Size: px
Start display at page:

Download ""

Transcription

1 PHÁP LUÂN CÔNG 法輪功 Lý Hồng Chí 李洪志

2

3 MỤC LỤC Chương I Khái luận...1 I. Khởi nguồn của khí công...1 II. Khí và công...2 III. Công lực và công năng Công lực là dựa vào tu tâm tính mà xuất lai Công năng không phải là truy cầu của người luyện công Nắm giữ công lực...4 IV. Thiên mục Khai thiên mục Tầng thứ của thiên mục Dao thị Không gian...8 V. Trị bệnh bằng khí công và trị bệnh ở bệnh viện...9 VI. Khí công Phật gia và Phật giáo Khí công Phật gia Phật giáo...11 VII. Chính Pháp và tà pháp Bàng môn tả đạo Khí công võ thuật Phản tu và tá công Vũ trụ ngữ Tín tức phụ thể Công pháp ngay chính cũng có thể luyện ra tà pháp...14 Chương II Pháp Luân Công...15 I. Tác dụng của Pháp Luân...15 II. Hình thái cấu thành của Pháp Luân...16 III. Đặc điểm tu luyện Pháp Luân Công Pháp luyện người Tu luyện chủ ý thức Luyện công không chú trọng phương hướng, thời gian...18 IV. Tính mệnh song tu Cải biến bản thể Pháp Luân chu thiên Thông mạch...20 V. Ý niệm...21 VI. Tầng thứ tu luyện Pháp Luân Công Tu luyện tầng thứ cao Hình thức biểu hiện của công Tu luyện xuất thế gian pháp...23 Chương III Tu luyện tâm tính...24 I. Nội hàm của tâm tính...24 II. Mất và được...25 III. Tu Chân-Thiện-Nhẫn đồng thời...27 IV. Vứt bỏ tâm tật đố...27 V. Tống khứ tâm chấp trước...28 VI. Nghiệp lực Sự sinh ra của nghiệp lực...30

4 2. Tiêu nghiệp...31 VII. Chiêu ma...33 VIII. Căn cơ và ngộ tính...33 IX. Tâm thanh tĩnh...35 Chương IV Các bài công pháp Pháp Luân Công...37 I. Phật Triển Thiên Thủ pháp...37 II. Pháp Luân Trang pháp...42 III. Quán Thông Lưỡng Cực pháp...44 IV. Pháp Luân Chu Thiên pháp...46 V. Thần Thông Gia Trì pháp...48 Một số yêu cầu cơ bản và điều cần chú ý của tu luyện Pháp Luân Công...54 Chương V Trả lời nghi vấn...56 I. Pháp Luân và Pháp Luân Công...56 II. Công lý và công pháp...58 III. Tu luyện tâm tính...70 IV. Thiên mục...73 V. Ma nạn...77 VI. Không gian và nhân loại...78

5 Chương I Khái luận Khí công ở nước ta có nguồn gốc xa xưa, có lịch sử rất lâu dài, vì thế, nhân dân nước ta tu luyện khí công là có điều kiện hậu đãi trời ban. Về tu luyện khí công chính Pháp của hai gia lớn là Phật gia và Đạo gia, [nay] đã công khai rất nhiều đại pháp bí truyền rồi. Những phương pháp tu luyện của Đạo gia rất độc đáo đặc biệt; Phật gia cũng có những phương pháp tu luyện của mình. Pháp Luân Công là đại pháp tu luyện tầng thứ cao của khí công Phật gia. Tại lớp học truyền thụ này, trước tiên tôi cần điều chỉnh thân thể mọi người cho đến trạng thái thích hợp với tu luyện lên tầng thứ cao, sau đó còn cần cài Pháp Luân và khí cơ lên thân [thể] mọi người, và còn dạy công pháp cho mọi người nữa. Ngoài đó ra, tôi còn có những Pháp thân bảo hộ chư vị. Tuy nhiên, chỉ ngần ấy thôi vẫn rất là không đủ, vẫn không thể đạt mục đích tăng trưởng công, vẫn cần yêu cầu mọi người phải hiểu rõ đạo lý tu luyện tầng thứ cao. Đó chính là nội dung mà cuốn sách này cần giảng đến. Tôi giảng công ở tầng thứ cao, do đó tôi không giảng về tu cái mạch nào, cái huyệt nào, hay đường kinh lạc nào; tôi là giảng tu luyện Đại Pháp, là Đại Pháp tu luyện chân chính lên tầng thứ cao. Mới nghe có thể cảm thấy huyền [hoặc], nhưng đối với người có chí tu luyện khí công, chỉ cần cẩn thận thể ngộ, thì [sẽ thấy] những điều huyền diệu đều ở trong đó. I. Khởi nguồn của khí công Khí công mà chúng ta hiện nay nói đến ấy, trên thực tế không hề gọi là khí công. Nó là từ nguồn gốc tu đơn độc của người cổ đại Trung Quốc, hoặc từ tu luyện của tôn giáo. Hãy giở hết những cuốn sách Đan Kinh, Đạo Tạng, hãy giở hết những cuốn Đại Tạng Kinh, cũng không tìm thấy hai chữ khí công này. Trong sự phát triển cho đến giai đoạn ở mức độ này của văn minh nhân loại hiện nay, nó đã trải qua thời kỳ sơ khởi của tôn giáo. Trước khi hình thành tôn giáo, đã tồn tại khí công rồi. Sau khi có tôn giáo, nó mang theo màu sắc của tôn giáo ở mức nào đó. Những tên nguyên gốc của nó là Tu Phật Đại Pháp, Tu Đạo Đại Pháp ; còn có những tên khác như Cửu Chuyển Kim Đan Thuật, La Hán Pháp, Kim Cương Thiền. Hiện nay chúng ta gọi nó là khí công, là để thích hợp hơn với ý thức con người hiện đại chúng ta, là để dễ phổ cập hơn ở xã hội. Thực chất nó là những điều thuần tuý tu luyện [thân] thể người của Trung Quốc chúng ta. Khí công không phải là nhân loại chúng ta lần này phát minh, nó có lịch sử với niên đại rất xa xưa. Vậy khí công sinh ra từ thời gian nào? Có người giảng rằng khí công có lịch sử ba nghìn năm, thịnh hành vào triều đại nhà Đường. Có người giảng rằng có lịch sử năm nghìn năm, cũng xa xưa như văn hoá dân tộc Trung Hoa. Có người giảng, xét từ những văn vật khai quật được, nó có lịch sử bảy nghìn năm. Tôi nhìn nhận rằng khí công không phải do nhân loại hiện đại phát minh, nó là văn hoá tiền sử. Căn cứ theo người có công năng tra cứu, vũ trụ mà chúng ta đang sống đã trải qua chín lần tổ hợp lại sau khi tạc nổ. Tinh cầu mà chúng ta đang sống từng bị huỷ diệt nhiều lần. Sau mỗi lần tinh cầu tổ hợp lại mới, thì nhân loại lại sinh sôi lại mới. Hiện nay, chúng ta đã phát hiện thế giới có rất nhiều thứ vượt khỏi văn minh hiện đại. Chiểu theo thuyết tiến hoá của Darwin, loài người là do người vượn tiến hoá thành, văn minh là cũng không quá một vạn năm. Nhưng từ những văn vật khai quật thì phát hiện rằng, trong động đá dãy núi Apls ở châu Âu có những bức bích hoạ hai mươi lăm vạn năm trước, có giá trị thưởng thức nghệ thuật cao, mà người hiện đại không theo kịp. Tại Bảo tàng của Đại học Quốc gia của Peru có một I. Khởi nguồn của khí công 1

6 khối đá lớn, trên đó khắc hình một người, tay đang cầm kính viễn vọng quan sát thiên thể. Hình người này đã có hơn ba vạn năm lịch sử. Như mọi người biết, Galiléo, năm 1609 ông ấy phát minh ra kính viễn vọng thiên văn phóng đại ba mươi lần, tính đến nay chẳng qua là hơn ba trăm năm lịch sử, vậy ba vạn năm trước ở đâu có được kính viễn vọng? Ấn Độ có một cây cột sắt, độ thuần của hàm lượng sắt trên 99%. Theo kỹ thuật nấu luyện hiện nay cũng không thể luyện ra được sắt với độ thuần cao như thế, đã vượt khỏi chuẩn mực khoa học kỹ thuật hiện đại. Là ai đã sáng tạo ra văn minh đó? Bấy giờ nhân loại có lẽ vẫn còn là vi sinh vật, làm sao có thể chế tạo những thứ ấy? Phát hiện ra những điều ấy, đã dấy lên coi trọng của các nhà khoa học các nước trên thế giới. Vì không giải thích nổi, nên bèn gọi những thứ đó là văn hoá tiền sử. Chuẩn mực khoa học của mỗi thời kỳ là khác nhau, có thời kỳ nó khá là cao, vượt khỏi chuẩn mực của nhân loại hiện đại chúng ta. Nhưng những văn minh đó bị huỷ diệt rồi, vì thế tôi nói, khí công không phải do người hiện đại chúng ta phát minh ra, không phải người hiện đại sáng tạo ra, mà là được người hiện đại phát hiện và hoàn thiện, nó là văn hoá tiền sử. Khí công không hề là sản vật riêng của Trung Quốc, ngoại quốc cũng có. Nhưng họ không gọi là khí công, các nước phương Tây gọi đó là ma thuật, ở các nước như Mỹ quốc, Anh quốc thì người ta gọi như vậy. Tại Mỹ có một nhà ảo thuật, thực ra anh này là một đại sư có công năng đặc dị, đã từng biểu diễn đi xuyên qua tường của Vạn Lý Trường Thành. Bấy giờ khi anh ta xuyên qua thì lấy tấm vải trắng che chắn [tầm nhìn của khán giả], rồi áp vào bức tường thành, sau đó anh ta xuyên qua. Vì sao anh ta làm như thế? Làm theo cách đó, thì nhiều người xem, và hiểu đó là ảo thuật. Vì anh ta không làm thế cũng không được. Anh ta biết rằng Trung Quốc chúng ta có rất nhiều cao nhân, anh ta e rằng sẽ bị can nhiễu, do đó anh ta che mình lại rồi mới đi vào. Đến khi đi ra, bèn duỗi một tay ra, mở tấm vải và người bèn đi ra. Trong nghề nhìn chiêu pháp, ngoài nghề nhìn náo nhiệt, khán giả thì nhìn nhận rằng đó là ma thuật. Họ sở dĩ gọi những thứ đó là ma thuật, bởi vì họ không dùng những thứ ấy để tu luyện thân thể, mà dùng để biểu diễn trên sân khấu hiển thị ra những điều thần kỳ và giải trí. Như vậy, từ tầng thứ thấp mà giảng, khí công là cải biến tình trạng của thân thể, đạt được mục đích trừ bệnh khoẻ thân; từ tầng cao mà giảng, thì khí công là nói về tu luyện bản thể. II. Khí và công Khí 氣 mà hiện nay chúng ta nói ấy, thì người xưa gọi đó là khí 炁, về bản chất đều là như nhau, đều là nói về khí của vũ trụ, là nói về một loại vật chất vô hình vô tướng trong vũ trụ này. Nó không phải nói về khí của không khí này. Thân thể người thông qua tu luyện, thì điều động được năng lượng của chủng loại vật chất ấy, có thể cải biến tình trạng của thân thể người, đạt tác dụng trừ bệnh khoẻ thân. Tuy nhiên, khí chỉ là khí, người này cũng có khí, người kia cũng có khí, giữa khí và khí với nhau là không có tác dụng chế ước. Có người giảng rằng khí có thể trị bệnh; hoặc nói rằng bạn hãy phát một chút khí vào ai đó, trị bệnh cho họ xem sao. Những thuyết nói đó rất không khoa học, vì khí hoàn toàn không trị nổi bệnh. Người luyện công khi ở trên thân vẫn còn khí, thì nói lên rằng thân thể họ vẫn chưa phải là nãi bạch thể, thuyết minh rằng họ vẫn có bệnh. Người luyện tới công phu cao rồi, họ phát xuất ra không phải là khí, mà là các đám năng lượng cao, là biểu hiện vật chất cao năng lượng có hình thức ánh sáng, những hạt của nó rất nhỏ, mật độ rất lớn, đó chính là công, bấy giờ mới có thể có tác dụng chế ước với người thường, mới có thể chữa bệnh cho người. Có câu rằng: Phật quang phổ chiếu, lễ nghĩa viên minh. Ý tứ là đối với người tu luyện chính Pháp mà nói, năng lượng mà họ mang theo rất là lớn, ở những chỗ họ đi qua, trong phạm vi mà năng lượng của họ che 2 Chương I Khái luận

7 phủ, thì có thể chỉnh lại cho chính tất cả những trạng thái bất thường, khiến cho biến thành trạng thái bình thường, Ví dụ như thân thể người kia có bệnh, chính là trên thân thể có trạng thái bất thường, hiệu chỉnh loại trạng thái bất bình thường ấy thì bệnh cũng tiêu trừ. Nói một cách thông tục, công chính là năng lượng. Công có mang tính vật chất, người luyện công thông qua tu luyện, có thể cảm nhận được sự tồn tại khách quan của nó. III. Công lực và công năng 1. Công lực là dựa vào tu tâm tính mà xuất lai Cái công mà thật sự quyết định tầng thứ công lực của người ta là không phải luyện mà xuất lai, nó là dựa vào chủng vật chất đức này chuyển hoá thành, dựa vào tu tâm tính mà xuất lai. Quá trình chuyển hoá này cũng không phải luyện ra như an đỉnh thiết lư, thái dược luyện đan mà người thường vẫn tưởng tượng. Công mà chúng ta nói ấy là sản sinh ở ngoài [thân] thể, bắt đầu từ nửa dưới của [thân] thể người, rồi thuận theo tâm tính đề cao mà mà tăng trưởng lên dưới dạng thức xoáy ốc, hoàn toàn hình thành ngoài [thân] thể, sau đó hình thành cột công trụ trên đỉnh đầu. Công trụ cao ngần nào, thì chính là quyết định cá nhân ấy có công cao ngần nấy. Công trụ ở không gian rất ẩn giấu, người bình thường không dễ nhìn thấy được. Công năng dựa vào gia trì của công lực, người có công lực cao, tầng thứ cao thì công năng lớn, và vận dụng được thuận ý; người mà công lực thấp thì công năng nhỏ, vận dụng không thuận ý, thậm chí vận dụng không nổi. Bản thân công năng không hề đại biểu cho công lực của người ta là lớn hay nhỏ, tầng thứ cao hay thấp. Quyết định tầng thứ một người là cao hay thấp ấy là công lực chứ không phải công năng. Có người luyện khi bị khoá, công lực của họ rất là cao, nhưng không nhất định có mấy công năng. Công lực là có tác dụng quyết định, là dựa vào tu tâm tính mà xuất lai, đây là điều then chốt nhất. 2. Công năng không phải là truy cầu của người luyện công Tất cả những người luyện công đều quan tâm công năng, thần thông có sức dụ hoặc rất lớn ở xã hội, rất nhiều người đều muốn có được công năng nào đó. Tuy nhiên, tâm tính mà không tốt, thì sẽ không có những công năng ấy. Một số công năng là người thường có thể có, chẳng hạn như mở thiên mục, thông thiên nhĩ, truyền cảm tư duy, công năng tiên đoán, v.v. Nhưng những công năng đó mỗi người một khác, và không có được toàn bộ trong trạng thái tiệm ngộ. Một số công năng là người thường không thể có được, chẳng hạn như khiến một loại vật thể của không gian hiện thực này biến thành một loại vật thể khác, đó là điều người thường không thể có. Các đại công năng là dựa vào hậu thiên luyện mà thành. Pháp Luân Công là chiểu theo nguyên lý của vũ trụ mà diễn hoá mà thành, công năng nào tồn tại trong vũ trụ thì đều có trong Pháp Luân Công, [có được nó hay không] ấy là xét xem người luyện công tu luyện thế nào. Suy nghĩ muốn đắc những công năng đó thì không có tính là sai, tuy nhiên, truy cầu mạnh mẽ, thì đã không phải lối nghĩ thông thường nữa rồi, chính là sẽ sinh ra hậu quả không tốt. Ở tầng thứ thấp mà đắc chút công năng thì không có được bao nhiêu tác dụng, chỉ muốn dùng thử, muốn hiển thị trước mặt người thường một chút bản sự, làm cường giả nơi người thường. Nếu là như thế, thì quả đã nói lên rằng tâm tính không cao, và không cấp công năng [cho người ấy] là đúng. Có một số công năng, nếu như cấp cho người có tâm tính bất hảo thì có thể dùng để làm việc xấu, vì tâm tính không vững vàng thì không cách nào đảm bảo rằng người kia sẽ không làm chuyện xấu. Một phương diện khác, hễ thuộc loại công năng có thể lấy ra biểu diễn, thì đều không thể dùng để cải biến xã hội nhân loại, không cải biến nổi cuộc sống bình thường của xã III. Công lực và công năng 3

8 hội. Công năng cao cấp chân chính thì không cho phép lấy ra biểu diễn, là vì ảnh hưởng và sự nguy hiểm của nó quá lớn. Chẳng hạn như không thể biểu diễn đánh sập một toà cao ốc. Đối với những công năng hết sức lớn, thì trừ phi là người mang theo sứ mệnh đặc thù mới được phép sử dụng, nếu không thì không được phép dùng, có lấy ra cũng không lấy ra được, vì phải chịu khống chế của thượng sư ở kia. Nhưng thường hay có người thường cứ muốn khí công sư phải biểu diễn, bức bách họ lấy ra cho xem. Người có công năng đều không muốn lấy công năng ra biểu diễn, là vì không được phép lấy ra, lấy ra sẽ ảnh hưởng trạng thái của toàn thể xã hội. Người thật sự có đức rất lớn, công năng của họ là không được phép lấy ra đâu. Một số khí công sư khi biểu diễn cảm thấy tâm tình rất khó chịu, sau khi họ quay về, thì chỉ hận không khóc lớn lên một hồi. Đừng bức bách họ biểu diễn! Họ đưa ra những thứ đó thì họ thấy rất khó chịu. Có học viên đưa tôi một cuốn tạp chí, tôi rất phản cảm khi thấy những thứ ấy. Ý là: khai mở hội nghị khí công quốc tế, ai có công năng thì có thể lấy ra và tham gia tỉ thí, và ai có công năng mạnh thì sẽ vào [hội nghị]. Tôi xem xong, thì trong tâm khó chịu đến mấy ngày. Những cái đó là không thể lấy ra tỉ thí được, lấy ra thì sau sẽ hối hận. Người thường kia họ là chú trọng những gì thực tế ở thế gian, nhưng khí công sư cần phải tự trọng. Mục đích muốn công năng là vì sao? Nó phản ánh ra cảnh giới tư tưởng và truy cầu của người luyện công, tư tưởng có chỗ truy cầu không thuần chính, không vững vàng, thì không thể đắc công năng cao. Trong đó có một nguyên nhân, ấy là khi chư vị chưa khai ngộ, thì cái tốt-xấu ở các sự vật mà chư vị nhìn thấy, chẳng qua là chiểu theo tiêu chuẩn thị-phi của thế gian Pháp mà thôi, chư vị không nhìn thấy chân tướng của sự việc, không thấy quan hệ nhân duyên của các việc. Những việc đánh chửi hay nạt dối giữa người với người là ắt phải có nhân duyên tồn tại, chư vị nhìn không thấu thì chỉ có thể là càng giúp càng hỏng việc. Nơi người thường thì ân ân oán oán, thị thị phi phi, đã tự có thế gian Pháp quản, người luyện công không nên quản. Là vì chư vị trước khi khai ngộ, thì chân tướng của những sự việc mà chư vị thấy trước mắt không nhất định giống như điều chư vị thấy đâu. Người này đánh người kia một đấm, có thể là họ đang kết toán nợ nghiệp, chư vị quản vào thì có thể cản trở việc họ kết toán nghiệp ấy. Nghiệp là một loại đen đen ở quanh thân thể, nó là tồn tại vật chất ở một không gian khác, những thứ đó có thể chuyển hoá thành bệnh hoặc tai ương. Ai ai cũng có công năng, vấn đề là phải thông qua tu luyện không ngừng mới khai phát và làm cho mạnh lên. Làm người luyện công, nếu chỉ truy cầu đắc được công năng, thì cái nhìn quá nhỏ hẹp, tư tưởng không thuần, dù họ muốn công năng để làm gì, thì trong đó đều bao hàm tư tâm, tất nhiên sẽ cản trở luyện công, và kết quả sẽ không đắc được công năng. 3. Nắm giữ công lực Có một số người luyện công mà thời gian luyện công chưa lâu, đã muốn trị bệnh cho người, thử xem có linh nghiệm không. Đối với người công lực không cao, chư vị hễ duỗi tay ra, liền đưa một lượng lớn khí đen, khí bệnh, khí ô trọc từ trong thân thể người bệnh hút lên thân của mình. Vì chư vị chưa có năng lực phòng ngự khí bệnh, trên thân không có lớp chắn bảo hộ, giữa [bản thân] và bệnh nhân hình thành một trường, công lực không cao thì không phòng bị được, bản thân sẽ cảm thấy rất khó chịu. Nếu không có ai quản chư vị, thì qua thời gian lâu, sẽ tạo thành khắp thân là bệnh. Vì thế, người mà công lực không cao, là không thể coi bệnh cho người khác. Trừ phi chư vị đã xuất ra công năng, đã có được công lực nhất định nào đó rồi, thì mới có thể dùng khí công chữa bệnh. Một số người tuy đã xuất công năng rồi, có thể khám bệnh rồi, nhưng khi mà tầng thứ rất thấp, thì thực tế chính là dùng công lực tồn trữ để khám bệnh, dùng năng lượng của tự thân để 4 Chương I Khái luận

9 khám bệnh. Bởi vì công chính là năng lượng, là linh thể, là không hề dễ dàng tích tồn được, mà lại đưa cái công ấy ra thì chính là tiêu hao bản thân mình. Cùng theo việc chư vị phát công ra ngoài, độ cao của công trụ trên đầu sẽ ngắn lại, đang tiêu hao, điều ấy rất là không đáng giá. Do đó, tôi không chủ trương rằng khi công lực chưa cao đã đi chữa bệnh cho người. Vô luận thủ pháp của chư vị cao đến mấy, vẫn là đang tiêu hao năng lượng tự thân. Công lực đến một trình độ nhất định, sẽ xuất hiện các loại công năng, sử dụng công năng đó ra sao, cũng phải hết sức cẩn thận. Chẳng hạn thiên mục khai mở rồi, không nhìn cũng không được, [vì] luôn luôn không dùng sẽ dễ bị đóng lại. Mà nhìn thì cũng không thể thường xuyên nhìn, [vì] nhìn nhiều quá thì năng lượng tiết ra cũng sẽ nhiều. Như vậy, phải chăng muốn mọi người vĩnh viễn không dùng? Tất nhiên không phải thế. Nếu vĩnh viễn không dùng thì tu luyện để làm chi? Vấn đề là khi nào dùng. Chỉ có tu luyện tới một trình độ nhất định, khi đã có năng lực tự bản thân mình bồi bổ, thì có thể dùng. Tu luyện Pháp Luân Công khi đến một trình độ nhất định, phát xuất ra bao nhiêu công, thì Pháp Luân có thể tự động diễn hoá để bổ sung, tự động bảo trì mức độ công lực của người luyện công, từng thời từng khắc sẽ không bị ít đi, đây là đặc điểm của Pháp Luân Công. Chỉ tới lúc đó, mới có thể sử dụng công năng. IV. Thiên mục 1. Khai thiên mục Đường thông chủ yếu của thiên mục là ở quãng giữa trước trán và sơn căn. Người thường dùng cặp mắt thịt nhìn các vật là đồng dạng như nguyên lý của máy ảnh, tuỳ theo cự ly xa gần và ánh sáng mạnh yếu, mà thông qua điều chỉnh thuỷ tinh thể hoặc là con ngươi lớn nhỏ, khiến cho hình tượng thông qua dây thần kinh mà truyền tạo hình ảnh lên thể tùng quả ở phía nửa sau bộ não. Công năng đặc dị thấu thị chính là thông qua thiên mục mà trực tiếp để cho thể tùng quả nhìn ra ngoài. Một người bình thường thì thiên mục không thông, ở vị trí đường thông chính được tách mở ra rất hẹp, rất tối, bên trong không có linh khí, không phát quang. Một số người bị tắc nghẽn, do đó nhìn không thấy. Chúng ta khai mở thiên mục, thứ nhất là thông qua ngoại lực hoặc tự mình tu luyện mà đánh mở ra một đường thông. Đường thông của mỗi cá nhân có hình dạng khác nhau, có hình bầu dục, hình tròn, hình quả trám, hình tam giác, luyện được càng tốt thì có thể tu được càng tròn. Thứ hai là do sư phụ cho chư vị một con mắt, nếu như là bản thân tự tu thì cần phải tự mình tu [thành con mắt đó]. Thứ ba là ở bộ vị thiên mục cần có khí tinh hoa. Thông thường chúng ta nhìn các thứ là thông qua cặp mắt này để nhìn, chính là cặp mắt này đã cách trở chúng ta thông hướng sang đường thông [nhìn] không gian khác, nó có tác dụng che chắn, và chúng ta chỉ có thể thấy những gì ở không gian vật chất này của chúng ta. Khai thiên mục chính là tránh khỏi cặp mắt này để nhìn. Sau khi tới tầng thứ rất cao, cũng có thể tu xuất chân nhãn, chính là có thể dùng chân nhãn của thiên mục để nhìn hoặc dùng chân nhãn vị trí sơn căn để nhìn. Theo Phật gia giảng: mỗi lỗ chân lông đều là con mắt, toàn thân đều là con mắt. Chiểu theo Đạo gia giảng: mỗi huyệt vị đều là con mắt. Nhưng đường thông chính ở thiên mục, cần khai mở nó trước tiên. Trên lớp truyền thụ, tôi đều cài cho mỗi người những gì để khai thiên mục. Vì mỗi người tố chất thân thể khác nhau, nên hiệu quả xuất hiện cũng khác nhau. Có người nhìn thấy một hắc động tựa như một cái giếng sâu, vậy là đường thông của thiên mục là tối đen. Có người nhìn thấy thông đạo màu trắng, còn nếu nhìn thấy trước mặt có gì đó thì tức là sắp khai mở rồi. Có người nhìn thấy có gì đó đang xoay chuyển, đó chính là thứ mà Sư phụ đã cài IV. Thiên mục 5

