạn đều không thoát khỏi kết cục là tử vong. Có người do thiện nghiệp không bệnh mà mất, có người chịu đau khổ bệnh tật mà mất, có người vì thiên tai mà mất, không kịp trở tay. Do đó tử vong là một bi ai, không thể tránh được. Bài thi này của Phó đại sĩ miêu tả sự bi ai của tử vong. Một khi qua đời, hồn bị nghiệp dẫn dắt đi thọ báo. Cả vạn người chết, không thấy một người trở lại. Mộ nơi cỏ hoang trong gió vi vu. Lúc sống cưỡi ngựa quý, nay người ở đâu? Hoa trong đình viện chỉ tự nở, tự tàn không người thưởng thức. Đối với người sống mà nói, biết mình phải trải qua bốn loại khổ : sanh, lão, bệnh, tử sao không sớm theo diệu Đạo mà giải thoát?
7 Phó đại sĩ đối với mỗi giai đoạn đều mô tả tường tận, phải dụng công tu Đạo thì mới thoát được khổ của sáu đường luân hồi và thấy được cái vui của giải thoát thực sự.