10 vào để khai thiên mục, sau khi xoáy thông toàn bộ thiên mục thì có thể nhìn được rồi. Có người thiên mục có thể nhìn nhấy một con mắt lớn, bèn cho đó là mắt Phật, thực ra đó là con mắt của chính họ, đây thường là những người có căn cơ tiên thiên tương đối tốt. Theo chúng tôi thống kê, mỗi lần mở lớp thì số người khai mở thiên mục đều hơn một nửa. Vì thiên mục sau khi khai mở liền động chạm một vấn đề: người tâm tính không cao dễ dùng nó để làm điều xấu. Để phòng ngừa vấn đề đó, tôi trực tiếp đánh khai thiên mục của chư vị tới tầng thứ huệ nhãn thông, nghĩa là tới tầng thứ cao, để chư vị trực tiếp nhìn thấy cảnh tượng không gian khác, để chư vị nhìn thấy những gì xuất hiện trong luyện công, để chư vị tin tưởng, sẽ tăng cường tín tâm vào luyện công cho chư vị. Người vừa mới bắt đầu luyện công, tâm tính vẫn chưa thể đạt tới độ cao vượt khỏi người thường, một khi có được những thứ siêu việt người thường này, sẽ dễ đi làm một số việc bất hảo. Ví dụ nói đùa thế này, nếu chư vị đi ngoài đường phát hiện ra đang bán vé số, có thể chư vị sẽ cầm ngay vé giải nhất, là nói ý tứ như thế, ấy là không cho phép làm vậy. Một nguyên nhân khác, chúng ta ở đây cũng thuộc về khai thiên mục cho diện rộng, nếu giả sử đều khai mở ở tầng thứ thấp, mọi người thử nghĩ xem, nếu mỗi người đều có thể thấu thị nhân thể, đều có thể cách tường khán vật, tôi thử hỏi còn là xã hội nhân loại chăng? Can nhiễu nghiêm trọng trạng thái xã hội người thường, do đó không được phép, cũng là không thể làm như thế được, ngoài ra đối với người luyện công cũng không có chỗ gì tốt, làm tăng trưởng tâm chấp trước của người luyện công. Do đó không đả khai cho chư vị ở tầng thứ thấp, mà trực tiếp đả khai cho chư vị tới tầng thứ cao. 2. Tầng thứ của thiên mục Thiên mục có nhiều loại tầng thứ. Tầng thứ khác nhau, không gian nhìn được cũng khác nhau. Theo ngũ thông mà Phật giáo giảng, tức là nhục nhãn thông, thiên nhãn thông, huệ nhãn thông, Pháp nhãn thông, và Phật nhãn thông. Mỗi tầng thứ còn có phân ra thượng, trung, hạ. Ở tầng thứ thiên nhãn thông trở xuống, chỉ có thể nhìn thấy thế giới vật chất này của chúng ta. Tại tầng thứ huệ nhãn thông trở lên, mới có thể nhìn thấy các không gian khác. Một số người có công năng thấu thị, hơn nữa nhìn rất chuẩn xác, còn rõ ràng hơn cả quét ảnh cắt lớp CT. Nhưng điều họ thấy vẫn là thế giới vật chất chúng ta này thôi, vẫn không vượt khỏi không gian mà chúng ta đang tồn tại, vẫn không tính là thiên mục có tầng thứ cao. Một người có tầng thứ thiên mục cao ngần nào là quyết định bởi người đó có khí tinh hoa nhiều hay ít và đường thông chính rộng hay hẹp, độ sáng cũng như mức độ tắc nghẽn của đường thông. Thiên mục khai mở có thấu hay không, thì khí tinh hoa ở trong đó là nhân tố then chốt. Đối với em bé sáu tuổi trở xuống, khai thiên mục hết sức dễ dàng, tôi chẳng cần dùng thủ pháp, tôi nói một cái thì bé đã đả khai rồi. Là vì tiên thiên của trẻ tiếp thụ rất ít ảnh hưởng không lành mạnh của thế giới vật chất này, bản thân cũng chưa làm chuyện gì xấu, loại khí tinh hoa tiên thiên kia được bảo tồn tốt lắm. Trẻ nhỏ sáu tuổi trở lên, thì thiên mục dần dần khó khai mở hơn, bởi vì thuận theo tuổi tăng lên, tiếp thụ ảnh hưởng từ bên ngoài cũng gia tăng. Nhất là giáo dục không lành mạnh hậu thiên, phóng túng trở thành xấu có thể khiến khí tinh hoa của họ tiêu tán, đến một mức nhất định có thể tản hết. Đối với người mà khí tinh hoa đã tản hết, là có thể thông qua tu luyện hậu thiên mà bù đắp dần dần, nhưng phải mất thời gian rất lâu, phải phó xuất khổ cực rất nhiều. Vậy nên nói, khí tinh hoa là cực kỳ trân quý. Tôi không chủ trương khai thiên mục cho người ở tầng thứ thiên nhãn thông, vì người luyện công khi mà công lực không lớn, thì trong luyện công năng lượng tích tụ không nhiều kịp với năng lượng phải phó xuất khi thấu thị. Linh khí tản mất nhiều rồi, thiên mục có thể sẽ bị đóng trở lại, một khi đóng lại rồi thì khai mở lại sẽ không hề dễ dàng. Vì thế, thường thường tôi khai thiên mục cho người là khai mở ở tầng thứ huệ nhãn thông. Dù 6 Chương I Khái luận

11 chư vị nhìn được rõ ràng hay không, đều có thể khiến người tu luyện nhìn tới gì đó ở không gian khác. Chịu ảnh hưởng của điều kiện tiên thiên, có người nhìn được rất rõ ràng; có người mà điều nhìn thấy chợt ẩn chợt hiện; có người nhìn chẳng rõ ràng, nhưng thấp nhất là có thể khiến chư vị nhìn thấy ánh sáng. Như vậy thì đối với người luyện công phát triển hướng tới tầng thứ cao là có chỗ tốt, nhìn không rõ ràng thì có thể thông qua luyện công hậu thiên mà bù đắp. Người có khí tinh hoa không đủ, cảnh tượng thiên mục nhìn thấy là đen-trắng; người có khí tinh hoa tương đối nhiều, cảnh tượng thiên mục nhìn thấy có màu, cảnh tượng nhìn thấy cũng rõ ràng hơn. Khí tinh hoa càng nhiều, độ rõ ràng càng cao. Tuy nhiên, mỗi người một khác, có người khi sinh ra thiên mục đã mở rồi, có người bị đóng tắc khá là chặt. Cảnh tượng khi thiên mục khai mở, có chút giống như hoa nở, nở ra từng tầng từng tầng. Khi ngồi đả toạ, bắt đầu phát hiện thiên mục có một đoàn ánh sáng, ban đầu ánh sáng không sáng lắm, sau đó đỏ lên. Có người thiên mục bế tắc khá chặt, khi khai mở thì có thể là phản ứng rất kịch liệt. Sẽ cảm thấy đường thông chính và chỗ sơn căn thịt căng lên, giống hệt như thịt chỗ đó tụ lại xoáy vào trong, huyệt thái dương và trước trán phát trướng lên và đau, đó đều là phản ứng khai thiên mục. Người mà thiên mục dễ khai mở, ngẫu nhiên có thể thấy gì đó. Tại lớp truyền thụ có người trong lúc vô ý nhìn thấy Pháp thân của tôi, khi họ cố ý nhìn thì lại không thấy nữa, thực ra là vì dùng sang mắt [thịt] để nhìn rồi. Khi nhắm mắt và thấy gì đó, bèn thuỷ chung bảo trì trạng thái đó, dần dần có thể thấy được rõ hơn. Khi định nhìn chi tiết hơn, kỳ thực chính là động sang con mắt [thịt] này rồi, chạy sang dây thần kinh thị giác rồi, thì không nhìn thấy nữa. Tầng thứ thiên mục khác nhau thì không gian nhìn thấy cũng khác nhau, có những khoa nghiên cứu [vì] không hiểu đạo lý này, khiến những khí công sư thí nghiệm không đạt hiệu quả dự kiến, thậm chí xuất hiện những kết quả tương phản. Ví như, có một đơn vị định kế hoạch ra một phương pháp trắc nghiệm công năng đặc dị, để khí công sư nhìn xem trong một cái hộp kín có gì. Vì tầng thứ thiên mục của các khí công sư là khác nhau, nên kết quả trả lời cũng không tương đồng, vì thế, nhân viên trắc nghiệm bèn cho rằng thiên mục là giả, là gạt người. Loại trắc nghiệm này thì người có thiên mục tầng thứ thấp thấu thị là hiệu quả tốt, vì thiên mục của họ chỉ khai mở ở tầng thứ thiên nhãn thông, chỉ thích nghi cho quan sát sự vật ở không gian vật chất này, do đó người mà không hiểu thiên mục lại tưởng rằng công năng của họ là cao nhất. Bất kể vật thể nào, vô luận nó là vật hữu cơ hay vật vô cơ, thì ở các không gian khác nhau đều hiển thị các dạng khác nhau. Ví dụ một cái cốc, khi nó được sản xuất ra, thì đồng thời có một linh thể tồn tại ở một không gian khác, hơn nữa linh thể ấy trước khi tồn tại [trong cái cốc] có thể đã từng là thứ khác. Tầng thứ thiên mục thấp nhất thì nhìn thấy cái cốc; ở một tầng cao hơn thì nhìn thấy linh thể kia ở không gian khác, ở một tầng cao hơn nữa thì thấy hình thức vật chất từ trước đó của linh thể ấy. 3. Dao thị Sau khi khai thiên mục, có người xuất hiện dao thị, có thể nhìn thấy những thứ cách xa nghìn dặm. Mỗi người đều có một không gian do riêng mình chiếm cứ, trong không gian ấy họ lớn tựa như vũ trụ vậy, trong không gian đặc định của họ, ở trước trán họ có một chiếc gương, mà ở không gian chúng ta đây thì không nhìn thấy. Ai cũng có chiếc gương đó, chỉ là người không luyện công thì mặt gương này bị úp lại; người luyện công thì mặt gương này dần dần lật qua. Sau khi lật thì có thể chiếu xạ những gì mà họ muốn nhìn. Trong không gian đặc định của họ, thì họ khá to lớn, thân thể họ rất là lớn, và mặt gương ấy cũng rất to lớn, muốn nhìn gì thì mặt kính đó đều có thể chiếu tới. Nhưng chiếu tới rồi họ vẫn chưa nhìn thấy được, hình tượng vẫn là dừng ở trên mặt kính ở trong tích tắc đó. Khi mặt kính chuyển lật, đưa những vật thể chiếu xạ ấy cho chư vị nhìn một cái IV. Thiên mục 7

12 rồi lại lật qua, rất nhanh chóng liền lật qua, không ngừng lật qua lật lại. Phim điện ảnh mỗi giây 24 hình thì nhìn là động tác liên tục. Tốc độ lật của gương còn nhanh hơn thế, do đó nhìn thì thấy là liên tục, nhìn được rất rõ ràng, đây chính là dao thị. Đạo lý của dao thị chính là đơn giản vậy. Đó vốn là bí mật trong bí mật, tôi qua mấy lời là nói điều ấy ra rồi. 4. Không gian Không gian, chúng ta nhìn nó rất phức tạp. Nhân loại chúng ta chỉ biết về không gian mà nhân loại hiện đang tồn tại, các không gian khác là vẫn không cách nào thăm dò ra được. Đối với không gian khác, khí công sư chúng tôi đã nhìn được mấy chục tầng thứ không gian, từ lý luận cũng có thể giải thích được, nhưng về khoa học thì không cách nào chứng thực. Có những điều dù chư vị không thừa nhận sự tồn tại của chúng, nhưng chúng đã phản ánh một cách hết sức thực tại đến không gian chúng ta rồi. Chẳng hạn, trên thế giới có nơi gọi là quần đảo Bermuda, người ta gọi đó là tam giác ma quỷ, một số tàu thuyền đến đó liền biến mất; có những phi cơ đến đó cũng biến mất, trải qua bao nhiêu năm lại xuất hiện. Không ai giải thích được nguyên nhân, không ai vượt ra khỏi lý luận của tư duy mà nhân loại đang có. Trên thực tế nó chính là lối thông sang một không gian khác. Nó không giống như chiếc cửa của chúng ta có cửa một cách chính quy đâu, nó trong tình huống bất thường là ở trạng thái đó, tàu thuyền tiến vào thì cửa đó tình cờ mở ra, dễ bị lọt vào đó. Người ta cảm giác không ra sự sai khác về không gian này, nháy mắt liền tiến vào đó, sự khác biệt của nó với thời-không chúng ta, là không thể dùng cách đo lường bình thường để biểu thị, xa cách mười vạn tám nghìn dặm, thì ở đây chỉ là một điểm, chính là tồn tại một cách đồng thời và ở cùng một chỗ. Tàu thuyền lọt vào đó loanh quanh một hồi, bất chợt lại đi ra, nhưng ở thế gian này có thể đã trôi qua mấy chục năm rồi, vì hai không gian là có thời gian khác nhau. Trong mỗi không gian còn có thế giới đơn nguyên, chính là như hình kết cấu nguyên tử mà chúng ta vẽ, giữa các quả cầu có mối liên kết, giao thoa cả bảy tám hình cầu, đều có liên kết, chính là rất phức tạp 1. Bốn năm trước khi Đại chiến Thế giới lần thứ hai, Không quân Anh quốc có một phi công đi chấp hành nhiệm vụ, trên đường đụng phải cơn bão lớn, dựa vào kinh nghiệm của mình anh này bèn tìm một phi trường bỏ hoang. Khi phi trường này xuất hiện ở trước mắt, đột nhiên là một cảnh tượng khác, đột nhiên bầu trời trong sáng không còn mây nữa, tựa như lọt vào một thế giới khác. Các phi cơ ở trên phi trường có hình vẽ màu vàng, trên mặt đất có người bận rộn qua lại, anh này cảm thấy quá kỳ lạ! Hạ cánh xuống thì không ai để ý đến anh cả, tháp chỉ huy cũng không liên lạc với anh. Anh thấy trời đã tạnh rồi, bèn nhanh chóng rời đi, anh lại bay lên. Khi bay tới khoảng cách bằng với cự ly mà từ đó anh nhìn thấy phi trường ấy trước đó không lâu, thì lập tức lại tiến vào cơn bão. Rốt cuộc cũng quay trở về. Anh này báo cáo tình huống, cả nhật ký phi hành cũng chép ra, cấp trên không tin. Bốn năm sau, Đại chiến Thế giới lần thứ hai nổ ra. Điều động anh tới phi trường bỏ hoang kia. Anh liền nhớ lại cảnh tượng bốn năm về trước là cũng giống như thế. Những khí công sư chúng tôi đều biết đó là chuyện gì, anh này chính là đã chạy trước tới đó làm một phen những việc của bốn năm sau, anh chính là đã chạy tới đó và diễn trước một màn, trường diễn thứ nhất chưa bắt đầu anh đã diễn trước rồi, sau quay lại rồi diễn lại đúng thứ tự vốn có. 1 Trong đoạn văn này, lối nói của người Hoa, mười vạn tám nghìn dặm là nói về khoảng cách xa xôi lắm, chứ không nhất nhất là con số dặm. Tương tự, giao thoa bảy tám cái là nói giao thoa qua lại nhiều, phức tạp, rắc rối, chứ không nhất định là con số 7, số 8. Tất cả các ghi chú trong sách đều do người dịch soạn, chỉ để tham khảo. 8 Chương I Khái luận

13 V. Trị bệnh bằng khí công và trị bệnh ở bệnh viện Từ lý luận mà giảng, trị bệnh bằng khí công hoàn toàn khác với trị bệnh ở bệnh viện. Tây Y khám bệnh là dùng thủ pháp xã hội người thường, dù đó là hoá nghiệm, kiểm tra bằng X-quang hay thủ pháp gì, cũng đều chỉ có thể quan sát được nguồn bệnh ở không gian này, không nhìn thấy được các tín tức ở không gian khác, không thấy được nguyên nhân từ đó dẫn đến bệnh. Nếu bệnh của họ tương đối nhẹ, thuốc là có thể khiến nguyên nhân của bệnh (mà Tây Y giảng là do bệnh độc, khí công giảng là do nghiệp ) bị tiêu diệt hoặc gạt đi. Trong tình huống bệnh rất nặng, sức thuốc không giải quyết nổi, nếu tăng lượng thuốc thì người ta chịu không được. Là vì một số bệnh không giới hạn bên trong thế gian Pháp, có những bệnh lớn lắm, vượt khỏi phạm vi thế gian Pháp, cho nên bệnh viện không trị nổi. Trung Y là y học truyền thống của nước ta, không tách rời khỏi công năng đặc dị của tu luyện nhân thể. Thời cổ đại rất chú ý đến tu luyện thân thể người, Nho gia, Đạo gia, Phật gia, kể cả học sinh học Nho cũng giảng đả toạ. Ngồi đả toạ được xem là một loại công phu, dần dần qua thời gian, thì tuy không luyện công, nhưng cũng có thể xuất công và công năng. Châm cứu của Trung Y tại sao các đường kinh lạc được tìm ra rõ ràng rành mạch như thế? Tại sao giữa huyệt vị với nhau không nối theo hàng ngang? Tại sao không nối chồng chéo? Tại sao nối theo đường dọc? Tại sao vẽ miêu tả chuẩn xác đến như vậy? Người có công năng đặc dị thời hiện đại, dùng mắt nhìn sẽ thấy được giống như miêu tả trong Trung Y, nguyên nhân chính là các danh y cổ đại thường thường đều có công năng đặc dị. Lịch sử nước ta có Lý Thời Trân, Tôn Tư Mạc, Biển Thước, Hoa Đà, thực ra đều là những đại sư khí công có công năng đặc dị. Trung Y mà truyền tới hiện nay, đã rơi rớt phần công năng đó rồi, chỉ giữ lại các thủ pháp. Quá khứ Trung Y là dùng mắt (gồm cả công năng đặc dị) để khám bệnh, sau này mới tổng kết ra phương pháp bắt mạch. Nếu dùng thủ pháp khám bệnh của Trung Y rồi thêm trở lại vào đó phương pháp công năng đặc dị, thì có thể nói là trải qua rất nhiều năm nữa Tây Y của ngoại quốc cũng không theo kịp Trung Y của Trung Quốc. Trị bệnh bằng khí công là trừ rớt nguyên nhân của bệnh từ gốc rễ. Tôi nhìn nhận rằng bệnh chính là một loại nghiệp, trị bệnh chính là giúp đỡ tiêu nghiệp. Có những khí công sư trị bệnh bèn giảng rằng bài trừ khí đen, bài khí bổ khí, ở tầng thứ nông nhất thì họ loại bỏ khí đen rồi, nhưng nguyên nhân căn bản mà sinh ra khí đen kia thì họ không biết, nên khí đen kia lại trở lại, bệnh lại tái phát. Trên thực tế không phải do khí đen khiến họ có bệnh, sự tồn tại của khí đen chỉ khiến họ khó chịu thôi. Chứ nguyên nhân căn bản tạo thành bệnh của họ là ở không gian khác có một linh thể. Khá nhiều khí công sư không hiểu rõ chuyện này. Vì linh thể kia rất lợi hại, thông thường không động tới nó được, cũng không dám động tới. Pháp Luân Công chữa bệnh chính là hạ thủ nhắm thẳng vào linh thể đó, trừ bỏ cái gốc sinh bệnh đó đi, hơn nữa đặt một cái lồng chắn ở đó, không cho bệnh kia chui vào xâm thực lại nữa. Khí công có thể chữa bệnh, nhưng không thể can nhiễu trạng thái xã hội người thường. Nếu ứng dụng trên diện rộng thì chính là can nhiễu trạng thái xã hội người thường, điều đó không được phép, hiệu quả cũng sẽ không tốt. Mọi người biết, phàm là mở phòng khám khí công, bệnh viện khí công, trung tâm khôi phục sức khoẻ khí công, thì khi họ chưa bắt đầu trị liệu thì hiệu quả có thể là khá lắm, nhưng hễ bắt đầu chữa bệnh, thì hiệu quả kia sẽ lập tức rơi xuống rất nhiều, chính là [vì] không cho phép dùng Pháp mà siêu việt người thường để thay cho chức năng xã hội người thường. Làm thế thì ắt phải cũng thấp xuống giống như Pháp của xã hội người thường. Công năng đặc dị thấu thị nhân thể có thể nhìn được kiểu như cắt lớp, nhìn theo từng tầng từng tầng, có thể thấy được bất kể bộ phận nào của cơ quan mềm cũng như thân thể. V. Trị bệnh bằng khí công và trị bệnh ở bệnh viện 9

14 Quét ảnh CT hiện nay tuy có thể nhìn được rất rõ ràng, nhưng nó dù sao cũng là dùng cơ khí, rất tốn thời gian, tốn rất nhiều ảnh chụp, rất chậm, rất tốn tiền. Không thuận tiện và chuẩn xác như công năng đặc dị. Khí công sư nhắm mắt nhìn một cái, là có thể trực tiếp nhìn rõ ràng bất kể bộ phận nào của người bệnh. Đó chẳng phải khoa học kỹ thuật cao sao? Nó là khoa học kỹ thuật cao còn cao hơn khoa học kỹ thuật cao hiện nay. Vậy mà chuẩn mực ấy ngay ở Trung Quốc cổ đại đã là như thế rồi, là từ cổ đại đã có loại khoa học kỹ thuật cao ấy rồi. Hoa Đà nhìn thấy trong đầu Tào Tháo nảy sinh khối u, muốn mổ cho ông ta. Tào Tháo không tiếp thu, tưởng rằng muốn làm hại ông ấy, ông ta bèn bắt Hoa Đà giam vào ngục, kết quả Tào Tháo vẫn là chết vì khối u trong não. Trong lịch sử rất nhiều đại y học gia Trung Y đều có công năng đặc dị, chỉ là, ở xã hội hiện đại vì người ta quá truy cầu những thứ hiện thực, đã quên những truyền thống cổ xưa rồi. Tu luyện khí công tầng thứ cao của chúng ta, chính là nhận thức lại một lần mới những điều truyền thống, tiếp tục kế thừa và truyền rộng những điều ấy ra thực tiễn, một lần nữa dùng nó để tạo phúc cho xã hội nhân loại. VI. Khí công Phật gia và Phật giáo Một khi chúng tôi đề cập đến khí công Phật gia, khá nhiều người bèn liên tưởng tới một vấn đề: Phật gia là tu Phật, vậy bèn nghĩ tới những việc trong Phật giáo. Tại đây tôi trịnh trọng nói rõ ràng rằng, Pháp Luân Công là khí công Phật gia, là Đại Pháp chính truyền, nhưng không có quan hệ gì tới Phật giáo. Khí công Phật gia là khí công Phật gia, [mà] Phật giáo là Phật giáo, tuy rằng mục đích tu luyện là như nhau, nhưng đường lối khác nhau, Pháp môn khác nhau, yêu cầu cũng khác nhau. Ở đây tôi đề cập một chữ Phật, và sau này giảng công ở cao tầng tôi cũng sẽ đề cập nữa, bản thân chữ đó không có sắc thái mê tín gì. Có những người hễ nghe tới Phật thì liền khó tiếp thu, nói rằng các vị tuyên truyền mê tín ; không phải thế đâu. Bản thân chữ Phật là tiếng Phạn, được truyền từ Ấn Độ sang, phiên âm thành hai chữ đọc là Phật Đà (Buddha), [sau này] người ta lược đi chữ Đà, và đọc là Phật, dịch sang tiếng Trung Quốc thì nghĩa là Giác Giả, là người đã giác ngộ (xem [từ điển] «Từ Hải»). 1. Khí công Phật gia Khí công Phật gia được truyền ra hiện nay là có hai loại. Một loại là thoát ly ra từ Phật giáo, qua mấy nghìn năm phát triển đã xuất hiện rất nhiều cao tăng, họ trong quá trình tu luyện, khi tu tới tầng thứ rất cao, bèn có thượng sư truyền cho họ một số điều, đắc được những điều chân truyền của tầng thứ cao hơn. Những điều ấy trong Phật giáo trước đây đều là đơn truyền. Khi vị cao tăng sắp trăm tuổi [lâm chung] thì mới truyền cho một đệ tử, [họ] chiểu theo lý luận của Phật giáo mà tu, đề cao một cách chỉnh thể. Loại khí công này, xem ra có liên hệ khăng khít với Phật giáo. Về sau những tăng nhân bị đẩy khỏi chùa, chẳng hạn như thời Cách mạng Văn hoá, và những công pháp đó lưu lạc nơi dân gian, cũng phát triển lượng lớn ở dân gian. Một loại khác cũng là khí công Phật gia, loại khí công Phật gia này trong lịch sử không hề nhập vào Phật giáo, vẫn luôn tĩnh tu nơi dân gian hoặc trong núi sâu. Loại công pháp này đều có những chỗ độc đáo, nó đều yêu cầu là lựa chọn một đồ đệ tốt, là kẻ sỹ đại đức mà thật sự đầy đủ khả năng luyện lên tầng thứ cao. Người như thế hằng bao nhiêu năm mới có thể xuất thế một vị. Những công pháp đó không thể công khai, yêu cầu về tâm tính rất cao, công tăng lên cũng rất nhanh, có không ít công pháp loại này. Đạo gia cũng thế, cùng là các công [pháp] Đạo gia, phân thành các phái Côn Lôn, phái Nga Mi, phái Võ Đang, v.v. Trong mỗi phái còn có các pháp môn khác nhau, và mỗi môn công pháp đều khác nhau rất là xa, đều không thể trộn lẫn với nhau cùng luyện. 10 Chương I Khái luận

15 2. Phật giáo Phật giáo là một bộ những điều tu luyện do Thích Ca Mâu Ni quãng hơn hai nghìn năm trước tại Ấn Độ tự mình chứng ngộ trên cơ sở tu luyện mà ông vốn có. Nói khái quát chính là ba chữ Giới-Định-Huệ. Giới là vì Định. Phật giáo không giảng luyện công, mà thực tế là đang luyện công, họ ngồi định xuống ở đó thì là luyện công. Vì người ta hễ tĩnh lại hễ thu tâm, thì năng lượng vũ trụ sẽ tụ tập trên thân của họ, có tác dụng luyện công. Giới của Phật giáo, chính là giới cấm buông bỏ tất cả dục vọng của người thường, xả bỏ tất cả chấp trước người thường, từ đó đạt trạng thái vô vi thanh tĩnh, chính là có thể định lại được, từ trong định mà không ngừng đề cao tầng thứ, sau đó khai ngộ khai huệ, nhận thức vũ trụ, nhìn được tới chân tướng vũ trụ. Thích Ca Mâu Ni thời bắt đầu truyền Pháp mỗi ngày chỉ làm ba việc: giảng Pháp (điều được truyền chủ yếu là La Hán Pháp), và đệ tử nghe Pháp; sau đó là mang bình bát đi hoá duyên (khất thực); rồi sau đó đả toạ thực tu. Sau khi Thích Ca Mâu Ni không còn tại thế và sau khi trải qua đấu tranh giữa Bà La Môn giáo và Phật giáo, hai loại tôn giáo này hợp nhất thành một loại là Ấn Độ giáo, do đó ngày nay ở Ấn Độ không có Phật giáo. Trong quá trình diễn biến phát triển sau đó, đã xuất hiện Đại Thừa Phật giáo, lưu truyền vào nội địa Trung Quốc trở thành Phật giáo hiện nay [ở Trung Quốc]. Đại Thừa Phật giáo không chỉ tín [ngưỡng] Thích Ca Mâu Ni như là tổ tôn, mà còn tín ngưỡng nhiều vị Phật, tín ngưỡng rất nhiều vị Như Lai, Phật A Di Đà, Phật Dược Sư, v.v. Giới luật cũng nhiều lên, mục tiêu tu luyện cũng cao hơn. Bồ Tát Pháp do Thích Ca Mâu Ni thời bấy giờ đã truyền trong [một số] đệ tử cá biệt, sau này những điều ấy được chỉnh lý rồi phát triển thành Đại Thừa Phật giáo ngày nay, tu Bồ Tát giới. Bây giờ ở vùng Đông Nam Á vẫn bảo lưu truyền thống Tiểu Thừa Phật giáo, vận dụng thần thông làm các Pháp sự. Trong quá trình diễn biến của Phật giáo, có một chi đã truyền nhập vào Tây Tạng nước ta gọi là Tạng Mật ; một chi khác trải qua Tân Cương truyền nhập vào Hán địa và gọi là Đường Mật (sau thời diệt Phật trong những năm Hội Xương thì [Mật tông nhà Đường này] đã tiêu mất); một chi khác tại Ấn Độ mà hình thành Du Già công. Trong Phật giáo không giảng luyện công, cũng không luyện khí công, đó là để duy hộ phương pháp tu luyện truyền thống của Phật giáo, cũng là nguyên nhân trọng yếu để Phật giáo có thể truyền rộng suốt hơn hai nghìn năm mà không suy bại. Chính vì họ không tiếp thụ những thứ ngoại lai, nên mới dễ bảo lưu truyền thống của bản thân. Các pháp tu của Phật giáo cũng không hoàn toàn tương đồng. Tiểu Thừa Phật giáo nghiêng về tự độ, tu tự thân; Đại Thừa Phật giáo đã phát triển đến độ kỷ độ nhân, phổ độ chúng sinh. VII. Chính Pháp và tà pháp 1. Bàng môn tả đạo Bàng môn tả đạo cũng [dùng để] gọi Kỳ Môn tu pháp. Trước khi có tôn giáo, các môn khí công đã tồn tại rồi. Có rất nhiều công pháp nằm ngoài tôn giáo vẫn truyền thừa ở dân gian, đa số không có thành một hệ thống tu luyện hoàn chỉnh, không có một bộ lý luận hoàn chỉnh, mà Kỳ Môn Tu Pháp có phương pháp tu luyện cường hoá đặc thù hoàn thiện có hệ thống, cũng truyền thừa ở dân gian. Loại công pháp này thường bị gọi là bàng môn tả đạo. Tại sao bị gọi là bàng môn tả đạo? Từ bề mặt chữ mà xét, bàng môn là cửa bên cạnh, tả đạo là vụng về dốt ngốc. Người ta nhìn nhận rằng phương pháp tu luyện của hai nhà Phật và Đạo là chính Pháp, còn các công pháp khác đều là bàng môn tả đạo, hoặc là tà pháp. Thực ra không phải như vậy. Bàng môn tả đạo qua các đời đều là đơn truyền mật tu, không thể mang ra cho người coi. Một khi truyền ra, người ta không lý giải được tốt lắm. Họ cũng tự xưng công pháp của mình không phải Phật cũng không phải VII. Chính Pháp và tà pháp 11

16 Đạo. Phương pháp tu luyện của họ cũng yêu cầu tâm tính một cách nghiêm khắc, đó là chiểu theo đặc tính vũ trụ mà tu luyện, chú trọng hành Thiện, giữ tâm tính. Những cao nhân trong đó đều có tuyệt chiêu, một số kỹ năng độc đáo cũng rất lợi hại. Tôi từng gặp ba cao nhân bên Kỳ Môn, [họ] truyền thụ cho tôi một số điều, mà không thể tìm thấy trong Phật gia và Đạo gia, những điều ấy đều khá là khó trong quá trình tu luyện, công mà luyện ra được đều rất độc đáo đặc biệt. Trái lại, trong những gì gọi là công pháp của Phật gia và Đạo gia ngày nay đang truyền, có những cái thiếu yêu cầu nghiêm khắc về tâm tính, vì thế mà tu không được cao, cho nên, cần nhìn nhận một cách biện chứng đối với công pháp của các nhà. 2. Khí công võ thuật Khí công võ thuật được hình thành qua những niên đại lịch sử lâu dài, có một bộ hệ thống lý luận và phương pháp tu luyện hoàn chỉnh, đã hình thành hệ thống độc lập. Nhưng nói một cách nghiêm khắc, nó chỉ là thể hiện công năng mà xuất hiện ở tầng thứ thấp nhất trong công pháp tu nội. Những công năng xuất hiện trong tu luyện võ thuật, đều xuất hiện trong công [pháp] tu nội. Tu luyện khí công võ thuật cũng là bắt đầu từ luyện khí, chẳng hạn như khi chặt tảng đá, thì bắt đầu là vung tay vận khí, qua thời gian lâu thì khí sẽ phát sinh biến hoá một cách thực chất, hình thành một khối năng lượng, nhìn thì thấy như tồn tại một loại ánh quang, khi đạt tới mức độ đó rồi, thì công sẽ khởi tác dụng. Bởi vì công là vật chất cao cấp, có mang theo linh tính, nó chịu khống chế của tư duy đại não, và tồn tại ở không gian khác. Khi đánh nhau không cần vận khí nữa, lúc nghĩ là công tới rồi. Thuận theo việc tu luyện, công sẽ không ngừng mạnh hơn, hạt lạp tử [của nó] sẽ nhỏ mịn hơn, năng lượng sẽ lớn hơn, xuất hiện công phu thiết sa chưởng, chu sa chưởng. Từ phim ảnh và tạp chí có thể thấy, mấy năm gần đây đã xuất hiện kỹ năng kim chung tráo, thiết bố sam, những cái này là đồng thời tu cả võ thuật và nội tu mà hình thành, là nội ngoại kiêm tu mà xuất ra. Muốn tu nội thì phải [coi] trọng đức, phải tu tâm tính. Từ lý luận mà giảng công phu của họ đạt tới một mức độ nhất định, sẽ khiến công từ trong [thân] thể phát xuất ra, phát phóng ra ngoài [thân] thể, vì mật độ lớn, nên hình thành một cái tráo [vỏ bọc] phòng hộ. Khí công võ thuật từ lý luận mà giảng có khác biệt lớn nhất so với tu nội của chúng ta là ở chỗ võ thuật là luyện trong khi vận động mãnh liệt, không nhập tĩnh. Không nhập tĩnh thì khí chạy dưới da, khí thoát qua cơ bắp, không nhập đan điền, nên không tu mệnh, cũng không thể tu mệnh. 3. Phản tu và tá công Có người chưa từng luyện khí công, nhưng đột nhiên qua một đêm liền có công, năng lượng cũng không nhỏ, còn có thể chữa bệnh cho người khác, người ta cũng gọi họ là khí công sư, họ cũng dạy cho người khác; có những người mặc dù chưa hề học công pháp, hoặc từng học vài động tác, tự họ chỉnh sửa đi một chút để dạy người khác. Loại người này không xứng làm khí công sư đâu, họ không có gì có thể truyền thừa cho người khác. Điều họ dạy ấy xác thực không thể tu luyện lên tầng thứ cao, nhiều nhất chỉ có thể trừ bệnh khoẻ thân. Loại công này đã tới như thế nào? Trước hết giảng một chút về phản tu. Cái gọi là phản tu là để chỉ một số người hết sức tốt [bụng] có tâm tính cực cao, thông thường lớn tuổi, trên năm mươi tuổi, nếu bảo họ bắt đầu tu luyện từ mới đầu thì đã không đủ thời gian, mà muốn gặp được sư phụ cao [minh] tính mệnh song tu thì không dễ. Khi họ hễ muốn luyện công, thì thượng sư cấp thêm cho họ năng lượng rất lớn trên cơ sở tâm tính của họ, tu ngược từ trên xuống, thì sẽ nhanh hơn nhiều. Thượng sư diễn hoá ở không trung, không ngừng cấp thêm năng lượng từ ngoài [thân] thể cho họ, đặc biệt là khi họ khám chữa bệnh, khi hình thành một trường, thì năng lượng của thượng sư tựa như qua 12 Chương I Khái luận

17 một đường ống mà truyền cho họ, có những người mà bản thân không biết được đó là từ đâu tới. Đây chính là phản tu. Còn một loại nữa là tá công. Tá công không có hạn chế về tuổi. Ngoài chủ ý thức ra thì người ta còn có phó ý thức, thông thường phó ý thức có tầng thứ cao hơn chủ ý thức. Có người phó ý thức có tầng thứ rất là cao, có thể liên hệ với các Giác Giả, loại người này khi mà muốn luyện công, thì phó ý thức cũng muốn đề cao tầng thứ, bèn lập tức liên hệ với Đại Giác Giả để mượn công. Sau khi họ mượn được công, thì cũng là sau một đêm liền có được công, sau khi đắc công cũng có thể khám chữa bệnh cho người khác, giải trừ thống khổ cho bệnh nhân. Thông thường họ chọn biện pháp hình thành một trường, hoặc cũng có thể cho một người đơn lẻ nhận năng lượng, dạy người ta một số thủ pháp. Thường hay có người như thế này, ban đầu rất là tốt, rồi có được công, danh tiếng rất lớn, danh lợi đều được. Danh lợi chiếm một bộ phận tỷ lệ rất lớn trong đầu não, vượt cả [phần] luyện công, từ đó công hạ xuống, công càng ngày càng nhỏ, cuối cùng không còn chi nữa. 4. Vũ trụ ngữ Có người đột nhiên có thể nói ra một loại ngôn ngữ, loại ngôn ngữ này được nói ra khá lưu loát, nhưng nó không phải ngôn ngữ ở xã hội nhân loại. Gọi đó là gì? Là vũ trụ ngữ. Cái gọi là vũ trụ ngữ ấy, nó chẳng qua là loại ngôn ngữ của thể sinh mệnh không cao lắm. Hiện nay những người luyện khí công trong nước có không ít người xuất hiện tình huống loại này, thậm chí có người nói được hằng mấy loại ngôn ngữ khác nhau. Tất nhiên, những ngôn ngữ của nhân loại chúng ta cũng rất phức tạp, có hơn một nghìn loại. Vũ trụ ngữ có được tính là công năng hay không? Tôi nói rằng nó không thể được tính, nó không phải một loại công năng của tự thân, cũng không phải công năng từ bên ngoài cấp cho chư vị, mà là do một loại thể sinh mệnh ngoại lai thao túng. Thể sinh mệnh ấy nguyên đến từ tầng thứ hơi cao một chút, tối thiểu là phải cao hơn một chút so với nhân loại chúng ta, đó là chúng đang nói đó. Người mà nói vũ trụ ngữ, họ chỉ có tác dụng truyền lời thoại. Đa số người nói rằng tự bản thân họ cũng không biết ý tứ đại khái lời nói ra đó là gì, chỉ ai có công năng tha tâm thông, họ có thể cảm ứng được ý tứ đại khái. Vì đó không phải là công năng, [vậy mà] khá nhiều người sau khi nói, cảm thấy tự mãn lắm, còn tưởng rằng là giỏi lắm, tưởng đó là công năng. Trên thực tế người có thiên mục tầng thứ cao là đã có thể quan sát được, rằng chếch bên trên họ đảm bảo là có một thể sinh mệnh ở đó đang nói lời thoại, lợi dụng cái miệng của người đang nói kia để nói ra. Nó dạy cho họ vũ trụ ngữ, cũng đồng thời truyền công cho họ một phần, tuy nhiên, người kia từ đó trở đi là bị nó khống chế trong tay, đấy không phải chính Pháp. Chư vị chớ thấy nó ở tầng không gian cao cao một chút, nó không phải là tu luyện chính Pháp, nên nó cũng không biết làm thế nào khiến người tu luyện trừ bệnh khoẻ thân, là vì thế nên mới chọn loại phương pháp ấy, rằng thông qua lời nói mà phát ra năng lượng. Vì năng lượng ấy là tản xạ, lực lượng rất nhỏ, nó đối với một số bệnh nhẹ thì có thể khởi tác dụng nhất định, nhưng bệnh nặng thì chịu. Trong Phật giáo giảng người ở trên trời không có khổ mà chịu, không có mâu thuẫn, không thể tu luyện, không đạt được ma luyện, không thể đề cao tầng thứ, thế nên mới nghĩ tới biện pháp giúp người trừ bệnh khoẻ thân, từ đó bản thân đắc được một chút đề cao. Đó là vũ trụ ngữ. Vũ trụ ngữ không phải công năng, cũng không phải khí công. 5. Tín tức phụ thể Nguy hiểm rất lớn của tín tức phụ thể là bị phụ thể bởi linh [thể] [tầng] thấp, đó đều là tu luyện tà pháp mà chiêu dẫn tới. Nó làm hại người ta rất ghê gớm, người mà bị phụ thể VII. Chính Pháp và tà pháp 13

18 thì hậu quả rất đáng sợ. Có những người luyện công luyện chưa được bao nhiêu, đã khởi tâm khám bệnh cho người khác, muốn phát tài, cứ giằng co mãi với những việc ấy. Vốn dĩ là người khá tốt, hoặc vốn đã có sư phụ quản họ. Nhưng họ hễ cứ vướng mãi vào việc khám chữa bệnh, những việc phát tài thì vậy là hỏng rồi, họ bèn chiêu dẫn những thứ đó tới, chúng không ở không gian vật chất chúng ta, nhưng chúng tồn tại một cách hết sức xác thực đó. Người luyện công kia đột nhiên cảm thấy đã khai mở thiên mục, đã có công, thực ra đó là phụ thể đã làm chủ đại não của họ rồi, hình ảnh mà nó nhìn thấy bèn phản ánh lên đại não của họ, [họ] cảm thấy thiên mục của mình đã mở, kỳ thực hoàn toàn chưa khai mở. Tại sao phụ thể muốn cấp công cho họ? Tại sao muốn giúp họ? Là vì vũ trụ này của chúng ta không cho phép động vật tu thành, động vật không giảng tâm tính, không đề cao lên được, không cho phép chúng đắc chính Pháp. Vì vậy chúng muốn phụ [bám vào] thân người, muốn đắc được tinh hoa của [thân] thể người. Vũ trụ còn có một cái Lý này, gọi là bất thất bất đắc. Chúng thoả mãn yêu cầu danh lợi cho chư vị, để chư vị phát tài, để chư vị nổi danh. Nhưng chúng sẽ không giúp không chư vị đâu, chúng cũng muốn đắc, muốn đắc được tinh hoa của chư vị. Tới khi chúng rời khỏi chư vị, chư vị sẽ không còn gì cả, trở thành rất yếu đuối, hoặc thành người thực vật! Đó là tâm tính bất chính đã chiêu dẫn tới. Nhất chính áp bách tà, tâm chư vị rất là chính thì sẽ không chiêu dẫn tà, nghĩa là, hãy đường đường chính chính làm một người luyện công, đừng muốn bất kể những thứ loạn bậy nào cả, chính là muốn tu luyện chính Pháp. 6. Công pháp ngay chính cũng có thể luyện ra tà pháp Có những người tuy rằng công mà họ học là chính Pháp, nhưng vì [họ] không thể nghiêm khắc yêu cầu bản thân mình, không [coi trọng] giảng tâm tính, khi luyện công lại suy nghĩ những thứ bất hảo, đó đã là luyện tà pháp một cách không tự biết. Chẳng hạn như luyện công đứng trạm trang hoặc là ngồi đả toạ, [đành rằng] người là ở đó luyện công, nhưng trên thực tế tư tưởng đang nghĩ đến nào là tiền, nghĩ tới nào là danh lợi, nghĩ tới nào là ai đó đối xử bất hảo với ta thì đến khi ta xuất công năng sẽ chỉnh chỉnh họ ; hoặc nghĩ tới công năng này công năng kia, v.v. đưa những thứ bất hảo đó thêm vào trong công, trên thực tế chính đã đang luyện tà pháp rồi. Điều này rất nguy hiểm, chính là có khả năng chiêu dẫn những thứ bất hảo tới, chẳng hạn như những linh [thể] [tầng] thấp, có lẽ họ đã chiêu dẫn tới mà họ không hề biết. Là vì tâm chấp trước của họ quá mạnh mẽ, ôm giữ tâm hữu cầu mà học Đạo thì không được đâu, tâm địa của họ bất chính, thì sư phụ cũng không cách nào bảo hộ họ được. Do đó, người luyện công nhất định phải giữ gìn vững chắc tâm tính, tâm chính vô sở cầu, nếu không sẽ có thể xuất hiện vấn đề. 14 Chương I Khái luận

19 Chương II Pháp Luân Công Pháp Luân Công nguyên xuất phát từ Pháp Luân Tu Luyện Đại Pháp của Phật gia, Nó là một loại phương pháp đặc thù của tu luyện khí công Phật gia, nhưng Nó có những chỗ độc đáo khác với phương pháp tu luyện thông thường của Phật gia. Trong quá khứ công pháp này yêu cầu người tu luyện phải tu luyện tăng cường một cách đặc thù vốn thuộc về cái học của người đại căn khí với tâm tính cực cao. Để nhiều người luyện công hơn nữa đắc được đề cao, đồng thời cũng thoả mãn yêu cầu của đông đảo những người có chí tu luyện, [tôi] đã đặc cách chỉnh lý bộ công pháp này để đưa ra một bộ phương pháp thích hợp cho việc tu luyện phổ cập, tuy như vậy, Nó cũng vẫn vượt hơn rất xa về học thuật và tầng thứ so với các công pháp thông thường. I. Tác dụng của Pháp Luân Pháp Luân của Pháp Luân Công mang đầy đủ đồng dạng đặc tính với vũ trụ, Nó là ảnh thu nhỏ của vũ trụ. Người tu luyện Pháp Luân Công không chỉ có thể nhanh chóng tăng trưởng công năng và công lực, mà còn trong một thời gian ngắn sẽ luyện thành Pháp Luân có uy lực không gì sánh được. Pháp Luân sau khi hình thành, sẽ tồn tại như một thể sinh mệnh có linh tính, lúc bình thường tự động xoay chuyển không ngừng ở chỗ bụng dưới người tu luyện, không ngừng thu thập và diễn hoá năng lượng vũ trụ, cuối cùng ở trong bản thể người tu luyện chuyển hoá thành công, từ đó đạt được hiệu quả Pháp luyện người, nghĩa là, tuy người ta không phải lúc nào cũng luyện công, mà Pháp Luân đang không ngừng luyện người, Pháp Luân dùng bên trong để độ bản thân, có đầy đủ tác dụng khiến thân thể khoẻ mạnh, khai mở trí huệ và bảo hộ người luyện công khỏi bị thiên sai, ngoài ra cũng bảo hộ người tu luyện khỏi bị xâm nhiễu bởi những người tâm tính kém; Pháp Luân dùng bên ngoài để độ nhân, có thể giúp người trị bệnh trừ tà, cải biến hết thảy những trạng thái bất thường. Pháp Luân không ngừng xoay chuyển ở chỗ bụng dưới, xoay chuyển thuận (chiều kim đồng hồ) chín vòng, xoay ngược (chiều kim đồng hồ) chín vòng. Xoay thuận thì mạnh mẽ hấp thu năng lượng từ vũ trụ, năng lượng lớn phi thường. Thuận theo việc công lực tăng trưởng thì lực lượng xoay chuyển càng ngày càng lớn, dù cố ý bưng khí quán đỉnh cũng không đạt tới như thế; khi xoay ngược thì phát phóng năng lượng, phổ độ chúng sinh, chỉnh lại những trạng thái không ngay chính, người ở gần người luyện công đều được lợi ích. Ở nước ta trong tất cả môn khí công được truyền ra, thì duy nhất Pháp Luân Công là công pháp đạt được Pháp luyện người. Pháp Luân là trân quý nhất, lấy bao nhiêu vàng cũng không đổi được. Khi truyền Pháp Luân cho tôi thì Sư phụ của tôi đã bảo tôi rằng: Pháp Luân này không thể cho bất kỳ ai, cả những người tu Đạo hàng nghìn năm cũng muốn đắc được Nó nhưng họ không đắc được. Pháp môn chúng tôi trải qua hằng bao nhiêu niên đại vô cùng lâu dài mới có thể truyền cho một người, khác với những [công pháp] mà cứ mấy chục năm là truyền cho một người, do đó Pháp Luân là cực kỳ trân quý. Hiện nay, chúng tôi tuy rằng đưa Nó ra diễn hoá và không còn uy lực to lớn như nguyên ban đầu, nhưng Nó cũng cực kỳ trân quý. Người tu luyện đắc được Nó cũng bằng như tu thành một nửa rồi, còn lại chỉ là cần chư vị đề cao tâm tính, tương lai là một tầng thứ rất cao đang đón chờ chư vị. Đương nhiên, người mà không có duyên phận, thì tương lai tự họ luyện luyện và không đạt, Pháp Luân cũng không tồn tại nữa. Pháp Luân Công là công [pháp] Phật gia, nhưng Nó đã hoàn toàn vượt xa khỏi phạm vi của Phật gia, [điều được] luyện là vũ trụ hoàn chỉnh. Trong quá khứ tu luyện Phật gia I. Tác dụng của Pháp Luân 15

20 là giảng Lý của Phật gia, tu luyện Đạo gia là giảng Lý của Đạo gia, không ai nói thấu suốt về vũ trụ từ căn bản. Vũ trụ cũng như người, ngoài cấu thành vật chất ra, thì còn tồn tại đặc tính của nó, nói khái quát chính là ba chữ, gọi là Chân-Thiện-Nhẫn. Tu luyện của Đạo gia chủ yếu là ngộ ở chữ Chân, nói lời Chân, làm việc Chân, phản bổn quy chân, cuối cùng đạt tới làm Chân Nhân. Tu luyện của Phật gia trọng điểm đặt ở chữ Thiện, sinh ra tâm Đại Từ Bi, phổ độ chúng sinh. Pháp môn của chúng ta là đồng thời tu ChânThiện-Nhẫn, trực tiếp dựa trên đặc tính căn bản của vũ trụ mà tu luyện, cuối cùng đạt tới đồng hoá với vũ trụ. Pháp Luân Công là công pháp tính mệnh song tu, sau khi công lực và tâm tính đạt tới một tầng thứ nhất định, yêu cầu ở thế gian đạt được trạng thái khai công (khai ngộ), [và] tu thành [thân] thể bất hoại. Pháp Luân Công về đại thể là phân thành thế gian pháp và xuất thế gian pháp vốn [mỗi cái] có rất nhiều tầng thứ, mong rằng đông đảo những người có chí sẽ chuyên cần tu luyện, không ngừng đề cao tâm tính, đạt tới viên mãn. II. Hình thái cấu thành của Pháp Luân Pháp Luân của Pháp Luân Công là thể vật chất cao năng lượng xoay chuyển có linh tính. Pháp Luân là chiểu theo quy luật vận hành của chỉnh thể vũ trụ thiên thể mà xoay chuyển, theo một ý nghĩa nào đó mà nói, Pháp Luân là ảnh thu nhỏ của vũ trụ. Trong Pháp Luân là phù [hiệu] chữ 卍 của Phật gia (chữ 卍, đọc là vạn, là Srivatsa trong tiếng Phạn, mang nghĩa thâu tập may mắn cát tường (xem [từ điển] «Từ Hải»)), đó là hạch tâm của Pháp Luân, màu sắc của Nó gần như màu vàng kim, và màu nền là màu đỏ tươi sáng. Màu nền của hình tròn bên ngoài là màu cam. Thái Cực ở bốn bên và hình Pháp Luân của Phật gia1 ở bốn bên được sắp xếp xen kẽ, đặt ở tám phương vị. Hình Thái Cực tổ hợp từ màu đỏ và màu đen là của Đạo gia; hình Thái Cực tổ hợp từ màu đỏ và xanh lam là của Tiên Thiên Đại Đạo. Bốn hình Pháp Luân nhỏ 2 cũng là màu vàng kim, màu nền của Pháp Luân là thay đổi, chu kỳ biến hoá đỏ cam vàng lục xanh lam tím, màu sắc hết sức đẹp (xem hình ở đầu cuốn sách). Màu của chữ 卍 ở giữa và các hình Thái Cực là không đổi. Các Pháp Luân nhỏ và lớn này cũng như hình chữ 卍 đều tự xoay chuyển. Gốc rễ của Pháp Luân gắn nơi vũ trụ, vũ trụ đang xoay chuyển, các thiên hà đang xoay chuyển, do đó Pháp Luân cũng đang xoay chuyển. Với người có thiên mục tầng thứ thấp, có thể là thấy Pháp Luân giống như quạt máy đang quay; đối với người có thiên mục tầng thứ cao, có thể thấy toàn cảnh Pháp Luân, hết sức đẹp mắt, vô cùng tươi sáng, sẽ khiến tu luyện của người luyện công càng thêm dũng mãnh tinh tấn. III. Đặc điểm tu luyện Pháp Luân Công 1. Pháp luyện người Người học Pháp Luân Công không chỉ có thể nhanh chóng tăng trưởng công lực và công năng, mà còn có thể luyện xuất ra Pháp Luân. Pháp Luân sẽ hình thành trong một thời gian rất ngắn, một khi hình thành, uy lực rất lớn, Nó có thể bảo hộ người luyện khỏi xuất [hiện] thiên sai, hơn nữa có thể bảo hộ người ấy khỏi bị xâm nhiễu của những người tâm tính kém. Về lý luận là hoàn toàn khác với các pháp tu truyền thống. Bởi vì Pháp Luân sau khi hình thành, sẽ tự chuyển không ngừng, tồn tại như một thể sinh mệnh có linh tính, lúc bình thường luôn ở vị trí bụng dưới mà không ngừng tích trữ năng lượng. Pháp Luân là thông qua xoay chuyển mà tự động thu gom năng lượng từ vũ trụ. Chính là 1 Hiểu là hình chữ 卍. 2 Hiểu là hình chữ 卍. 16 Chương II Pháp Luân Công

21 vì Nó tự chuyển không ngừng, mà đạt được mục đích Pháp luyện người, nghĩa là người ta không luyện công mọi thời mọi lúc, nhưng Pháp Luân đang liên tục luyện người. Người ta đều biết, người thường ban ngày cần đi làm công tác, tối cần nghỉ ngơi, thời gian luyện công rất hữu hạn, nếu muốn đạt được 24 giờ đều không ngừng luyện công, thì chỉ có cái gọi là suy nghĩ mọi thời đều đang luyện công thì không được đâu, hoặc là chọn một phương pháp nào đó, đều khó mà đạt được mục đích thật sự là 24 giờ đều đang luyện công. Nhưng mà Pháp Luân xoay chuyển không ngừng, từ vũ trụ mà xoay hút vào trong những lượng lớn khí (hình thức tồn tại của năng lượng thời ban đầu), ngày đêm không ngừng, mọi thời mọi lúc đều không ngừng hút khí vào và ở các vị trí trong Pháp Luân mà trữ tồn chuyển hoá, khiến khí ấy biến thành vật chất cao cấp hơn, cuối cùng chuyển hoá thành công ở [thân] thể người tu luyện, đó chính là Pháp luyện người. Tu luyện của Pháp Luân Công hoàn toàn khác với học thuyết luyện công kiểu khí công đan đạo các gia và các môn phái. Đặc điểm lớn nhất của tu luyện Pháp Luân Công là tu luyện Pháp Luân, không theo đan đạo. Hiện nay truyền xuất ra kia bất kể là công pháp của gia nào môn phái nào, công phái của Phật giáo hay Đạo giáo, của Phật gia hay Đạo gia, hay trong dân gian, và rất nhiều pháp tu của bàng môn nữa, đều là tẩu đan đạo, gọi là khí công đan đạo. Tu luyện của hoà thượng, ni cô, lão đạo đều là theo con đường đan đạo ấy. Khi hoả táng lúc trăm tuổi [lâm chung], thì sẽ luyện ra xá-lợi-tử. Các máy đo lường khoa học ngày nay đo không ra được nó là cấu thành từ vật chất gì, phi thường cứng rắn và đẹp mắt. Trên thực tế nó là vật chất cao năng lượng gom chọn từ không gian khác, chứ không phải là thứ của không gian này của chúng ta, đó là đan. Khí công đan đạo hết sức khó mà đạt được trạng thái khai ngộ trong những năm tháng cuộc đời, quá khứ có rất nhiều người luyện khí công đan đạo [muốn] đề đan, khi [đề] tới nê hoàn cung thì không xuất ra được, và người đó bị tắc và chết ở đó. Có người muốn cố ý tạc nổ nó, nhưng không có cách nào tạc nổ nó cả. Có người như thế này, ông của họ không luyện thành, trăm tuổi [lâm chung] bèn nhổ ra đưa cho bố của họ; rồi bố của họ tu không thành, khi trăm tuổi [lâm chung] bèn nhổ ra đưa cho họ. Tới giờ họ vẫn không là gì cả, rất khó! Đương nhiên, có rất nhiều công pháp cũng rất là tốt, nếu được chân truyền thì cũng tốt lắm, chỉ e rằng họ không truyền cho chư vị những thứ cao cấp mà thôi. 2. Tu luyện chủ ý thức Mỗi người đều có một chủ ý thức, bình thường làm các việc, suy nghĩ vấn đề thì chính là bằng vào chủ ý thức. Ngoài chủ ý thức ra mỗi người còn tồn tại một hoặc vài phó ý thức, đồng thời còn có tín tức của tổ tiên trong gia tộc. Phó ý thức và chủ ý thức là mang cùng tên. Thông thường phó ý thức đều có năng lực mạnh hơn và tầng thứ cao hơn so với chủ ý thức, họ không bị mê bởi xã hội người thường chúng ta, họ có thể nhìn thấy không gian đặc định của họ. Rất nhiều công pháp đều theo con đường tu luyện phó ý thức, thân xác thịt và chủ ý thức của họ chỉ có tác dụng làm tải thể, người luyện công thông thường còn chưa biết sự việc này, thậm chí còn đắc ý lắm. Người ta sống ở xã hội, những thứ hiện thực khiến họ rất khó mà buông bỏ nổi, nhất là những thứ mà họ chấp trước. Do đó rất nhiều Pháp môn nhấn mạnh vào việc trải qua trong định, nhập định một cách tuyệt đối, khi diễn hoá ở trong định, thì đó là phó ý thức đang diễn hoá ở xã hội kia, trong diễn hoá mà đề cao lên. Một ngày kia phó ý thức tu lên rồi, nó mang theo công của chư vị mà rời đi, chủ ý thức và bản thể của chư vị sẽ không còn gì cả, cả một đời tu luyện của chư vị bao công sức là bỏ phí, thế thì rất đáng thương. Có một số khí công sư nổi tiếng, các loại công năng rất lớn, danh vọng cao lắm, nhưng công của họ hoàn toàn không phải là tăng trưởng trên thân của chính họ, mà họ cũng không biết [điều ấy]. III. Đặc điểm tu luyện Pháp Luân Công 17

22 Pháp Luân Công chúng ta là tu luyện trực tiếp thẳng vào chủ ý thức, yêu cầu công hết sức thực tại chân chính tăng trưởng trên thân của chư vị, tất nhiên phó ý thức cũng đắc một phần, nó ở vị trí phụ thuộc mà đề cao lên theo. Công pháp này của chúng ta chính là yêu cầu một cách nghiêm khắc về tâm tính, để chư vị ngay trong xã hội người thường này, trong điều kiện phức tạp này mà ma luyện tâm tính, từ đó mà đề cao lên, [như] hoa sen mọc lên từ bùn, vì thế mà cho phép chư vị tu thành. Chỗ trân quý của Pháp Luân Công chính là trân quý ở chỗ này, trân quý là trân quý rằng chính chư vị đắc công. Nhưng cũng phi thường khó khăn, khó là khó rằng chư vị bước trên con đường ma luyện trong hoàn cảnh phức tạp nhất. Mục đích luyện công đã là tu luyện chủ ý thức, thì ắt phải lúc nào cũng là chủ ý thức chi phối việc luyện công của mình, chủ ý thức quyết định, chứ không thể giao cho phó ý thức. Nếu không thì một ngày nào đó, phó ý thức tu luyện lên rồi, công cũng mang đi rồi, mà bản thể và chủ ý thức sẽ không còn gì cả. Khi chư vị tu luyện lên tầng thứ cao, mà chủ ý thức của chư vị như đang ngủ mà không biết, chư vị luyện công gì cũng không biết, như thế thì không được. Chư vị nhất định phải rõ ràng rằng chư vị đang luyện công, đang tu lên, đang đề cao tâm tính, tới lúc ấy chư vị mới có quyền chủ động, chư vị mới có thể đắc công. Có những lúc chư vị mơ màng, mà việc kia được làm xong rồi, chư vị cũng không biết rằng nó là làm thế nào, thì thực chất chính là phó ý thức đang khởi tác dụng, là phó ý thức đang chỉ huy. Chẳng hạn như chư vị ngồi đả toạ, mở mắt nhìn về đối diện, đối diện lại có một cái tôi nữa, thì đó chính là phó ý thức của chư vị. Hoặc chẳng hạn như chư vị ngồi đả toạ ở đây, chư vị quay về phía Bắc, nhưng chư vị đột nhiên phát hiện, rằng chư vị đang ở phía Bắc, chư vị nghĩ rằng tại sao mình lại xuất ra nhỉ, thì ấy là cái tôi thật sự của chư vị đã xuất ra rồi, còn thân xác thịt cùng với phó ý thức của chư vị vẫn ngồi ở kia. Điều này là có thể phân biệt được. Tu luyện Pháp Luân Công là không được hoàn toàn vong ngã, vong ngã là không phù hợp với tu luyện Đại Pháp của Pháp Luân Công, luyện công nhất định phải bảo trì đại não thanh tỉnh. Khi luyện công thì chủ ý thức mạnh mẽ hơn một chút, sẽ không bị sai lệch, những thứ thông thường là không xâm hại nổi chư vị. [Nếu] chủ ý thức rất yếu, thì có những thứ sẽ đến. 3. Luyện công không chú trọng phương hướng, thời gian. Rất nhiều công pháp đều chú trọng luyện công cần hướng mặt về phương hướng nào mới tốt, luyện công lúc mấy giờ mới tốt. Ở đây chúng ta hoàn toàn không giảng vậy. Tu luyện Pháp Luân Công là chiểu theo đặc tính của vũ trụ mà luyện, chiểu theo nguyên lý diễn hoá của vũ trụ mà luyện, cho nên không giảng phương vị hay thời gian. Chúng ta luyện công tương đương với luyện khi ngồi toạ nơi Pháp Luân, vốn là toàn phương vị, luôn luôn xoay chuyển, Pháp Luân của chúng ta là đồng bộ với vũ trụ. Vũ trụ đang vận động, hệ Ngân Hà đang vận động, chín đại hành tinh đang xoay quanh Mặt Trời, bản thân Trái Đất cũng đang tự xoay, vậy đâu là Đông Tây Nam Bắc? Đông Tây Nam Bắc mà chúng ta nói là người của Trái Đất đứng tại góc độ nơi Trái Đất này mà phân ra, do đó, chư vị đứng ở phương vị nào mà luyện cũng là đang đứng tại toàn phương vị mà luyện. Có người giảng rằng giờ Tý luyện công tốt, giờ Ngọ luyện công tốt, hoặc thời gian nào đó là tốt. Chúng ta cũng không giảng những cái đó. Là vì [khi] chư vị không luyện công [thì] Pháp Luân đang luyện chư vị, Pháp Luân đang giúp chư vị luyện công mọi thời mọi lúc, Pháp luyện người. Khí công đan đạo là người đi luyện đan, Pháp Luân Công là Pháp luyện người. Chư vị nhiều thời gian thì luyện nhiều, ít thời gian thì luyện ít, đó rất là tuỳ ý. 18 Chương II Pháp Luân Công

23 IV. Tính mệnh song tu Tu luyện Pháp Luân Công là vừa tu tính vừa tu mệnh, là thông qua luyện công mà trước hết cải biến bản thể, bản thể không mất, chủ ý thức và [thân] thể xác thịt hợp nhất, đạt tới tu thành chỉnh thể. 1. Cải biến bản thể Thân thể người là do máu thịt và xương cấu thành, có các kết cấu và thành phần phân tử khác nhau. Thông qua luyện công sẽ khiến thành phần phân tử của thân thể chuyển hoá thành vật chất năng lượng cao, như vậy, cấu thành của [thân] thể người đã không còn là thành phần vật chất nguyên ban đầu nữa, mà đã phát sinh biến hoá về bản chất. Nhưng người tu luyện là tu luyện ở xã hội người thường, sinh sống trong quần thể người, không thể vi phạm trạng thái xã hội nhân loại, do đó loại biến hoá kia sẽ không thay đổi kết cấu của phân tử ban đầu, thứ tự sắp xếp của phân tử sẽ không thay đổi, chỉ thay đổi thành phần ban đầu của phân tử. [Thân] thể người ta thịt vẫn là mềm, xương vẫn là cứng, huyết dịch vẫn là lưu động, dao cắt một cái hẳn vẫn chảy máu thôi. Căn cứ theo học thuyết ngũ hành của Trung Quốc cổ đại, kim mộc thuỷ hoả thổ cấu thành nên vạn vật, và [thân] thể người cũng thế. Khi người tu luyện đã phát sinh biến hoá ở bản thể, lấy vật chất năng lượng cao để thay thế thành phần ban đầu của phân tử, thì bấy giờ [thân] thể người đã không còn cấu thành từ vật chất nguyên như ban đầu nữa. Đó gọi là không trong ngũ hành, chính là đạo lý này. Đặc điểm lớn nhất của công pháp tính mệnh song tu là kéo dài sinh mệnh người ta, hoãn lại việc già yếu. Pháp Luân Công chúng ta có đầy đủ đặc điểm dễ thấy ấy. Pháp Luân Công theo con đường thế này: cải biến từ căn bản thành phần phân tử [thân] thể người, gom chọn vật chất năng lượng cao rồi trữ tồn trong mỗi từng tế bào, cuối cùng thì vật chất năng lượng cao thay thế thành phần của phân tử, và sẽ không xảy ra tân trần đại tạ nữa, họ đã ra khỏi ngũ hành, trở thành thân thể cấu thành từ vật chất không gian khác, không bị chế ước bởi thời gian không gian chúng ta nữa, người đó sẽ trẻ trung rất là lâu. Cao tăng đời xưa có thọ mệnh rất dài, hiện nay có những người mấy trăm tuổi đi trên đường phố mà chư vị nhìn không ra [khác biệt ở] họ, trông họ như thanh niên, ăn mặc như người bình thường, chư vị nhìn không ra. Thọ mệnh của người ta không nên ngắn ngủi như hiện nay. Giảng từ góc độ của khoa học hiện đại, con người có thể sống đến hơn hai trăm tuổi. Theo ghi chép, Anh quốc có người tên là Femcath thọ tới 207 tuổi. Nhật Bản có người tên là Mitsu Taira thọ tới 242 tuổi. Triều đại nhà Đường nước ta có hoà thượng Huệ Chiêu, thọ tới 290 tuổi. Ghi chép huyện chí của huyện Vĩnh Thái thuộc Phúc Kiến chép rằng, Trần Tuấn sinh năm Trung Hoà thứ nhất thời vua Hy Tông triều đại nhà Đường (tức là năm 881), và chết năm 1324 thuộc những năm Thái Định triều đại nhà Nguyên, thọ 443 tuổi. Những cái đó đều có chứng cứ có thể tra được, chứ không phải truyện hư cấu. Học viên Pháp Luân Công chúng ta thông qua tu luyện, nếp nhăn trên mặt giảm đi rõ rệt, hồng quang đầy mặt, thân thể nhẹ nhàng, đi đường hay làm việc đều không cảm thấy mệt, đây là hiện tượng phổ biến. Bản thân tôi tu luyện mấy chục năm, người khác nói rằng dung mạo của tôi không thay đổi gì nhiều hai mấy năm qua, chính là nguyên nhân này. Pháp Luân Công chúng ta có mang những thứ tu mệnh rất mạnh mẽ, người tu luyện Pháp Luân Công trông rất khác về tuổi tác so với người thường, nhìn không thấy hợp với tuổi, do đó, đặc điểm lớn nhất của công pháp tính mệnh song tu là có thể kéo dài sinh mệnh của người ta, trì hoãn sự già yếu, kéo dài thọ mệnh con người. IV. Tính mệnh song tu 19

24 2. Pháp Luân chu thiên [Thân] thể người chúng ta là tiểu vũ trụ, năng lượng của [thân] thể người chạy quanh thân thể trọn một vòng, thì gọi là tuần hoàn tiểu vũ trụ, cũng gọi là tuần hoàn chu thiên. Kết nối hai mạch Nhâm-Đốc, theo tầng thứ mà nói, đó vẫn chỉ là chu thiên vỏ ngoài nông cạn, không có tác dụng tu mệnh. Tiểu chu thiên chân chính là từ nê hoàn cung tới đan điền, tuần hoàn ở bên trong, thông qua tuần hoàn ở bên trong mà dẫn động [các kinh mạch] thân thể mở rộng từ trong ra ngoài, bách mạch giai thông. Pháp Luân Công chúng ta ngay bắt đầu là đã yêu cầu bách mạch giai thông. Đại chu thiên chính là tuần hoàn của kỳ kinh bát mạch, chạy khắp toàn thể thân thể một vòng. Nếu đại chu thiên đã thông rồi, thì sẽ mang tới một trạng thái: người luyện công có thể phiêu đãng bay lên, bạch nhật phi thăng được viết trong «Đan Kinh» chính là có ý tứ đó. Tuy nhiên, thông thường sẽ khiến thân thể chư vị có chỗ nào đó bị khoá lại, làm chư vị không bay lên được, tuy vậy sẽ khiến chư vị tới một trạng thái như thế này: đi bộ rất nhẹ và nhanh, leo núi như có người đẩy chư vị. Sau khi đại chu thiên khai thông rồi thì sẽ đưa đến một loại công năng: có thể khiến khí giao hoán giữa các bộ phận nội tạng bên trong thân thể người: khí ở tim chạy sang dạ dày, khí ở dạ dày chạy sang ruột, v.v. Cùng theo việc công lực tăng và mạnh lên, đưa nó ra ngoài thân thể thì đó là công [năng] ban vận. Loại chu thiên này cũng gọi là tý-ngọ chu thiên hoặc là càn khôn chu thiên. Nó vận chuyển là vẫn không thể đạt mục đích diễn hoá thân thể, vẫn cần tồn tại một loại chu thiên đối ứng với nó, đó gọi là mão-dậu chu thiên. Vận chuyển của mão-dậu chu thiên như sau: bắt đầu từ huyệt hội âm hoặc bách hội, chạy theo giao giới của hai mặt âm dương của thân thể, tức là chạy ở hai bên thân thể. Vận chuyển chu thiên của Pháp Luân Công lớn hơn rất nhiều so với vận chuyển kỳ kinh bát mạch mà các công pháp thông thường vẫn giảng, đây là các khí mạch ngang dọc giao nhau của toàn thân thể đều vận hành, yêu cầu chỉnh thể lập tức thông thấu toàn bộ, toàn bộ đều vận chuyển. Trong Pháp Luân Công chúng ta đã tự có những điều ấy rồi, không cần chư vị cố ý đi luyện, cũng không cần dùng ý niệm dẫn đạo, chư vị mà làm như thế thì chư vị sẽ sai lệch. Ở lớp truyền thụ tôi cài cho chư vị khí cơ bên ngoài [thân] thể, nó tuần hoàn tự động. Khí cơ là một loại những thứ chỉ có ở luyện công tại tầng thứ cao, là một bộ phận trong luyện công tự động của chúng ta, nó cũng thường chuyển không ngừng giống như Pháp Luân, dẫn động các khí mạch trong thân thể vận động theo. Chư vị chưa luyện chu thiên, mà thực tế là khí mạch đã được cùng dẫn động vận chuyển rồi, từ sâu bên trong cũng như bên ngoài đều cùng vận động, chúng ta thông qua thủ pháp là để gia cường khí cơ bên ngoài [thân] thể. 3. Thông mạch Mục đích của thông mạch là khiến năng lượng vận chuyển, cải biến thành phần phân tử của tế bào, chuyển hoá hướng tới vật chất năng lượng cao. Người không luyện công thì mạch là ứ tắc thậm chí rất nhỏ, người luyện công thì mạch sẽ dần dần sáng lên, chỗ không thông sẽ thông. Luyện công một thời gian có mạch mở rộng hơn, tu luyện đến tầng thứ cao mạch sẽ rộng hơn nữa, có người mạch rộng như đầu ngón tay. Nhưng bản thân việc thông mạch không đại biểu rằng đã tu tới trình độ nào, công cao bao nhiêu. Thông qua luyện công sẽ khiến cho các mạch sáng hơn rộng hơn, cuối cùng trăm mạch nối liền thành một mảng, khi đạt tới đó thì người ấy không còn mạch cũng không còn huyệt, nói cách khác, toàn thân đều là mạch và cũng đều là huyệt. Bấy giờ điều đó vẫn không thể nói lên rằng người ấy đã đắc Đạo, nó chỉ là một loại thể hiện trong quá trình tu luyện Pháp Luân Công, là thể hiện của một tầng thứ. Khi đã tới bước ấy, thì tu luyện thế gian pháp đã đi tới tận cùng, đồng thời từ ngoài nhìn thì thấy có mang một trạng thái rất là minh hiển: 20 Chương II Pháp Luân Công

25 tam hoa tụ đỉnh. Công ấy đã xuất ra rất lợi hại rồi, đều có hình trạng cả, cột công trụ cũng rất cao, ngoài ra trên đầu xuất hiện ba đoá hoa, một đoá tựa như hoa sen, một đoá tựa như hoa cúc. Ba đoá hoa tự xoay chuyển, tự chuyển đồng thời cũng xoay chuyển luân phiên. Trên mỗi đoá hoa có một cột trụ, cột trụ thông thiên, cao phi thường. Ba cột trụ này cũng chuyển động theo sự xoay chuyển của hoa, cũng tự xoay chuyển, bản thân họ sẽ cảm thấy đầu rất nặng. Lúc bấy giờ, họ chỉ là bước xong bước cuối cùng trong tu luyện thế gian pháp. V. Ý niệm Tu luyện Pháp Luân Công là không mang ý niệm. Ý niệm bản thân nó không làm được gì cả, nhưng nó có thể phát ra các chỉ lệnh. Có tác dụng chân chính ấy là công năng, chúng có năng lực tư duy của linh thể, [và] tiếp thụ chỉ huy từ tín tức của đại não. Nhưng khá nhiều người, đặc biệt là trong giới khí công thì có nhiều quan điểm, nhìn nhận rằng ý niệm có thể làm được rất là nhiều việc. Có người giảng rằng [họ dùng] ý niệm đả khai công năng, ý niệm khai thiên mục, ý niệm trị bệnh, ý niệm vận chuyển [các vật thể từ xa], v.v., đó là các nhận thức sai lầm. Tại tầng thứ thấp, ở nơi người thường thì ý niệm chỉ huy các giác quan và tứ chi. Tại tầng thứ cao, ở người luyện công thì ý niệm có thể thăng hoa, chỉ huy công năng làm các việc, cũng chính là công năng chịu sự chi phối của ý niệm. Đó là cái nhìn của chúng tôi về ý niệm. Có những lúc thấy khí công sư trị bệnh cho người ta, chưa hề động thủ mà bệnh nhân đã nói khỏi rồi, bèn tưởng rằng đó là ý niệm đã trị khỏi, trên thực tế thì họ xuất ra là một loại công năng, [và] chỉ huy công năng đi trị bệnh hoặc làm việc nào đó, là vì công năng đi ở không gian khác, mắt của người thường nhìn không thấy, [nên] không biết mà tưởng rằng ý niệm đã làm rồi. Có người tưởng rằng có thể dùng ý niệm để trị bệnh, dẫn người ta đi lệch lạc hết, cách nhìn nhận ấy ắt cần phải chỉnh lại cho rõ. Tư duy người là một loại tín tức, là một loại năng lượng, là một loại hình thức tồn tại vật chất. Khi người ta tư duy suy nghĩ vấn đề, thì trong đại não sinh ra một loại tần số. Có những lúc niệm chú ngữ rất là hữu hiệu, tại sao? Là vì vũ trụ cũng có tần số chấn động của mình, khi chú ngữ mà chư vị niệm là phát sinh cộng hưởng với tần số của vũ trụ thì có thể sinh ra hiệu ứng. Tất nhiên phải là tín tức lành mạnh thì mới có thể có tác dụng, là vì trong vũ trụ là không cho phép tồn tại những thứ tà. Ý niệm cũng là một loại phương thức tư duy đặc định, Pháp thân của các đại khí công sư tầng thứ cao là do tư duy của chủ thể khống chế và chỉ huy. Pháp thân cũng là có tư duy của tự mình, cũng có năng lực xử lý vấn đề và làm các việc một cách độc lập của mình, họ hoàn toàn là cái tôi độc lập. Đồng thời, Pháp thân có thể biết được tư duy chủ thể của khí công sư, và chiểu theo tư duy của chủ thể mà làm việc. Nếu khí công sư muốn trị bệnh cho một người, thì Pháp thân sẽ đi [làm]; còn khi không có ý niệm đó phát ra, thì Pháp thân không đi. Khi Pháp thân thấy việc nào đó rất là tốt đẹp thì sẽ chủ động đi làm. Có những đại sư chưa đạt tới mức độ khai ngộ, thì một số việc họ chưa biết, mà Pháp thân của họ đã biết rồi. Ý niệm còn có một hàm nghĩa nữa gọi là linh cảm. Linh cảm không phải phát ra từ chủ ý thức của người ta. Phía tri thức của chủ ý thức là rất hữu hạn, nếu muốn làm ra gì đó chưa từng có ở xã hội, mà chỉ dựa vào chủ ý thức thì không được. Linh cảm đến từ phó ý thức. Có người soạn tác phẩm hay làm nghiên cứu khoa học, khi nghĩ vỡ cả đầu mà vẫn không xuất ra cái gì, bèn buông lỏng nghỉ ngơi, ra ngoài đi dạo một vòng. Đột nhiên, trong lúc vô ý thì linh cảm đến, lập tức vung bút thành sách, [hoặc] sáng tạo ra được. Đó là vì khi chủ ý thức rất mạnh, khống chế đại não, [thì] không xuất ra được gì. Khi chủ ý thức vừa buông lỏng, thì phó ý thức khởi tác dụng rồi, nó làm chủ đại não. Phó ý thức là [ở] một không gian khác, không chịu trói buộc của không gian này, có thể sáng tạo ra V. Ý niệm 21

26 điều mới mẻ. Nhưng phó ý thức cũng không thể vượt lên trên và can nhiễu trạng thái của xã hội người thường, ảnh hưởng đến tiến trình phát triển của xã hội. Linh cảm đến từ hai phương diện, một là phó ý thức cung cấp, phó ý thức không bị mê bởi thế gian, họ có thể sinh ra linh cảm. Một nữa là đến từ những cao linh [thể] ở tầng thứ cao chỉ huy và chỉ điểm. Khi có cao linh chỉ điểm, mạch tư duy rộng mở, có thể làm ra những thứ tân kỳ. Phát triển của chỉnh thể xã hội và vũ trụ đều là có quy luật đặc định, hết thảy đều không hề ngẫu nhiên. VI. Tầng thứ tu luyện Pháp Luân Công 1. Tu luyện tầng thứ cao Pháp Luân Công là đứng ở tầng thứ rất cao mà tu luyện, cho nên xuất công một cách đặc biệt mau lẹ. Đại Đạo là chí giản chí dị. Từ hoành quan mà nhìn thì thấy động tác Pháp Luân Công rất là ít, nhưng nó khống chế các phương diện của thân thể, khống chế rất nhiều những thứ cần xuất ra. Chỉ cần tâm tính lên theo kịp, công sẽ vùn vụt tăng trưởng lên, không cần cố ý phí nhiều sức, chọn dùng biện pháp nào đó, hoặc an đỉnh thiết lư, thái dược luyện đan, điều chỉnh hoả lực, điều chỉnh dược vật [thuốc]. Dựa vào ý niệm để dẫn đạo thì rất phức tạp, rất dễ bị lệch lạc. Chúng tôi ở đây cung cấp cho mọi người pháp môn thuận tiện nhất, pháp môn tốt nhất, cũng là pháp môn khó khăn nhất. Thân thể người luyện công đạt tới trạng thái nãi bạch thể, thì ở công pháp khác cần luyện mười mấy năm, mấy mươi năm hoặc còn lâu hơn nữa, mà chúng tôi lập tức đưa chư vị tới bước đó rồi. Khi chư vị còn chưa thể nghiệm ra, thì tầng thứ đó đã vượt qua xong rồi, cũng có thể chỉ có mấy giờ đồng hồ. Có một hôm, chư vị cảm thấy [thân thể] rất linh mẫn, qua một lúc thì không linh mẫn nữa, thực tế là đã vượt qua một tầng thứ lớn rồi. 2. Hình thức biểu hiện của công Thân thể học viên Pháp Luân Công trải qua điều chỉnh thì đã đạt tới trạng thái thích hợp với tu luyện Đại Pháp, đó chính là trạng thái nãi bạch thể. Chỉ khi điều chỉnh tới trạng thái đó thì mới có thể xuất công. Người có thiên mục tầng thứ cao có thể nhìn thấy, công xuất ra trên bề mặt da của người luyện công, sau đó lại tiến vào trong thân thể người luyện công; sau đó lại trở ra, lại tiến vào, tiến hành lặp đi lặp lại như thế, đi từng tầng thứ từng tầng thứ, có những lúc tiến bước rất nhanh. Đó là công lượt thứ nhất. Sau khi công lượt thứ nhất xuất rồi, thân thể người luyện công đã không còn là thân thể bình phàm nữa, sau khi đạt tới nãi bạch thể, từ đó trở đi sẽ không mắc bệnh nữa. Sau đó xuất hiện đau chỗ này, đau chỗ kia, hoặc một chỗ nào đó thấy khó chịu, giống như có bệnh, nhưng đó không phải bệnh đâu, mà là nghiệp lực đang khởi tác dụng. Đợi qua lượt xuất công thứ hai, thì những linh thể kia đã rất lớn rồi, chúng sẽ động, sẽ nói thoại. Có lúc chúng xuất ra rời rạc, có lúc xuất ra mật độ lớn, chúng còn nói chuyện với nhau. Trong những linh thể đó có tồn tại một lượng lớn năng lượng, chúng là dùng để cải biến bản thể. Tu luyện Pháp Luân Công tới trình độ rất cao, có lúc xuất hiện anh hài, có ở khắp thân, chúng rất tinh nghịch, ham chơi, rất thiện lương. Còn có thể luyện xuất ra một loại thân thể nữa, đó chính là nguyên anh. Nguyên anh ngồi trên đài hoa sen, trông đẹp vô cùng. Nguyên anh được luyện ra ấy chính là do âm dương của [thân] thể người hoà hợp mà thành, người tu luyện nam hay nữ đều có thể luyện ra nguyên anh. Lúc đầu nguyên anh rất là bé, rồi từ từ lớn lên, cuối cùng lớn cỡ như người luyện công, trông cùng khuôn dạng, ở bên trong thân thể của họ. Người có công năng đặc dị là có thể nhìn thấy nguyên anh, nói rằng người kia có hai thân thể, trên thực tế chính là họ đã tu thành chân thân. Ngoài ra, sẽ còn tu xuất rất nhiều Pháp thân. Tóm lại, trong vũ trụ có thể xuất công năng 22 Chương II Pháp Luân Công

27 gì thì trong Pháp Luân Công đều có cả; trong các công pháp khác có thể xuất công năng gì thì trong Pháp Luân Công cũng đều có. 3. Tu luyện xuất thế gian pháp Người luyện công thông qua việc luyện công khiến mạch rộng ra, không ngừng mở rộng, khiến các mạch liền thành một mảng, cũng chính là luyện tới không có mạch cũng không có huyệt; nói cách khác, khắp thân đều là mạch, đều là huyệt. Đó vẫn chưa nói lên rằng chư vị đã đắc Đạo, đó chỉ là một loại thể hiện trong quá trình tu luyện Pháp Luân Công, thể hiện của một tầng thứ. Khi tới bước đó rồi, đã tới tận cùng trong tu luyện thế gian pháp, thì công kia xuất ra đã rất lợi hại rồi, đều có hình trạng, cột công trụ cũng rất cao, ngoài ra trên đầu xuất hiện ba đoá hoa. Bấy giờ, họ chỉ là bước hết bước cuối cùng trong tu luyện thế gian pháp. Khi tu tiến tiếp thêm bước nữa, chính không còn gì cả, đưa toàn bộ công ép nhập vào một không gian thâm sâu nhất trong thân thể, họ đã biến thành trạng thái tịnh bạch thể, thân thể người ấy đã là thấu minh [trong suốt]. Lại tiến tiếp một bước nữa, thì tiến nhập vào tu luyện xuất thế gian pháp, cũng gọi là tu luyện Phật thể. Công lại xuất ra nữa thì thuộc về các loại thần thông rồi. Bấy giờ, họ có uy lực vô cùng, phi thường lớn, khi tới cảnh giới cao hơn nữa thì tu thành Đại Giác Giả rồi. Ấy vẫn là xem chư vị tu luyện tâm tính như thế nào, tu luyện tới tầng nào, quả vị là tới tầng đó. Người có chí lớn đắc chính Pháp, thành chính quả, ấy là viên mãn. VI. Tầng thứ tu luyện Pháp Luân Công 23

28 Chương III Tu luyện tâm tính Người tu luyện Pháp Luân Công nhất định phải đặt tu luyện tâm tính lên hàng đầu, nhận định rằng tâm tính là then chốt của việc tăng trưởng công, đây là Lý của luyện công tầng thứ cao. Nói một cách nghiêm khắc, công lực mà quyết định tầng thứ là không phải do luyện ra, mà là dựa vào tâm tính để tu ra. Đề cao tâm tính ấy nói thì dễ, nhưng làm thì khó lắm khó lắm. Người tu luyện cần phải phó xuất cực lớn, cần đề cao ngộ tính, phải có thể chịu khổ trong khổ, phải nhẫn những việc khó nhẫn, v.v. Tại sao một số người luyện công nhiều năm mà không tăng công? Nguyên nhân căn bản trong đó: một là không chú trọng tâm tính; hai là không đắc được chính Pháp tầng thứ cao. Vấn đề này nhất định phải làm rõ ra. Rất nhiều sư phụ dạy công đều giảng tâm tính, đó là thật sự dạy công; một số chỉ dạy động tác và thủ pháp thôi chứ không giảng tâm tính, trên thực tế thì cũng bằng như dạy tà pháp. Vì thế, người luyện công ắt phải một phen bỏ nhiều công phu vào đề cao tâm tính, thì có thể tiến nhập vào tu luyện tầng thứ cao hơn. I. Nội hàm của tâm tính Tâm tính mà Pháp Luân Công giảng, không phải chỉ đức là có thể hàm chứa được, phạm vi bao quát của nó rộng lớn hơn đức nhiều lắm, nó gồm có nội dung đủ các phương diện của đức. Về tâm tính của một người thì đức chỉ đơn thuần là một loại biểu hiện, nếu chỉ đơn thuần lấy đức để lý giải nội hàm của tâm tính thì không đủ. Tâm tính [còn] gồm cả việc đối đãi như thế nào đối với hai mặt được và bỏ 1. Được ấy chính là đạt được đồng hoá với đặc tính của vũ trụ. Tính chất riêng cấu thành của vũ trụ là Chân-Thiện-Nhẫn, sự đồng hoá của một người luyện công với đặc tính vũ trụ chính là thể hiện ở đức ấy. Bỏ chính là vứt bỏ những tư tưởng và hành vi bất lương như tham, lợi, sắc, dục, giết, đánh, trộm, cướp, gian trá, tật đố, v.v. Nếu tu luyện lên tầng thứ cao, thì cần phải vứt bỏ tất cả truy cầu cố hữu của con người đối với dục vọng, tức là cần vứt bỏ hết thảy các tâm chấp trước, chính là cần coi hết thảy những thứ như danh lợi cá nhân thật nhẹ nhàng đạm bạc. Người là do thân xác thịt và tính cách cấu thành nên một người hoàn chỉnh. Vũ trụ cũng như thế, ngoài [những gì có] tính vật chất ra, cũng đồng thời tồn tại đặc tính ChânThiện-Nhẫn. Trong mỗi vi lạp không khí đều có tồn tại đặc tính này. Thể hiện trong xã hội người thường, làm việc tốt thì được biểu dương rộng rãi, làm việc xấu thì bị trừng phạt. Ở tầng thứ cao là thể hiện xuất ra [trạng] thái công năng. Ai thích ứng với loại đặc tính này thì là người tốt, ai rời xa Nó thì là người xấu, ai phù hợp với Nó, đồng hoá với Nó thì chính là người đắc Đạo. Đã là như vậy nên yêu cầu người luyện công ắt phải có tâm tính cực cao để đồng hoá với đặc tính này, như thế mới có thể tu luyện lên tầng thứ cao. Làm người tốt thì dễ hơn, nhưng muốn tu luyện tâm tính thì không dễ như thế. Người tu luyện cần có chuẩn bị về tinh thần, mong muốn chính tâm, trước mang thành ý. Người ta sống ở thế gian, xã hội phức tạp lắm, chư vị muốn hành Thiện, nhưng có thể có người không để chư vị hành Thiện; chư vị chẳng muốn làm hại người khác, nhưng có thể người khác sẽ vì nguyên nhân đủ loại mà tới hại chư vị. Một số ở đó là xuất ra từ những nguyên nhân phi tự nhiên, chư vị có thể ngộ ra đó là vì sao hay không? Chư vị nên làm thế nào? Hết thảy các thứ ở thế gian là thị phi lẫn lộn, bất kỳ lúc nào cũng đang khảo nghiệm tâm tính của chư vị. Khi đối mặt với những khuất nhục không kể tên ra nổi, khi 1 đắc được; khí bỏ, vứt bỏ đi. 24 Chương III Tu luyện tâm tính

29 lợi ích thiết thân của chư vị bị tổn thất, lúc đối mặt với kim tiền, lúc đối mặt với nữ sắc, khi trong đấu tranh quyền lực, khi ghen ghét thù hận của đấu đá, khi trong thống khổ hữu hình và vô hình của các loại chỉ trích nơi xã hội cũng như mâu thuẫn gia đình, chư vị có thể mọi thời mọi lúc lấy yêu cầu nghiêm khắc về tâm tính để giữ mình vững vàng hay không? Đương nhiên, nếu cái gì chư vị cũng đều có thể làm được, thì chư vị đã là Giác Giả rồi. Nhìn chung thì người luyện công dù sao cũng là bắt đầu từ người thường, tu luyện tâm tính cũng là đề cao lên từng chút từng chút. Người có chí tu luyện mà có quyết tâm chịu nỗi khổ lớn và ứng phó những khó khăn lớn, cuối cùng sẽ đắc chính quả. Mong rằng đông đảo những người tu luyện, hãy thủ vững tâm tính, sớm ngày đề cao công lực! II. Mất và được Tại giới khí công và giới tôn giáo đều giảng về mất và được 1. Có người nhìn nhận rằng mất chính là bố thí, làm một số việc tốt, thấy người khó khăn thì giúp một chút; và được chính là được công. Hoà thượng ở chùa cũng nói thế, rằng nên bố thí. Đó là nhìn cái mất quá hạn hẹp. Còn mất mà chúng ta nói là nghĩa rộng, là điều rất lớn. Chúng ta yêu cầu mất đi là những cái tâm người thường, là những tâm chấp trước mà không buông, nếu có thể mất đi những gì mà chư vị cho là trọng yếu, có thể mất đi những gì mà chư vị cho là không thể buông bỏ, thì đó mới là cái mất thật. Giúp người làm một vài việc tốt, biểu thị tâm từ bi, đó chỉ đơn thuần là một phần của mất thôi. Làm người thường muốn nổi danh hơn, được lợi hơn, muốn cuộc sống khá giả hơn, thoải mái hơn, nhiều tiền hơn, đó là mục tiêu của người thường. Nhưng người tu luyện chúng ta chính là không như thế, điều chúng ta được là công, chứ không phải những thứ kia. Chúng ta cần mất bớt một chút những lợi ích cá nhân, coi nhẹ những thứ đó hơn, nhưng không phải là khiến chư vị thật sự mất đi thứ gì. Chúng ta là tu luyện trong xã hội người thường, vẫn cần bảo trì giống với người thường, then chốt là chư vị phải vứt bỏ cái tâm kia, chứ không phải muốn chư vị thật sự mất đi thứ gì. Cái của chư vị thì sẽ không mất, còn cái không phải của chư vị thì kiếm chác cũng không được, cố giành được thì rồi cũng cấp cho người ta, có cái được thì ắt có cái mất. Đương nhiên, lập tức đều làm được rất cao thì không thể, qua một đêm liền thành Giác Giả thì cũng không làm được thế. Nhưng tu từng điểm từng chút, đề cao từng bước thì có thể làm được, chư vị có thể mất bao nhiêu thì sẽ được bấy nhiêu. Về quan hệ lợi ích thì chư vị luôn coi thật nhẹ nhàng, thà đắc được ít đi nhưng [tâm] an nhàn còn hơn. Chư vị có thể chịu thiệt về vật chất, nhưng sẽ được thêm về đức, sẽ được thêm về công, ấy là có đạo lý ở đó, nhưng không phải là chư vị cố ý đem danh dự lợi lộc đi đổi, điều này là cần dùng ngộ tính tiến bộ một bước nữa mà thể nghiệm ra. Có vị tu Đại Đạo từng nói rằng, cái người khác muốn thì tôi không muốn, cái người khác có thì tôi không có; nhưng cái mà tôi có thì người khác không có, cái người khác không muốn thì tôi muốn. Làm một người thường thì rất khó có lúc thoả mãn, cái gì họ cũng muốn. Chỉ có cục đá ở mặt đất thì họ chẳng thèm nhặt. Mà vị tu Đạo kia nói rằng tôi là muốn nhặt cục đá ấy. Tục ngữ rằng cái gì hiếm thì mới quý, cái gì ít thì mới lạ, cục đá ấy ở bên này không đáng tiền, [nhưng] sang bên [không gian] kia thì rất giá trị. Đây là nói lên triết lý mà người thường không nói ra được. Không ít cao nhân đại đức đã tu thành, họ đều không có [tài vật] gì cả, đối với họ, không có gì mà cá nhân [họ] không thể buông bỏ được. Con đường luyện công này là đúng đắn nhất, người luyện công mới là thông minh nhất. Người thường muốn tranh những gì, muốn đạt những chỗ tốt nào đều là nhất thời, vả lại tranh được rồi, [miễn phí] nhặt được rồi, hoặc đạt được một chút chỗ tốt kia thì có 1 thất mất; đắc được. II. Mất và được 25

30 thể sao chứ? Người thường có câu rằng: khi sinh chẳng mang tới, khi chết chẳng mang theo; khi tới thân trống trơn, khi đi thân trơn trống, ngay cả xương cốt cũng hoả thiêu thành tro. Dù chư vị giầu nứt đố đổ vách, quan cao chức trọng, thì chư vị cũng chẳng mang theo được gì hết, nhưng công là có thể mang theo, là vì nó chính là sinh trưởng trên thân chủ ý thức chư vị. Tôi bảo chư vị lời này, công này có được không dễ đâu, nó quá trân quý quá khó được, bao nhiêu vàng cũng không đổi được. Khi công của chư vị đã rất cao rồi, nếu một ngày kia chư vị bảo rằng không nguyện ý luyện công nữa, thì chỉ cần chư vị đừng làm điều xấu, thì bấy giờ công của chư vị sẽ chuyển hoá thành hết thảy những thứ vật chất mà chư vị cần, đều có thể đắc được. Nhưng mà, ngoại trừ những thứ ở thế gian là chư vị đắc được, thì những thứ mà người tu luyện đắc được là chư vị sẽ không có lại nữa. Có những người chỉ vì lợi ích cá nhân nào đó, mà lấy những thứ vốn không thuộc về mình, bằng thủ đoạn không chính đáng để đoạt lấy, họ cho rằng chiếm được lợi, trên thực tế lợi ích mà họ đắc được ấy là dùng đức trao đổi với người ta, chỉ là họ không biết mà thôi. Đối với người luyện công thì khấu trừ vào công; đối với người không luyện công thì khấu trừ vào thọ mệnh, hoặc giảm trừ vào phương diện khác. Tóm lại, khoản ấy là phải kết toán, đó là điều trong Thiên Lý. Còn có những người cứ bắt nạt người khác, lời ác làm thương tổn người khác, v.v., thì cùng theo hành vi đó phát sinh, họ đang đưa một phần đức tương ứng sang người kia rồi, lấy đức trao đổi lấy việc bắt nạt làm nhục người khác. Một số người cho rằng, làm người tốt thì chịu thiệt. Tại người thường mà xét thì thấy họ chịu thiệt thòi, nhưng họ lại được những thứ mà người thường không cách nào được, ấy chính là đức vật chất màu trắng đó là thứ cực kỳ trân quý. Không có đức sẽ không có công, đó là chân lý tuyệt đối. Nhiều người như thế luyện công nhưng vì sao không tăng công? Chính là không có tu đức lên. Nhiều người như thế đều đang giảng về đức, đều yêu cầu đức, nhưng không thật sự giảng ra đạo lý về chuyển hoá đức trở thành công, mà dựa vào cá nhân ngộ ra. Đại Tạng Kinh viết tới vạn cuốn, Pháp mà Thích Ca Mâu Ni hơn 40 năm tại thế giảng ra, đều là giảng cái đức này; sách tu Đạo thời Trung Quốc cổ đại đều bàn về đức này; Lão Tử từng viết cuốn «Đạo Đức Kinh» năm nghìn chữ là cũng giảng cái đức này, nhưng vẫn có người cứ không ngộ ra. Chúng ta giảng về mất, có được thì có mất, chư vị thật sự muốn tu luyện, thì sẽ đụng phải một số ma nạn. Thể hiện trong cuộc sống, một là gặp phải chút tội [khổ] trên thân thể, khó chịu chỗ này khó chịu chỗ kia, nhưng không phải bệnh. Tiếp nữa chính là biểu hiện đều có thể xuất hiện ở xã hội, gia đình, đơn vị [công tác], đột nhiên phát sinh mâu thuẫn vì lợi ích, xuất hiện va chạm về tình cảm, mục đích chính là để chư vị đề cao tâm tính. Những việc ấy thường đến một cách rất đột nhiên, nhìn thì thấy rất mãnh liệt. Nếu chư vị đụng phải việc rất là rắc rối, đẩy chư vị vào chỗ bế tắc, rất mất mặt, rất xấu hổ, vậy bấy giờ chư vị đối đãi như thế nào? Chư vị rất thản nhiên, có thể làm được điểm ấy, thì tâm tính của chư vị đã đề cao qua một khó nạn đó, công của chư vị cũng tăng trưởng cao lên tương ứng. Chư vị có thể làm được chút nào, thì chư vị có thể đắc được chút nấy; chư vị phó xuất bao nhiêu, thì chư vị có thể được bấy nhiêu. Khi ở trong nạn người ta không nhất định là ngộ ra được, nhưng chúng ta cần ngộ ra, không thể lẫn lộn cùng giống người thường, khi mâu thuẫn sinh ra cần có phong thái cao. Chúng ta tu luyện trong người thường, ma luyện tâm tính cũng cần ma luyện trong người thường, cần vấp ngã mấy lần, từ đó học được bài học giáo huấn. Muốn chẳng hề gặp phải phiền toái nào hết, cứ tăng trưởng công một cách quá ư thoải mái, điều đó là không thể. 26 Chương III Tu luyện tâm tính

31 III. Tu Chân-Thiện-Nhẫn đồng thời Pháp môn chúng ta là tu Chân-Thiện-Nhẫn đồng thời. Chân, chính là nói lời chân, làm việc chân, phản bổn quy chân, cuối cùng làm Chân Nhân. Thiện, chính là sinh ra tâm từ bi, hành thiện độ nhân. Đặc biệt nhấn mạnh vào khả năng nhẫn, chỉ có Nhẫn, mới có thể tu xuất kẻ sỹ đại đức, Nhẫn ấy, nó là điều rất mạnh mẽ, là vượt khỏi Chân và Thiện. Toàn bộ quá trình tu luyện đều cần phải khiến chư vị nhẫn, giữ tâm tính vững vàng, không thể tuỳ tiện khinh suất. Gặp phải sự cố thì không dễ mà có thể nhẫn được. Có người nói: đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu, thậm chí bị rất mất mặt trước bạn bè thân quyến mà vẫn nhẫn được, thế chẳng phải đã thành A-Q rồi?! Tôi nói rằng chư vị biểu hiện hoàn toàn như thường về đủ các phương diện, trí lực cũng không kém gì người khác, chỉ duy nhất phương diện lợi ích cá nhân thì coi rất nhẹ nhàng đạm bạc, [thế thì] không ai nói chư vị là ngốc cả. Có thể nhẫn nhịn thì không phải là yếu đuối đâu, không phải là A-Q, mà là biểu hiện của ý chí kiên cường, là biểu hiện của hàm dưỡng. Hàn Tín trong lịch sử Trung Quốc, từng chịu nhục chui háng, chính là đại nhẫn. Cổ đại có câu rằng: thất phu bị nhục, tuốt kiếm ra đấu. Một người thường khi họ bị nhục mạ, thì họ sẽ rút kiếm ra đấu lại, họ sẽ mở miệng lăng mạ người, vung nắm đấm đánh người. Người ta tới [sinh ra ở] thế gian này là không dễ gì, có người chỉ vì một khẩu khí [hơn thua] mà sống, như thế quá là không đáng, và cũng quá mệt mỏi. Trung Quốc có câu rằng: lùi một bước, biển rộng trời trong. Khi chư vị gặp chuyện phiền phức mà thoái lùi một bước, chư vị sẽ phát hiện đã là một cảnh tượng khác rồi. Đã là người luyện công, đối với người phát sinh mâu thuẫn với chư vị, đối với người làm nhục nhã chư vị, thì chư vị không những phải nhẫn, phải có phong thái cao, mà còn phải cảm ơn họ. Nếu không có họ phát sinh mâu thuẫn với chư vị, thì chư vị làm sao có thể đề cao tâm tính, làm sao sẽ ở trong khi chịu thống khổ mà khiến vật chất màu đen chuyển hoá thành vật chất màu trắng, và làm sao tăng trưởng công? Ở trong kiếp nạn thì người ta rất khó chịu, nhưng lúc bấy giờ nhất định phải khắc chế vững vàng, là vì thuận theo việc công lực tăng trưởng lên, thì kiếp nạn kia cũng không ngừng gia tăng, chính là để xem tâm tính chư vị có thể đề cao lên hay không. Lúc bắt đầu có lẽ là quấy rầy làm chư vị cáu giận, tức giận đến mức chư vị khó chịu, bắt nạt làm chư vị khó chịu lắm, bực mình đến mức chư vị đau khổ cả tim gan, nhưng chư vị không hề phát tác, chư vị nhẫn được, thế thì tốt, chư vị đã bắt đầu nhẫn rồi, một loại nhẫn một cách hữu ý. Chư vị sẽ không ngừng dần dần đề cao tâm tính, chư vị sẽ thật sự coi nhẹ những việc đó, và khi đó chư vị sẽ đề cao nhiều hơn nữa. Những va chạm hay một chút sự việc thì người thường cho là rất lớn, lời nói ra đều là để hơn thua cho mình, không thể nhẫn, bực tức lên thì việc gì cũng dám làm. Nhưng đã là người luyện công, thì những thứ mà người khác cho là rất lớn, thì chư vị nhìn thấy rất nhỏ, nhỏ lắm, quá nhỏ bé. Là vì chư vị có mục tiêu hết sức lâu dài, rất xa và rộng lớn, chư vị là sẽ cùng tuổi với vũ trụ. Chư vị thử nghĩ lại xem, có thể có [những thứ kia] hoặc có thể không có, [nhưng] chư vị nghĩ hướng đến [những điều] lớn hơn, thì đều có thể vượt qua những thứ đó. IV. Vứt bỏ tâm tật đố Tâm tật đố [ghen tị] là chướng ngại cực lớn trong luyện công, ảnh hưởng phi thường to lớn tới người luyện công, sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới công lực của người luyện công, làm hại người đồng Đạo, can nhiễu nghiêm trọng đến tu luyện lên cao của chúng ta. Làm người luyện công thì cần 100% trừ bỏ [tâm này]. Có người luyện công tới một tầng thứ nhất định, nhưng tâm tật đố không buông bỏ, hơn nữa khi càng không buông bỏ thì càng IV. Vứt bỏ tâm tật đố 27

32 dễ tăng cường. Loại phản tác dụng ấy khiến những tâm tính khác mà họ đã đề cao biến thành phi thường yếu đuối. Tại sao giảng riêng tâm tật đố này ra? Là vì ở người Trung Quốc tâm tật đố biểu hiện mạnh mẽ nhất, nổi cộm nhất, tỷ trọng lớn nhất trong tâm người ta, thế mà rất nhiều người không ý thức ra [điều ấy]. Tâm tật đố là có riêng ở Đông phương, gọi là tật đố Đông phương hoặc tật đố Châu Á. Người Trung Quốc rất hướng nội, rất hàm súc, không dễ biểu hiện ra ngoài, điều ấy dễ sinh ra tâm tật đố. Sự vật đều là tuy một mà lại có hai mặt, tính cách hướng nội ấy là có mặt tốt, và cũng có mặt không tốt. Người Tây phương là tương đối hướng ngoại hơn, chẳng hạn như, một đứa trẻ ở trường được 100 điểm, nó sẽ rất vui mừng vừa chạy về nhà vừa la lớn: con được 100 điểm,, và hàng xóm cũng mở cửa chính, mở cửa sổ và chúc mừng nó: Tom, chúc mừng nha! và mừng thay cho nó. Nếu ở Trung Quốc thì chư vị thử nghĩ xem, hễ nghe liền thấy phản cảm: được 100 điểm thì có gì ghê gớm đâu, có gì đáng khoe chứ! Phản ứng khác biệt rất rõ ràng, có một loại tâm lý tật đố [ghen tị]. Người có tâm tật đố là coi thường người khác, không để người khác hơn mình, thấy người khác hơn họ thì họ chẳng cân bằng trong tâm, không chịu nổi, không phục. [Họ cho rằng] tăng lương thì cùng tăng, được thưởng thì cùng nhiều như nhau, trời sập xuống thì mọi người cùng đỡ. Thấy người khác kiếm nhiều tiền hơn thì họ ghen tị, dù thế nào đi nữa hễ vượt họ thì quả là không được. Có người làm ra thành quả khoa học nhưng không dám lĩnh thưởng, sợ người khác sẽ tật đố; có người được bình chọn danh hiệu vinh dự nào đó mà không dám nói gì, ngại bị ganh ghét trào phúng. Thấy khí công sư khác giảng bài thì không chịu phục, và tới nơi đó gây rối, đây chính là vấn đề tâm tính. Mọi người cùng nhau luyện công, có người luyện công một thời gian ngắn, nhưng đã xuất công năng. Và thế là có người bèn nói: Anh ta có gì giỏi chứ, tôi luyện hằng bao nhiêu năm, có cả chồng chứng chỉ tốt nghiệp, tôi còn chưa xuất công năng thì anh ta làm sao có thể xuất? Tâm tật đố nổi lên rồi. Luyện công là hướng nội tìm, tự mình hãy tu luyện chính mình nhiều hơn, tìm nguyên nhân ở tự thân. Rằng mình làm còn thiếu sót ở phương diện nào, [thì] mình cần tranh thủ đề cao, dùng nỗ lực vào trong. Người mà toàn là dùng sức lực ra bên ngoài, người khác đều tu tốt cả rồi, đã lên cả rồi, mà chư vị vẫn không lên, chư vị chẳng phải tự hoang phí [thời gian] sao? Tu luyện cần phải tu chính mình! Tâm tật đố còn làm hại người đồng Đạo, ví như nói những lời khó nghe khiến tâm của người khác không sao nhập tĩnh được; khi họ có công năng nhất định, xuất phát từ tật đố mà có thể dùng công năng làm hại người đồng Đạo. [Tôi] dẫn một ví dụ rằng có một người tu luyện được rất khá đang đả toạ luyện công, vì trên thân họ có công, [nên họ] ngồi ở đó như một toà núi. Bấy giờ có hai sinh mệnh phiêu [đãng bay] tới, một trong đó trước đây là hoà thượng, vì có tâm tật đố mà chưa tu lên được, tuy có được công lực nhất định, nhưng chưa tu thành. Khi họ tới chỗ người đả toạ nơi ấy, một sinh mệnh nói: ở đây có ai đó đang tu luyện, chúng ta vòng tránh qua là được! Nhưng sinh mệnh kia nói: nhớ lại năm đó ta một chưởng đập bay một góc núi Thái Sơn. Thế rồi nhắm vào người luyện công mà đập một chưởng. Nhưng giơ tay lên rồi mà không sao phóng xuống được. Bởi vì người luyện công kia là tu luyện chính Pháp, là có lồng phòng hộ, họ đập không nổi. Họ muốn làm hại người tu luyện chính Pháp, [thì] vấn đề đã nghiêm trọng rồi, [sẽ] gặp trừng phạt. Người có tâm tật đố đã hại mình còn hại người. V. Tống khứ tâm chấp trước Tâm chấp trước là nói rằng đối với một sự việc hay một mục tiêu nào đó thì người luyện công cứ kiên trì không buông, có mang truy cầu quá phận, không thể siêu thoát khỏi, thậm chí cố chấp phi thường, không nghe khuyên giải. Có người truy cầu một số công năng tại thế gian, điều này tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến tu luyện lên tầng thứ cao, tâm lý 28 Chương III Tu luyện tâm tính

33 này càng mạnh mẽ, thì càng không dễ buông bỏ, tâm lý sẽ càng không cân bằng càng không ổn định, về sau sẽ cho rằng bản thân mình chẳng đắc được gì cả, mang thái độ hoài nghi thậm chí cả với những gì đã học được. Tâm chấp trước sinh ra từ dục vọng của người ta, đặc điểm của nó là [có] mục tiêu hoặc mục đích là mang tính cục bộ rất rõ ràng, khá là minh xác và cụ thể, [vậy mà] thông thường chính người đó nhận thức không ra. Tâm chấp trước của người thường rất là nhiều, họ vì mục đích truy cầu một thứ nào đó nhưng không đạt được, họ có thể chẳng từ thủ đoạn để thâu tóm trong tay. Là người luyện công thì tâm chấp trước còn là một phía biểu hiện khác. Chẳng hạn như truy cầu loại công năng nào đó, trầm mê trong loại cảnh tượng nào đó, quá nhiệt huyết vào loại biểu hiện nào đó, v.v. Làm người luyện công, chư vị dù cầu điều gì thì cũng là không đúng, cái thứ đó là cần trừ rớt đi. Đạo gia giảng vô, Phật gia giảng không, vào cửa không môn, chúng ta cuối cùng cần đạt tới không vô, cần tống khứ hết thảy các tâm chấp trước, những gì chư vị vẫn chưa buông bỏ ấy thì đều phải buông bỏ hết. Chẳng hạn như truy cầu đối với công năng, chư vị cầu tức là muốn dùng, trên thực tế đó là trái ngược lại với đặc tính của vũ trụ chúng ta, thực tế vẫn là vấn đề tâm tính. Muốn đắc được [chúng], chính là định thể hiện trước mặt người ta, hoặc hiển thị hiển thị. Những cái đó không phải là để hiển thị cho người khác xem. Mà nếu mục đích sử dụng của chư vị rất thuần [khiết], chính là muốn làm việc tốt, nhưng việc tốt ấy chư vị làm ra rồi cũng không nhất định là việc tốt đâu, việc của người thường mà chư vị đem biện pháp siêu thường đi quản nó thì không nhất định là việc tốt. Có người nghe rằng tôi ở lớp truyền thụ giảng rằng có 70% người có thiên mục khai mở, từ đó bèn cứ nghĩ mãi: tại sao mình vẫn không cảm giác được? Đến khi về nhà luyện công thì lực chú ý đều tập trung ở thiên mục, nghĩ đến nhức cả đầu, kết quả vẫn là chẳng nhìn thấy chi cả, đó chính là tâm chấp trước. Mỗi cá nhân có tố chất thân thể khác nhau, căn cơ cũng không như nhau, thiên mục không thể nào đồng thời nhìn thấy được, cũng không thể nào đều có tầng thứ như nhau. Có người có thể nhìn thấy rồi, có người chưa nhìn thấy, đó đều là bình thường. Tâm chấp trước có thể khiến công lực của người luyện công xuất hiện tình trạng đình trệ và luẩn quẩn, nghiêm trọng còn có thể dẫn dắt người luyện công bước sang đường tà. Đặc biệt là có một số công năng, tâm tính mà không tốt thì có thể dùng để làm việc xấu. Có những ví dụ do tâm tính không vững vàng mà dùng công năng làm điều xấu. Ở địa phương kia có một nam sinh đại học xuất một loại công năng khống chế tư duy, công năng này có thể dùng tư duy của cậu này để khống chế tư tưởng hành vi của người khác, cậu này bèn dùng nó để làm điều xấu. Có người khi luyện công xuất hiện một số cảnh tượng, bèn luôn muốn nhìn được minh bạch, [muốn] thấu được rốt ráo là sao, đó cũng là tâm chấp trước. Có người có sở thích nào đó nặng đến như nghiện vậy, rất khó buông bỏ, [đó] cũng là chấp trước. Do căn cơ khác nhau, mục đích khác nhau, có người luyện công là để đạt cảnh giới cao nhất; có người thì chính là để đắc một số thứ. Loại tư tưởng thứ hai tất nhiên sẽ khiến mục đích luyện công mang tính cuộc hạn. Loại tâm chấp trước này mà không bị tiêu trừ, thì có luyện công cũng sẽ không tăng công. Do đó, người luyện công cần coi hết thảy lợi ích vật chất đều rất nhẹ nhàng đạm bạc, không có truy cầu, hết thảy là thuận theo tự nhiên, như thế thì sẽ tránh được sự xuất hiện của tâm chấp trước, cái này chính là xét xem tâm tính người luyện công như thế nào. Tâm tính mà không đề cao từ căn bản, mang theo bất kể tâm chấp trước gì thì đều tu không thành. V. Tống khứ tâm chấp trước 29

34 VI. Nghiệp lực 1. Sự sinh ra của nghiệp lực Nghiệp lực là một loại vật chất màu đen tương phản với đức. Trong Phật giáo gọi đó là ác nghiệp ; tại đây chúng ta gọi là nghiệp lực. Thế nên làm điều xấu thì gọi là tạo nghiệp. Nghiệp hoặc nghiệp lực là do người ta lầm lỗi ở đời này hoặc đời trước mà sinh ra, ví như từng sát sinh, từng bắt nạt ai đó, từng tranh đoạt lợi ích của ai, từng nghị luận sau lưng ai, từng không hữu hảo với ai, v.v., đều sẽ sinh ra nghiệp lực. Còn có nghiệp lực do tổ tiên hoặc bạn bè thân quyến chuyển dịch tới. Khi một người đấm người ta, thì đồng thời vật chất màu trắng đã bay sang đối phương, và khối [không gian] chỗ đó trên thân của mình là bị vật chất màu đen thay thế. Sát sinh là tạo nghiệp to lớn nhất, làm chuyện xấu, sẽ gia tăng nghiệp lực rất nặng. Nghiệp lực là nguyên nhân trọng yếu khiến người ta mắc bệnh, tất nhiên nó không chỉ phản ánh ra là một loại bệnh, cũng có thể là đụng phải rắc rối phiền phức nào đó, v.v., đều là nghiệp lực đang khởi tác dụng. Do đó người luyện công quyết không thể làm những việc bất hảo, hết thảy hành vi không tốt đều sinh ra tín tức không tốt, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến vấn đề luyện công của chư vị. Có những người chủ trương thu khí của thực vật, khi dạy công cũng dạy là thu khí thực vật như thế nào. Rằng khí cây nào thì tốt, khí cây nào có màu gì, giảng thật hào hứng. Ở một công viên vùng Đông Bắc chúng ta, có những người thật không biết là luyện loại công gì, lăn lộn khắp đất, bò dậy quanh cây thông, thu khí cây thông, qua thời gian nửa năm cả một đám cây thông đều úa vàng cả, đó chính là hành vi tạo nghiệp, đó cũng là sát sinh! Vô luận là từ phương diện xanh hoá tổ quốc cân bằng sinh thái hay là từ tầng thứ cao mà giảng, thì thu khí thực vật đều là không tốt. Vũ trụ mênh mang vô biên vô tận này, khí có ở khắp nơi thì chư vị cứ thu đi, chư vị tận sức thu cũng được mà, tại sao cứ phải đi bắt nạt thực vật? Làm người luyện công thì tâm từ bi của chư vị đi đâu mất rồi? Vạn vật đều có linh [tính]. Khoa học hiện đại cũng nhận thức được rằng thực vật không chỉ có sinh mệnh, mà còn có linh tính, có tư duy và cảm tình, thậm chí có công năng siêu cảm. Khi chư vị mở thiên mục tới Pháp Nhãn Thông, chư vị sẽ phát hiện thế giới này là một cảnh tượng khác, chư vị vừa ra khỏi cửa, thì tảng đá, tường, cây, v.v., đều sẽ nói chuyện với chư vị. Vật thể nào cũng đều có thể sinh mệnh tồn tại, khi mà nó hình thành, thì đã có một thể sinh mệnh nhập vào đó. Vật chất hữu cơ và vật chất vô cơ là do nhân loại trên Trái Đất chúng ta đây phân loại ra. Người trong chùa đánh vỡ một cái bát thì trong tâm họ thấy khó chịu, là vì một khi nó bị phá hoại, thì thể sinh mệnh ở bên kia phóng thích ra, nó chưa hoàn thành con đường sinh mệnh của mình, và không có chỗ để đi. Cho nên vô cùng [oán] hận người đã giết nó, càng hận người đó thì nghiệp lực càng lớn. Có những khí công sư còn đi săn, tâm từ bi của họ đi đâu rồi? Phật gia và Đạo gia đều không vi phạm Thiên Lý mà hành sự. Người kia làm như thế chính là hành vi sát sinh. Có người nói rằng quá khứ họ đã tạo rất nhiều nghiệp, giết gà, giết cá, bắt cá, v.v., phải chăng không thể luyện công nữa? Không phải đâu. Bấy giờ chư vị làm mà không hiểu biết, nó sẽ không tạo thành nghiệp lực lớn hơn, từ nay trở đi thì không được làm những việc đó là được rồi. Lại làm nữa thì là cố tình phạm khi biết rõ, thế thì không được. Có những học viên là đã tồn tại loại nghiệp lực đó rồi. Chư vị tới tham gia lớp truyền thụ này là có duyên phận, chư vị là có thể tu luyện lên. Ruồi muỗi [bay] vào nhà thì có thể đập không? Hiện nay mọi người ở tầng thứ này làm việc ấy, đánh chết [ruồi muỗi] cũng không tính là sai. Đuổi không ra thì đập chết thì là đập chết thôi. Một thứ gì đó đến lúc phải chết, thì tự nhiên nó phải chết thôi. Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế, có một lần Ông muốn tắm, bảo đệ tử đi dọn sạch bồn tắm. Đệ tử phát hiện rằng trong bồn tắm có côn trùng, bèn quay lại hỏi Ông là làm thế nào? Ông nói lại một lần nữa: Ta muốn con dọn 30 Chương III Tu luyện tâm tính

35 sạch là bồn tắm. Đệ tử lĩnh ngộ ra, bèn dọn bồn tắm sạch sẽ. Có một số vấn đề thì chư vị không nên quá coi trọng chúng, chúng tôi không bảo chư vị làm một người cẩn thận cả những điều nhỏ nhặt. Tại hoàn cảnh phức tạp, kéo căng tinh thần mọi thời mọi khắc đến mức rất khẩn trương, cứ sợ làm sai chỉ chút chuyện vặt, tôi nói rằng thế là không được, đó chính là một loại chấp trước rồi, bản thân sợ ấy chính là chấp trước. Chúng ta cần có một trái tim từ bi, đối đãi với bất kể việc gì thì cũng mang một trái tim từ thiện, thì sẽ không dễ xuất hiện vấn đề. Đối với lợi ích cá nhân thì hãy coi nhẹ nhàng hơn, tâm địa thiện lương hơn, chư vị làm việc gì cũng đều sẽ chịu chế ước của nó, cho nên chư vị không thể làm ra những việc xấu. Nếu không tin thì chư vị hãy coi thử, chư vị nếu lúc nào cũng mang thái độ khó đăm đăm, toàn là tranh giành đấu đá, thì việc tốt có ở ngay trước mặt thì cũng sẽ làm thành việc xấu. Tôi thường hay thấy có những người [hễ] có lý là không nhường ai, khi họ nắm được lý rồi, thì họ có thể nắm được cái để trị người khác. Đồng thời chúng ta cũng không thể vì thấy không vừa mắt một việc nào đó, bèn khuấy động thị phi, đôi khi điều mà chư vị thấy không vừa mắt là có thể không sai đâu. Làm người luyện công khi không ngừng đề cao tầng thứ, chư vị nói ra một lời nói là cũng mang theo năng lượng, chư vị là có thể chế ước người thường, nhưng không được nói lung tung. Đặc biệt là khi chư vị nhìn không thấy chân tướng của vấn đề, khi nhìn không thấy quan hệ nhân duyên, thì dễ làm ra điều xấu, dễ tạo nghiệp. 2. Tiêu nghiệp Lý của thế gian giống như Lý trên thiên thượng, rằng nợ người ta gì thì phải hoàn trả, ngay cả người thường nợ người ta thì cũng phải trả. Suốt cả đời người, những khó khăn và khó nạn chư vị gặp phải đều là hậu quả của nghiệp lực đã sinh ra, chư vị phải hoàn trả những thứ đó. Những người tu luyện chân chính chúng ta, đường đời của chư vị sẽ cải biến, cần an bài lại mới cho chư vị một con đường mà thích hợp cho chư vị tu luyện, nghiệp lực kia của chư vị được Sư phụ gỡ xuống một phần, còn lại đều là dùng để đề cao tâm tính cho chư vị, bản thân chư vị thông qua luyện công và tu luyện tâm tính mà hoán đổi chúng, bồi thường chúng. Từ nay trở đi chư vị gặp phải vấn đề gì thì đều không hề ngẫu nhiên, chư vị hãy có chuẩn bị tư tưởng như vậy. [Sẽ] khiến chư vị trải qua một số nạn, những thứ người thường không buông bỏ được thì toàn là khiến chư vị buông bỏ. Chư vị sẽ gặp rất nhiều chuyện phiền não, vấn đề nảy sinh từ các loại phương diện như gia đình hay xã hội; hoặc đột nhiên gặp phải tai nạn nào đó; thậm chí vốn là tại người kia không tốt, nhưng rồi những trách cứ và oan uổng lại đổ lên thân chư vị, v.v. Người luyện công lẽ ra không mắc bệnh, nhưng [chư vị] thường hay đột nhiên lâm cơn bệnh nặng, bệnh tới như núi đổ, hành hạ khó mà chịu nổi, đến bệnh viện kiểm tra lại không tra ra bệnh, nhưng không biết tại sao bệnh lại không chữa mà khỏi, thực tế là món mà chư vị từng nợ đã thông qua hình thức đó mà được trả rồi. Có lẽ một hôm nào đó, vợ hoặc chồng chư vị vô duyên vô cớ gây sự hoặc phát cáu với chư vị, một việc không đâu cũng biến thành tranh chấp lớn, về sau cảm thấy thế kỳ lạ quá. Làm người luyện công thì chư vị nên hiểu rõ rằng vì sao nảy sinh những việc này, chính là thứ đó đến, đòi chư vị hoàn trả nghiệp ấy. Bấy giờ chư vị cần giữ mình vững vàng, giữ vững tâm tính hoá giải việc đó, trân quý và cảm ơn họ đã giúp chư vị tiêu nghiệp. Ngồi đả toạ thời gian nhiều lên thì sẽ đau chân, có người cảm thấy đau như chết đi sống lại. Người có thiên mục tầng thứ cao nhìn thấy rằng, khi rất đau, thì từ cả trong và ngoài thân thể người luyện công có một khối lớn màu đen hạ xuống tiêu đi. Cái đau của đả toạ là đau từng trận và làm tâm rất khó chịu, có người có ngộ tính, bèn không tháo ra, [chất] đen tiêu đi thì chuyển hoá thành trắng, [và sẽ] chuyển hoá thành công. Nghiệp lực của người luyện công là không thể thông qua ngồi đả toạ và luyện công mà tiêu trừ hết, vẫn cần đề cao tâm tính và ngộ tính, nếm trải và chịu đựng những ma nạn đó. Quan trọng VI. Nghiệp lực 31

36 là chúng ta làm người là phải thiện lương, Thiện tâm trong Pháp Luân Công chúng ta là xuất ra rất sớm, khá nhiều người luyện công vừa tới kia ngồi [xếp bằng], liền chảy nước mắt vô danh, nghĩ gì cũng thấy tâm cay đắng, thấy rằng ai cũng khổ, đó chính là sinh ra tâm từ bi, thiên tính của chư vị, cái tôi chân chính [của chư vị] thuở ban đầu là câu thông với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn của vũ trụ. Khi mà Thiện tâm của chư vị xuất ra, thì chư vị làm các việc sẽ rất là Thiện, từ biểu hiện của nội tâm cho tới bên ngoài, hễ nhìn là đã thấy rất thiện lương rồi, bấy giờ không ai bắt nạt chư vị nữa. Bấy giờ nếu có người thật sự bắt nạt chư vị, thì tâm đại từ bi của chư vị khởi tác dụng, chư vị sẽ không đánh trả, nó là một loại lực lượng, nó cũng thúc đẩy để chư vị không như người thường nữa. Khi chư vị đụng phải kiếp nạn, thì tâm từ bi ấy sẽ giúp chư vị vượt qua quan [ải] khó khăn ấy, đồng thời Pháp thân của tôi sẽ coi sóc chư vị, bảo hộ sinh mệnh của chư vị, nhưng nạn ấy nhất định là khiến chư vị qua. Ví dụ khi tôi mở lớp ở Thái Nguyên có một đôi vợ chồng cao tuổi tới tham gia lớp của tôi [và khi] vội vàng qua chỗ đường ô-tô, lúc ấy đang ở giữa đường, thì một ô-tô con tới, chạy rất nhanh, lập tức đâm ngã và cuốn lấy bác gái, lôi đi xa hơn mười mét, ngã ngay trên đường. Chiếc xe con này chạy tiếp hơn hai chục mét mới dừng lại được. Lái xe nhảy xuống xe và nói ra những lời khó nghe; người ngồi trong xe cũng nói những lời chẳng dễ nghe lắm. Bác gái cũng không nói gì hết, bấy giờ nhớ lại lời mà tôi giảng, bèn đứng lên, rồi bác gái nói: Không sao, không sao cả, không đâu bị sao cả, rồi bà cùng ông chồng dắt nhau tới lớp học. Bấy giờ nếu mà bà nói một câu: Úi chà! Chỗ này tôi bị rồi, chỗ kia hỏng rồi, cậu đưa tôi đến bệnh viện đi. Thế thì có thể thật sự bị rồi, nhưng bà ấy không làm thế. Bác gái ấy nói với tôi rằng: Thưa Thầy, con biết đây là việc gì, đây là giúp con tiêu nghiệp! Tiêu đi một nạn lớn, tiêu mất một cục nghiệp to lớn. Mà nghĩ xem tâm tính và ngộ tính của bà rất là tốt, tuổi tác cao ngần ấy, xe chạy nhanh như thế, bị lôi đi xa như thế, bị ngã xuống đường mạnh như thế, [vậy mà] đứng lên, tâm rất là chính. Đôi lúc khi mà kiếp nạn tới, xem ra to lớn phi thường, quả thực là nghĩ thế nào cũng không có đường [ra]. [Nhưng] có lẽ qua mới có vài ngày, đột nhiên đường lộ ra, đột nhiên sự việc phát sinh chuyển biến lớn, trên thực tế chính là tâm tính chúng ta đề cao lên, thì thứ đó tự nhiên tiêu mất đi. Muốn đề cao cảnh giới tư tưởng thì ắt phải thông qua các loại khảo nghiệm ma nạn ở thế gian, trong quá trình ấy tâm tính chư vị thật sự đi lên rồi, ổn định rồi, [thì] nghiệp cũng tiêu đi rồi, ma nạn của chư vị cũng qua đi rồi, công cũng tăng rồi. Nếu trong cơ hội khảo nghiệm tâm tính, mà không giữ tâm tính vững vàng, làm điều lầm lỗi, thì bấy giờ chư vị không được nản lòng, cần tổng kết một cách tích cực từ bài giáo huấn đó, tìm chỗ kém ở đâu, thêm công phu vào [tu luyện] Chân-Thiện-Nhẫn. Một đề [bài] khó kế tiếp để khảo nghiệm tâm tính có thể sẽ sắp tới ngay tiếp theo. Cùng với việc đề cao công lực, thì các ma nạn để khảo nghiệm tâm tính có thể đến một cách mãnh liệt hơn, đột nhiên hơn. Mỗi khi chư vị qua một quan [ải] thì công lực sẽ tăng lên một chút; quan ấy mà không qua được thì công lực đình trệ. Khảo nghiệm nhỏ tăng trưởng ít; khảo nghiệm lớn tăng trưởng nhiều. Mong rằng mỗi người luyện công đều chuẩn bị chịu cái khổ lớn, cần có quyết tâm và nghị lực nghênh tiếp những khó nạn lớn. Không có phó xuất thì không đạt được công chân thật. Nghĩ rằng an nhàn thoải mái không phó xuất gì, không chịu khổ mà đắc công, là không có đạo lý đó đâu. Tâm tính không cải biến thành tốt từ căn bản, vẫn mang bất kể tâm chấp trước nào của người thường thì không tu thành Đại Giác Giả được. 32 Chương III Tu luyện tâm tính

37 VII. Chiêu ma Chiêu [dẫn] ma là nói về [việc] người luyện công trong quá trình luyện công thì xuất hiện hiện tượng hoặc cảnh tượng làm ảnh hưởng đến luyện công, mục đích là ngăn trở không để người luyện công tu luyện lên tầng thứ cao, cũng có thể nói là ma tới đòi nợ. Công pháp khi tu luyện tới tầng thứ cao, hẳn sẽ gặp vấn đề chiêu ma này. Suốt một đời của một người hoặc là tổ tiên của vị ấy không tránh khỏi làm một số việc bất hảo, những việc bất hảo đó gọi là nghiệp lực. Căn cơ một người là tốt hay không, chính là quyết định bởi nghiệp lực người ấy mang theo nhiều hay ít, ngay cả một người rất là tốt, nhưng cũng không thể không có nghiệp lực. Là vì chư vị không tu luyện, nên chư vị không thể nhận ra được [chúng]. Nếu chư vị chỉ để trừ bệnh khoẻ thân, thì không ma nào tới quản chư vị, đến khi chư vị muốn tu luyện lên tầng thứ cao, chúng bèn muốn quản chư vị, chúng có thể dùng tới các loại phương pháp tới quấy nhiễu chư vị, mục đích là không để chư vị tu luyện lên tầng thứ cao, khiến chư vị tu không thành. Phương thức mà ma xuất hiện là có nhiều loại, có [loại] là bằng hiện tượng trong cuộc sống thường ngày của chúng ta để xuất hiện, có [loại] là bằng hình thức tín tức đến từ không gian khác để tiến hành can nhiễu, khiến chư vị hễ vừa ngồi xuống liền có loại việc nào đó đến quấy nhiễu, làm chư vị không cách nào nhập tĩnh, không cách nào tu lên tầng thứ cao; có những lúc chư vị hễ ngồi đả toạ liền trầm trầm muốn ngủ hoặc suy nghĩ miên man, không cách nào nhập vào [trạng] thái luyện công; có những lúc chư vị hễ luyện công, hoàn cảnh vốn vẫn an tĩnh, thì đột nhiên có tiếng bước chân, tiếng sập cửa, tiếng còi ô-tô, có điện thoại can nhiễu, các loại quấy rầy, khiến chư vị không tĩnh xuống được. Còn có một loại nữa là ma sắc, người luyện công khi ngồi đả toạ hoặc trong mộng, trước mặt họ xuất hiện con trai đẹp hoặc con gái đẹp, hấp dẫn chư vị quyến rũ chư vị, làm một số động tác kích thích tính [dục] của chư vị, dẫn khởi tâm tham luyến sắc đẹp của chư vị. Chỉ cần chư vị không vượt qua một lần, nó sẽ từng bước thăng cấp, dẫn dụ chư vị, mãi đến khi chư vị từ bỏ ý nghĩ tu luyện lên tầng thứ cao mới thôi. Quan [ải] này rất khó vượt qua, không ít người luyện công vì điều này mà sớm chấm dứt. Mong chư vị có chuẩn bị tinh thần, nếu có người tâm tính không đủ vững vàng, một lần không qua thì hãy nghiêm chỉnh học bài giáo huấn này, nó sẽ nhiều lần quấy rối chư vị, cho đến khi chư vị giữ vững tâm tính, hoàn toàn vứt bỏ tâm chấp trước loại ấy thì mới thôi. Đây là một quan [ải] lớn, nhất định phải vượt qua, nếu không thì không thể đắc Đạo, không thể tu thành. Một loại hình thức nữa của ma là khi luyện công hoặc khi ngủ mơ, đột nhiên nhìn thấy một số bộ mặt đáng sợ, rất hung ác, trông rất thật, hoặc cầm dao sắp giết người, nhưng nó chỉ là hù doạ người, nó thật sự tới chặt chém cũng không chém được, là vì Sư phụ đã đặt lồng phòng hộ bên ngoài [thân] thể người luyện công, chém không tới. Nó hù doạ người có mục đích là không để chư vị luyện công. Những thứ đó đều là biểu hiện ở một tầng thứ ấy, ở một giai đoạn ấy, [người luyện công] rất nhanh sẽ nhảy vượt qua, [trải qua] mấy hôm, một tuần hoặc hoặc vài tuần. Là để xem tâm tính cao bao nhiêu, xem chư vị nhìn nhận và đối đãi việc này như thế nào. VIII. Căn cơ và ngộ tính Căn cơ là nói về vật chất màu trắng mà người ta mang theo khi sinh ra 1, chính là đức, loại vật chất hữu hình ấy, mang nhiều [đức] thì tất nhiên căn cơ là tốt. Người có căn cơ tốt dễ quy chân, dễ ngộ Đạo, là vì tư tưởng của họ không có chướng ngại, hễ nghe tới học khí công, hễ nghe tới những điều tu luyện, thì họ liền nảy sinh hứng thú, họ nguyện ý đi học, có thể câu thông với vũ trụ. Chính như điều mà Lão Tử từng thuyết: Thượng sỹ văn 1 tiên thiên là để chỉ là cái gì nguyên vốn có, trời ban, sinh ra là như thế rồi. VIII. Căn cơ và ngộ tính 33

38 Đạo, cần nhi hành chi; trung sỹ văn Đạo, nhược tồn nhược vong, hạ sỹ văn Đạo, đại tiếu chi, bất tiếu bất túc dĩ vi Đạo. Người mà dễ quy chân và ngộ Đạo là thuộc về kẻ thượng sỹ. Trái lại, người có nhiều vật chất màu đen, người có căn cơ kém thì ở ngoài [thân] thể của họ có hình thành một lớp chắn, khiến họ không thể tiếp thụ những thứ tốt. Nếu như tiếp xúc với thứ tốt thì khi đó nó sẽ thúc đẩy khiến họ không tin theo, trên thực tế đây là tác hại của nghiệp lực. Bàn về căn cơ ắt động chạm tới vấn đề ngộ tính. Hễ nói tới ngộ, có người liền cho rằng ngộ nghĩa là thông minh. Người thông minh hoặc khôn khéo mà người thường nói đến ấy thực ra là cách rất xa với tu luyện mà chúng ta giảng, người thông minh loại này thông thường không dễ khai ngộ, họ chỉ coi trọng thế giới vật chất hiện thực, cái gì cũng không chịu thiệt, cái gì tốt cũng không chịu buông tay. Nhất là có một số người cá biệt, tự cho rằng có học vấn cao, có trí thức, rất thông minh, [và] coi tu luyện như chuyện [hư cấu] Nghìn Lẻ Một Đêm. Luyện công tu tâm tính, đối với họ mà nói là quá khó tin, họ cho rằng những người luyện công đều là kẻ ngốc, là mê tín. Ngộ mà chúng ta giảng, không phải là thông minh kia, mà là nói về sự quy chân của [bản] tính người ta, làm một người tốt, phù hợp với đặc tính vũ trụ. Căn cơ quyết định ngộ tính của cá nhân, căn cơ tốt, thì ngộ tính cũng tốt. Căn cơ quyết định ngộ tính, ngộ tính cũng không hoàn toàn chịu chế ước của căn cơ. Căn cơ dù tốt đến đâu, [nhưng] lý giải kém, ngộ không ra thì vẫn là không được. Có người căn cơ không tốt lắm, nhưng ngộ tính của họ tốt, có thể tu lên. Chúng ta là phổ độ chúng sinh, xét ngộ tính chứ không xét căn cơ. Cho dù chư vị mang theo nhiều thứ xấu, nhưng chỉ cần chư vị quyết tâm tu lên, thì niệm ấy của chư vị xuất ra trên thực tế đó là chính niệm. Có ý nghĩ ấy, chư vị cũng chỉ bất quá [cần] phó xuất nhiều hơn một chút so với người khác thôi, cuối cùng vẫn có thể tu thành. Thân thể người luyện công đã là thuần tịnh rồi, sau khi xuất công thì thân thể không thể có bệnh, vì vật chất cao năng lượng bên trong [thân] thể đã không cho phép vật chất màu đen tồn tại nữa. Nhưng có những người không tin, vẫn cứ tưởng rằng mình có bệnh, nói sao mà tôi khó chịu thế này! Chúng ta nói điều chư vị đắc được là công, chư vị đắc được những thứ tốt đến thế, còn có thể khó chịu sao? Tu luyện mà, chính là cần phó xuất một cách tương ứng. Trên thực tế đó đều là những thứ bề mặt, không ảnh hưởng chút gì tới thân thể chư vị, xem ra dường như là bệnh, [nhưng] hoàn toàn không phải bệnh, ấy là cần dựa vào chư vị tự mình ngộ. Người luyện công không chỉ cần chịu khổ trong khổ, mà còn phải có ngộ tính tốt. Có người khi gặp việc phiền não vẫn không ngộ [ra], chúng ta ở đây giảng tầng thứ cao, lấy tiêu chuẩn cao để yêu cầu tự mình như thế nào, nhưng họ vẫn tự lẫn mình cùng như người thường, họ thậm chí không thể tự đặt mình vào trạng thái của người luyện công mà tu luyện, cũng không tin rằng mình sẽ ở tầng thứ cao. Ngộ được giảng ở tầng thứ cao là khai ngộ. Ngộ, có phân biệt đốn ngộ và tiệm ngộ. Đốn ngộ là nói về toàn bộ quá trình tu luyện đều luyện khi bị khoá. Sau khi chư vị đi hết quá trình tu luyện rồi, sau khi tâm tính đề cao rồi, rồi tới thời khắc cuối cùng, công năng toàn bộ nổ xuất ra, thiên mục chỉ trong nháy mắt đạt tầng thứ cao nhất, tư duy có thể tiếp xúc với các sinh mệnh cao cấp ở không gian khác, ngay tức khắc nhìn thấy chân tướng của các không gian và các thế giới đơn nguyên ở toàn thể vũ trụ, đồng thời còn [có thể] câu thông với họ, có thể thi triển thần thông lớn. Con đường đốn ngộ này là khó đi nhất, các thế hệ trước đây đều là chọn người có căn cơ rất cao làm đệ tử, thế hệ trước đều là công pháp đơn truyền. Một người bình thường sẽ không chịu nổi đâu! Tôi là đã đi con đường đốn ngộ này. Hiện nay tôi cấp cho mọi người là những điều thuộc về tiệm ngộ. Nó trong quá trình tu luyện, nên xuất công năng nào thì là xuất công năng ấy, nhưng không có tuyệt đối rằng xuất công năng nào thì liền cấp cho chư vị dùng. Khi tâm tính chư vị chưa đạt tới một tầng thứ nhất định, giữ mình chưa vững vàng, dễ phạm điều xấu, thì công năng là tạm 34 Chương III Tu luyện tâm tính

39 thời không cho chư vị dùng, nhưng cuối cùng sẽ cấp cho chư vị. Thông qua tu luyện, tầng thứ sẽ dần dần đề cao, dần dần nhận thức được chân tướng của vũ trụ, cũng như đốn ngộ là cuối cùng cũng đạt viên mãn. Con đường tiệm ngộ dễ đi hơn, không có tính nguy hiểm. Cái khó là quá trình tu luyện chư vị đều nhìn thấy, [nên] chư vị càng phải nghiêm túc yêu cầu bản thân mình. IX. Tâm thanh tĩnh Một số người luyện công không tĩnh lại được, và đang tìm kiếm phương pháp nhập tĩnh. Có người hỏi tôi: Thưa Thầy, con luyện công vì sao mà không tĩnh lại được. Thầy dạy cho con biện pháp nào đó, chọn dùng một thủ pháp nào đó, khiến con ngồi đả toạ có thể tĩnh lại được. Tôi nói chư vị làm sao có thể tĩnh lại được! Thần Tiên tới dạy chư vị các phương pháp thì chư vị cũng không tĩnh lại được. Tại sao? Là vì tự thân chư vị tâm không thanh tĩnh. Người sinh sống ở xã hội này, thất tình lục dục, lợi ích cá nhân về đủ mọi phương diện, những thứ của mình và thậm chí của cả bạn bè thân quyến cũng được chư vị đặt trong tâm, chiếm một tỷ trọng lớn trong não, đặt ở vị trí khá là cao, khi ngồi đả toạ luyện công liệu có thể tĩnh lại không? Cố ý áp chế [nó], mà tự nó ở đó sẽ ào xuất ra. Trong pháp tu của Phật giáo giảng Giới-Định-Huệ. Giới, chính là cần vứt bỏ những thứ chấp trước kia. Có người sử dụng niệm Phật hiệu, cần nhất tâm bất loạn mà niệm, khiến tư tưởng của mình đạt tới trạng thái một niệm thay vạn niệm. Nhưng đó là một loại công phu, chứ không phải là một loại phương pháp. Nếu không tin chư vị thử niệm đi, bảo đảm là trên miệng đang niệm Phật hiệu, mà trong đầu nổi lên liên miên các thứ. Ngay từ đầu Lạt-ma giáo Tây Tạng niệm Phật hiệu là phải mỗi ngày niệm mấy trăm vạn lượt, niệm cả một tuần. Niệm đến đầu não mê mụ đi, cuối cùng trong đầu không còn gì nữa, một niệm đã thay cho vạn niệm rồi. Đó là một loại công phu, chư vị không nhất định làm nổi. Cũng có một số công pháp dạy phương pháp rằng chư vị đặt ý đan điền, đếm số hoặc mắt nhìn vật, v.v., trên thực tế những cái đó đều không thể khiến chư vị tĩnh xuống một cách tuyệt đối được đâu. Người luyện công cần phải có cái tâm thanh tĩnh, phải xả bỏ dần những lợi ích cá nhân, buông bỏ tâm tham muốn dục vọng đi. Trên thực tế có thể tĩnh lại hay không, định lại hay không, [ấy] là phản ánh một người có công phu cao hay thấp, tầng thứ cao hay thấp. Hễ ngồi toạ liền có thể tĩnh lại, đó là thể hiện của tầng thứ. Tạm thời không tĩnh lại được, làm không được thì cũng đừng sốt ruột, chư vị có thể dần dần làm được qua quá trình tu luyện. Tâm tính là dần dần đề cao, công là dần dần tăng trưởng. Nếu chẳng coi nhẹ hết thảy lợi ích và dục vọng cá nhân, thì công sẽ không cách nào tăng trưởng. Người luyện công mỗi thời mỗi khắc đều cần lấy tiêu chuẩn cao mà yêu cầu tự mình. Các loại hiện tượng phức tạp ở xã hội, rất nhiều thứ cấp thấp, không lành mạnh, những thứ thất tình lục dục, không lúc nào là không can nhiễu người tu luyện. Những thứ quảng bá trong truyền hình, điện ảnh, và các tác phẩm văn nghệ, chúng là dẫn dắt người ta làm kẻ mạnh nơi người thường, làm người thường càng vì cái hiện thực này. Chư vị mà không siêu thoát khỏi những thứ ấy, thì chư vị càng ngày càng cách xa với tâm tính và tâm cảnh của người luyện công, công mà chư vị đắc ngày càng ít đi. Người luyện công cần [giảm] thiểu hoặc không tiếp xúc với những thứ cấp thấp, không lành mạnh, nên làm được thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn 1, không động [tâm] vì người khác, bất động tâm. Tôi thường nói, tâm của người thường không đả động được tôi, ai nói lời tốt về tôi, tôi sẽ không vì thế mà cao hứng; ai mạ [lỵ] tôi không tốt, tôi cũng sẽ không vì thế mà tức giận, can nhiễu tâm tính giữa người với nhau hoặc giữa những người thường thì dù nghiêm trọng đến đâu cũng không khởi tác dụng đối với tôi. Người luyện công cần coi 1 thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn: nhìn mà [như] không nhìn thấy, nghe mà [như] không nghe thấy. IX. Tâm thanh tĩnh 35

40 thật nhẹ nhàng hết thảy những thứ lợi ích đắc được, không để gì trong tâm cả, bấy giờ cái tâm ngộ Đạo của chư vị mới được tính là trưởng thành chín chắn. Không có tâm cưỡng cầu về danh lợi, coi danh lợi địa vị như chẳng là gì đáng kể, [thì] chư vị không phiền não, không tức giận, vĩnh viễn ở trạng thái tâm lý bình ổn. Cái gì cũng buông bỏ hết, thì tự nhiên sẽ thanh tĩnh. Tôi đã giảng Đại Pháp cho chư vị rồi, năm bài công pháp đều dạy cho chư vị rồi, điều chỉnh tốt thân thể cho chư vị rồi, cài lên thân cho chư vị Pháp Luân và khí cơ, còn có Pháp thân của tôi bảo hộ chư vị. Những gì cần cấp cho chư vị thì đều cấp cho chư vị rồi. Trong thời gian của lớp học thì trông vào tôi, từ nay về sau là trông vào [bản thân] chư vị. Sư phụ lĩnh tiến môn, tu hành tại cá nhân 1. Chừng nào chư vị còn học thấu Đại Pháp, tinh tâm thể ngộ, mọi lúc đều giữ tâm tính vững vàng, cần cù thực tu, có thể chịu đựng khổ trong khổ, có thể nhẫn cả những việc khó nhẫn, [thì] tôi nghĩ rằng chư vị nhất định sẽ tu luyện thành công. Công tu hữu lộ tâm vi kính Đại Pháp vô biên khổ tác chu2 1 Sư phụ lĩnh tiến môn, tu hành tại cá nhân: Sư phụ dẫn vào cửa, tu hành ở tự cá nhân bản thân mình. 2 Tạm dịch: Tu luyện có đường tâm là tắt, Đại Pháp vô biên khổ làm thuyền. 36 Chương III Tu luyện tâm tính

41 Chương IV Các bài công pháp Pháp Luân Công Pháp Luân Công là một phương pháp đặc thù của tu luyện Phật gia, có những chỗ độc đáo riêng của mình khác với các phương pháp tu luyện Phật gia thông thường. Là vì công pháp này là đại pháp tu luyện thượng thừa, quá khứ [là] pháp tu luyện cường hoá đặc thù mà yêu cầu cái học của người có tâm tính cực cao hoặc người đại căn cơ, do đó khó mà phổ cập. Nhưng để khiến nhiều người luyện công hơn nữa được đề cao, hiểu rõ được pháp môn này, đồng thời cũng thoả mãn yêu cầu của đông đảo người có chí tu luyện, nên [tôi] lấy công pháp này chỉnh lý thành một bộ phương pháp tu luyện thích hợp cho phổ cập để truyền ra. Ngay cả là như vậy, Nó cũng vượt rất rất xa về những điều sở học và tầng thứ so với các công pháp thông thường. Người tu luyện Pháp Luân Công không chỉ có thể nhanh chóng tăng trưởng công lực và công năng, mà còn sẽ trong một thời gian rất ngắn mà luyện xuất ra một Pháp Luân uy lực không gì sánh được. Sau khi Pháp Luân hình thành rồi, lúc bình thường sẽ tự động xoay chuyển không ngừng ở chỗ bụng dưới, không ngừng thâu thập và diễn hoá năng lượng từ vũ trụ, cuối cùng chuyển hoá thành công ở trong bản thể của người tu luyện, từ đó đạt được mục đích Pháp luyện người. Bộ công pháp này do năm bài động tác hợp thành, đó là: Phật Triển Thiên Thủ pháp, Pháp Luân Trang pháp, Quán Thông Lưỡng Cực pháp, Pháp Luân Chu Thiên pháp, và Thần Thông Gia Trì pháp. I. Phật Triển Thiên Thủ pháp Công lý: Cốt lõi của Phật Triển Thiên Thủ pháp là duỗi ra, khiến tất cả các mạch đều thông. Đối với người mới học khí công mà nói, có thể rất nhanh chóng đắc khí thông qua luyện công; đối với người có kinh nghiệm luyện công mà nói thì có thể nhanh chóng đạt được đề cao. Bài công pháp này ngay từ đầu yêu cầu bách mạch giai thông, để người luyện công luyện ở một tầng thứ rất cao. Động tác của công pháp này khá đơn giản, là vì Đại Đạo là chí giản chí dị, động tác tuy đơn giản, nhưng là ở hoành quan mà khống chế chỉnh thể những thứ mà công pháp cần luyện ra. Khi học và luyện công này, sẽ cảm thấy thân thể nóng lên, cảm thụ đặc thù của trường năng lượng rất mạnh, nguyên nhân là triển khai và khai thông toàn bộ thông đạo khí toàn thân mà thành như thế. Mục đích của nó là đả thông những chỗ khí bị tắc, [trở nên] thông suốt không trở ngại, điều động làm cho khí ở trong thân thể và ở dưới da vận động mạnh mẽ, hấp thu một lượng lớn năng lượng vũ trụ, đồng thời có thể khiến người luyện công rất nhanh tiến nhập vào trạng thái ở trong trường năng lượng. Bài công pháp này được luyện như bài công pháp cơ sở của Pháp Luân Công, mỗi khi luyện công thì thông thường tu luyện bài công pháp này trước, [đây] là một trong những phương pháp cường hoá tu luyện. Quyết1: Shēnshén héyī, dòngjìng suíjī; Dǐngtiān dúzūn, qiānshǒu Fó lì. Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, hai chân giang rộng bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai chân hơi cong một chút, đầu gối và háng trạng thái lỏng tự nhiên; hàm dưới hơi thu, lưỡi chạm hàm trên, hàm răng hơi hở một tí, môi miệng khép 1 quyết: trong sách này tạm hiểu là bài khẩu quyết, nhẩm đọc (mặc niệm) một lần trước mỗi bài công pháp. Chú ý: do đặc điểm của khẩu quyết cũng như các câu chú khác, học viên cần nghe trực tiếp tiếng Hán và phát âm tiếng Hán cũng như lặp theo phát âm Hán (có trong băng tiếng nhạc nền bài tập). I. Phật Triển Thiên Thủ pháp 37

42 lại, hai mắt hơi nhắm, nét mặt mang ý an hoà. Khi luyện công sẽ cảm thấy bản thân rất là cao lớn. Hình 1.1, 1.2, 1.3, 1.4, 1.5 và 1.6 Hai tay kết ấn: Nâng hai tay lên, lòng tay ngửa ra. Hai đầu ngón tay cái nhẹ nhàng nối tiếp nhau, từng bộ bốn ngón tay khác xếp chồng lên nhau, nam tay trái ở trên, nữ tay phải ở trên, tạo thành tựa như hình bầu dục, đặt ở chỗ bụng dưới. Hai bắp tay hơi hướng phía trước, hai cùi chỏ chếch lên, khiến chỗ nách có khoảng không, (như hình 1.1). 38 Chương IV Các bài công pháp Pháp Luân Công

43 Di Lặc duỗi lưng: Từ thế kết ấn, khi giữ thủ ấn đưa lên, thuận theo bàn tay đưa lên, hai chân dần dần duỗi thẳng, khi bàn tay lên tới chỗ trước mặt, tháo kết ấn ra, vẫn dần dần xoay lòng bàn tay hướng lên, khi tới vị trí phía trên đầu, lòng tay hướng lên, 10 ngón chỉ vào nhau, khoảng cách giữa các ngón tay khoảng 20~25cm (như hình 1.2). Đồng thời lúc ấy, dựng đầu thẳng lên, hai chân dẫm xuống, thân thể căng thẳng, đặt lực vào hai gốc bàn tay để đẩy lên, toàn thân dần dần kéo căng thẳng, ước chừng khoảng 2~3 giây đồng hồ, sau đó toàn thân lập tức buông chùng. Đặc biệt là chỗ đầu gối và háng khôi phục lại trạng thái thả lỏng tự nhiên. Như Lai quán đỉnh: Tiếp theo thế trước, đồng thời xoay hai bàn tay ra ngoài cổ tay tạo góc 140 hình cái phễu, duỗi cổ tay và đưa bàn tay xuống, (như hình 1.3). Khi hai tay xuống xoay vào trước ngực, lòng bàn tay cách ngực khoảng 10cm, và tiếp tục chuyển động tới chỗ bụng dưới (như hình 1.4). Hai tay hợp thập1: Bàn tay ở chỗ bụng dưới rồi, lập tức đưa lên và hai tay hợp thập trước ngực (như hình 1.5). Khi hợp thập, khép chặt giữa các ngón tay với nhau và giữa hai gốc lòng bàn tay với nhau, [còn] trung tâm lòng bàn tay là có khoảng không, cùi chỏ chếch ra, hai cẳng tay tạo thành hình chữ nhất2. (Ngoài lúc hai tay ở thế hợp thập và kết ấn ra, thì đều là tay liên hoa chưởng 3, phía dưới đây cũng như thế). Chưởng chỉ càn khôn4: Bắt đầu từ thế hợp thập. Hai bàn tay tách ra, cách nhau chừng 2~3cm, đồng thời bắt đầu xoay bàn tay, nam tay trái (nữ tay phải) xoay hướng vào ngực, tay phải hướng ra ngoài ngực, hình thành tay trái ở trên, tay phải ở dưới và cẳng tay giống hình chữ nhất (nữ thì trái phải ngược lại), (như hình 1.6) Tiếp theo, cẳng tay trái duỗi thẳng chếch lên bên trái, bàn tay úp xuống, độ cao bàn tay ngang với đầu thì dừng; tay phải đặt chỗ trước ngực, bàn tay ngửa lên. Thuận theo khi tay trái dần dần tới vị trí, thì toàn thân cũng dần dần căng thẳng, đầu dựng lên, chân dẫm xuống. Tay trái duỗi thẳng phía chếch bên trái, tay phải ở trước ngực, bắp tay thẳng hướng phía ngoài (như hình 1.7). Duỗi khoảng 2~3 giây đồng hồ, rồi toàn thân lập tức buông chùng, tay trái lại thu về chỗ trước ngực và cùng với tay phải thành trạng thái hợp thập. Sau đó lại xoay bàn tay, triển khai tay phải (nữ tay trái) ở trên, tay trái ở dưới (như hình 1.8). Tay phải lặp lại động tác vừa rồi của tay trái, tức là cẳng tay duỗi chếch sang bên phải, bàn tay úp xuống, bàn tay có độ cao ngang đầu; tay trái vẫn ở chỗ trước ngực, bàn tay ngửa lên. Sau khi duỗi căng xong (như hình 1.9) toàn thân lập tức buông chùng. Thu tay về sau đó hai tay hợp thập trước ngực (như hình 1.5) Kim hầu phân thân5: Bắt đầu từ thế hợp thập. Hai tay từ vị trí trước ngực tách khỏi nhau và duỗi sang hai bên, cùng với vai tạo thành hình chữ nhất, toàn thân dần dần căng thẳng, đầu dựng lên, chân đạp xuống, hai tay dùng lực căng sang hai bên, lực kéo ra bốn phía (như hình 1.10), kéo căng khoảng 2~3 giây đồng hồ, rồi toàn thân lập tức buông chùng, hai tay trở về hợp thập trước ngực. Song long hạ hải6: Bắt đầu từ thế hợp thập, hai tay vừa tách nhau ra, vừa duỗi ra phía trước. Khi hai tay tách ra để song song và duỗi thẳng, thì tạo một góc khoảng 30 so với bắp chân (như hình 1.11). Toàn thân dần dần kéo thẳng, đầu dựng lên, chân đạp xuống, kéo căng khoảng 2~3 giây đồng hồ, sau đó toàn thân lập tức buông lỏng, thu tay trở về, và hợp thập trước ngực. 1 song thủ hợp thập: hai tay làm thế hợp thập. 2 tạo thành hình chữ nhất: hiểu là lập thành đường thẳng. 3 liên hoa chưởng: bàn tay sen, bàn tay mở tự nhiên với các ngón tay thẳng, thả lỏng và không chạm nhau, ngón giữa để thẳng và hơi nhíu vào phía trong lòng bàn tay; liên hoa chưởng là được duy trì trong suốt các bài công pháp, trừ lúc hai tay chạm nhau như kết ấn hoặc hợp thập (theo chú thích của bản dịch tiếng Anh). 4 chưởng chỉ càn khôn: bàn tay chỉ càn khôn, tay chỉ trời tay chỉ đất (diễn nghĩa bề mặt chữ). 5 Kim hầu phân thân: khỉ vàng phân [tách] thân [thể]. 6 song long hạ hải: hai rồng xuống biển. I. Phật Triển Thiên Thủ pháp 39

44 Hình 1.7, 1.8, 1.9 và Chương IV Các bài công pháp Pháp Luân Công

45 Hình 1.11, 1.12, 1.13, 1.14, 1.15 và 1.16 Bồ Tát phù liên1: Bắt đầu từ thế hợp thập. Hai tay vừa tách nhau ra, vừa duỗi chếch sang hai bên thân. Khi tay tới tư thế chếch chếch, thì hai tay duỗi thẳng, lập thành góc khoảng 30 so với bắp chân (như hình 1.12). Bấy giờ, toàn thân dần dần căng thẳng, các ngón tay dùng lực kéo xuống, sau đó, toàn thân lập tức buông lỏng, hai tay trở về hợp thập trước ngực. La Hán bối sơn2: Bắt đầu từ thế hợp thập. Hai tay vừa tách nhau ra, vừa duỗi về phía sau thân, đồng thời hai lòng bàn tay hướng về phía sau. Khi hai tay tới chỗ hai bên 1 Bồ Tát phù liên: Bồ Tát vịn hoa sen. 2 La Hán bối sơn: La Hán vác núi. I. Phật Triển Thiên Thủ pháp 41

46 thân, thì dần dần cong hai cổ tay lên; khi tay tới tư thế, thì cổ tay làm thành [so với thân] một góc 45 (như hình 1.13). Toàn thân dần dần duỗi thẳng, khi tay tới vị trí, thì đầu dựng lên, chân dẫm xuống, thân thể thẳng lên, trong khoảng 2~3 giây đồng hồ, rồi toàn thân lập tức buông chùng. Hai tay thu trở về, khôi phục thế hợp thập trước ngực. Kim Cương bài sơn1: Bắt đầu từ thế hợp thập. Hai tay vừa tách nhau ra, vừa đẩy bàn tay dựng lên ra phía trước, ngón chỉ lên trên, cánh tay cao ngang bằng vai. Khi tay duỗi thẳng, thì dùng lực căng ra, đầu dựng lên, chân dẫm xuống, thân thể căng thẳng (như hình 1.14). Khoảng chừng 2~3 giây đồng hồ, toàn thân lập tức buông chùng, hai tay trở về hợp thập trước ngực. Điệp khấu tiểu phúc2: Bắt đầu từ thế hợp thập. Hai tay chầm chậm đưa xuống, lòng bàn tay hướng vào chỗ bụng dưới, khi bàn tay tới chỗ bụng dưới thì hai tay xếp chồng, nam tay trái ở trong, nữ tay phải ở trong, tâm của lòng bàn tay thẳng với nhau. Giữa các bàn tay và giữa bàn tay và bụng dưới có một khoảng cách khoảng 3cm, thời gian điệp khấu xếp chồng này thông thường cỡ 40~100 giây đồng hồ (như hình 1.15). Thu thế: Hai tay kết ấn (như hình 1.16). II. Pháp Luân Trang pháp Công lý: Bài công pháp này là bài công pháp thứ hai của Pháp Luân Công, thuộc về bài đứng tĩnh. Do bốn động tác bão luân ôm bánh xe cấu thành, động tác khá đơn điệu, nhưng mỗi động tác yêu cầu luyện với thời gian rất lâu. Người mới học trạm trang, lúc mới bắt đầu luyện công thì hai tay sẽ rất nặng, rất nhức mỏi, nhưng luyện xong sẽ lập tức cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, không có cảm giác mệt mỏi như sau khi làm việc. Thuận theo việc gia tăng thời gian, gia tăng số lần luyện công, nơi hai tay sẽ xuất hiện Pháp Luân xoay chuyển. Thường luyện bài Pháp Luân Trang pháp sẽ khiến toàn thân toàn bộ quán thông, tăng gia công lực. Pháp Luân Trang pháp là thuộc về công pháp tu đủ cả tăng huệ, đề cao tầng thứ, và gia trì thần thông; công tuy đơn giản nhưng những thứ được luyện xuất ra là rất nhiều và rất toàn diện. Bài công pháp này động tác cần tự nhiên, chính tự mình biết rằng đang luyện công, không được lắc động, [tuy nhiên] có lay động một chút thì cũng là bình thường. Bài công pháp này cũng giống như các bài công pháp khác của Pháp Luân Công, khi luyện xong không hề thu công, là vì Pháp Luân là thường chuyển và không thể thu dừng, luyện công thì yêu cầu về thời gian mỗi động tác là tuỳ theo từng người, càng lâu càng tốt. Quyết: Shēng huì zēng lì, róng xīn qīng tǐ, Shì miào shì wù, Fǎlún chū qǐ. Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, hai chân giang rộng bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai chân hơi cong một chút, đầu gối và háng trạng thái lỏng tự nhiên; cằm dưới hơi thu, lưỡi đặt hàm trên, hàm răng cách nhau một tí, môi miệng khép lại, hai mắt hơi nhắm, nét mặt mang ý an hoà. Hai tay kết ấn (như hình 2.1) Đầu tiền bão luân3: Bắt đầu từ thế kết ấn. Hai tay từ chỗ trước bụng dưới chầm chậm đưa lên, rồi tháo kết ấn. Khi hai bàn tay tới phía trước mặt, thì lòng bàn tay hướng vào trước mặt, ngang độ cao với lông mày, mười ngón tay chỉ vào nhau, khoảng cách khoảng 15cm, cánh tay ôm tròn, toàn thân buông lỏng (như hình 2.2). 1 Kim Cương bài sơn: Kim Cương đẩy núi. 2 Điệp khấu tiểu phúc: [hai tay] xếp trùng điệp ở chỗ bụng dưới. 3 Đầu tiền bão luân: ôm (bão) bánh xe (luân) trước đầu, trước mặt (đầu tiền). 42 Chương IV Các bài công pháp Pháp Luân Công

47 Hình 2.1, 2.2, 2.3, 2.4, 2.5 và 2.6 Phúc tiền bão luân1: Hai tay từ trạng thái đầu tiền bão luân từ tốn hạ xuống, [khi] giữ nguyên thế tay, [mà] hạ một mạch xuống chỗ bụng dưới, tay cách bụng dưới khoảng 10cm, cùi trỏ chếch lên, mở khoảng không ở chỗ nách, lòng bàn tay hướng lên trên, mười 1 Phúc tiền bão luân: ôm bánh xe trước bụng. II. Pháp Luân Trang pháp 43

48 ngón chỉ vào nhau, khoảng cách giữa các ngón khoảng 10cm, cánh tay ôm tròn (như hình 2.3). Đầu đỉnh bão luân1: Bắt đầu từ thế phúc tiền bão luân, giữ nguyên thế tay, hai tay từ tốn đưa lên đỉnh đầu, ôm bánh xe trên đỉnh đầu. Hai tay có mười ngón chỉ vào nhau, bàn tay úp xuống, cách nhau khoảng 20~30cm, hai tay ôm thành hình tròn, hai vai, cánh tay, khuỷu tay, cổ tay toàn bộ thả lỏng (như hình 2.4). Lưỡng trắc bão luân2: Hai tay hạ xuống từ đầu đỉnh bão luân, một mạch cho tới hai bên đầu, lòng bàn tay hướng vào hai tai, hai vai buông lỏng, cẳng tay dựng thẳng, không để tay quá gần tai (như hình 2.5). Điệp khấu tiểu phúc: Hai tay hạ xuống từ thế lưỡng trắc bão luân, cho đến chỗ bụng dưới và thành trạng thái điệp khấu tiểu phúc (như hình 2.6). [Sau một lúc] hai tay thu thế về kết ấn. III. Quán Thông Lưỡng Cực pháp Công lý: Bài công pháp này là [công] pháp lấy khí vũ trụ và khí trong [thân] thể hỗn hợp quán thông [với nhau], đưa ra nạp vào những lượng lớn, khiến người luyện công trong một thời gian cực ngắn, đưa khí bệnh khí đen trong thân thể bài xuất ra ngoài [thân] thể, rồi nhập lượng lớn khí vũ trụ, tịnh hoá thân thể, sớm tiến nhập vào trạng thái tịnh bạch thể. Đồng thời, công này còn có thể khai đỉnh trong khi xung quán, cũng có thể đánh khai ra đường thông ở dưới chân trong khi xung quán. Trước lúc luyện công ý tưởng một chút rằng tự mình [như] là hai thùng rỗng rất cao lớn, sừng sững giữa trời đất, cao lớn không gì sánh được 3. Khí bên trong [thân] thể thuận theo tay mà [chuyển] động lên xuống, xung lên khỏi đỉnh đầu, trực tiếp tới cực nơi cao nhất của vũ trụ; khí xung xuống sẽ qua từng chân mà xung ra, xung tới cực nơi thấp nhất của vũ trụ. Sau đó khí theo tay mà [chuyển] động, từ hai cực mà quay về trong [thân] thể, rồi lại xuất ra theo hướng ngược lại, lặp lại như thế chín lần. Khi xung quán tới lần thứ chín, thì tay trái (nữ tay phải) ở cực trên mà đợi tay phải (nữ tay trái) đưa lên. Sau đó [hai tay] đồng thời quay về hạ xuống quán nhập vào chỗ cực nơi thấp, [rồi lại] qua thân thể mà xung quán lên, sau khi lặp lại chín lần thì thu khí trở về. Sau khi thu trở lại, thì ở chỗ bụng dưới mà xoay chuyển Pháp Luân theo chiều kim đồng hồ, làm cho khí bên ngoài [thân] thể xoay trở về bên trong [thân] thể, sau đó kết định ấn 4, luyện công xong thì thu thế chứ không thu công. Quyết: Jìnghuà běntǐ, Fǎ kāi dǐng dǐ; Xīn cí yì měng, tōngtiān chè dì. Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, hai chân giang rộng bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai chân hơi cong chùng một chút, đầu gối và háng trạng thái buông lỏng tự nhiên; cằm dưới hơi thu, lưỡi đặt hàm trên, răng hơi mở một chút, môi miệng khép lại, hai mắt hơi nhắm, nét mặt mang ý an hoà. Hai tay kết ấn, [sau đó] hợp thập. Đơn thủ xung quán5: Bắt đầu từ thế hợp thập. Làm động tác từng tay xung lên quán xuống, tay [di] động theo khí cơ bên ngoài [thân] thể, khí ở trong [thân] thể là động theo tay lên xuống. Nam đưa tay trái lên trước, (như hình 3.1), nữ đưa tay phải lên trước. Tay từ chỗ bên cạnh phía trước mặt mà từ từ xung lên, xung lên khỏi đỉnh đầu; đồng thời Đầu đỉnh bão luân: ôm bánh xe trên đỉnh đầu. Lưỡng trắc bão luân: ôm bánh xe hai bên. đỉnh thiên lập địa, cao đại vô tỷ: tạm dịch là sừng sững giữa trời đất, cao lớn không gì sánh được. kết định ấn cũng gọi là kết ấn, như hình 3.8. Đơn thủ xung quán: xung (lên) quán (xuống) từng tay. Chương IV Các bài công pháp Pháp Luân Công

49 thì tay phải (nữ tay trái) từ từ quán xuống, sau đó, hai tay đổi chỗ cho nhau mà xung quán (như hình 3.2). Lòng bàn tay hướng vào thân thể, duy trì khoảng cách tới thân thể khoảng 10cm. Khi làm [động tác] cần thả lỏng toàn thân, tay đưa lên một lần rồi đưa xuống một lần thì tính là một lần [xung quán], xung quán tổng cộng chín lần. Hình 3.1, 3.2, 3.3, 3.4, 3.5, 3.6, 3.7 và 3.8 Song thủ xung quán1: Khi đơn thủ xung quán tới lần thứ chín tức là tay trái (nữ tay phải) đang ở trên, thì đưa tay kia lên theo, nghĩa là, hai tay đều ở vị trí xung lên (như hình 3.3), sau đó hai tay đồng thời xung quán xuống (như hình 3.4). Khi hai tay xung quán, 1 song thủ xung quán hoặc đồng thời xung quán: hai tay đồng thời xung lên hoặc quán xuống. III. Quán Thông Lưỡng Cực pháp 45

50 lòng bàn tay hướng vào thân thể, cách thân thể 10cm, mỗi lần lên và xuống thì tính là một lần [xung quán], tổng cộng xung quán chín lần. Song thủ suy động Pháp Luân1: Khi hoàn thành lần thứ chín, hai tay từ trên đỉnh đầu đi [xuống] qua mặt và ngực hướng tới chỗ bụng dưới, khi tới chỗ bụng dưới, thì ở chỗ bụng dưới mà đẩy động Pháp Luân (như hình 3.5, 3.6, và 3.7). Nam tay trái ở bên trong, nữ tay phải ở bên trong, giữa tay với nhau và giữa tay với bụng dưới là cách nhau khoảng 4cm, thuận theo chiều kim đồng hồ mà xoay chuyển Pháp Luân bốn vòng, đem năng lượng ngoài [thân] thể toàn bộ xoay trở về trong [thân] thể. Khi xoay chuyển Pháp Luân thì hai tay không được ra khỏi phạm vi bụng dưới. Hai tay kết ấn (như hình 3.8). IV. Pháp Luân Chu Thiên pháp Công lý: Bài [công] pháp này là khiến năng lượng [thân] thể người ta lưu động ở diện rộng, không phải một đường mạch hoặc vài đường mạch đang chạy, mà là từ mặt âm của [thân] thể toàn diện tuần hoàn sang mặt dương, rồi quay lại lặp lại không ngừng, vượt rất rất xa khỏi cách thông mạch thông thường, hoặc đại chu thiên hay tiểu chu thiên. Bài công pháp này thuộc về bài công pháp tầng trung trong Pháp Luân Công. Trên cơ sở ba bài công pháp trước, thông qua luyện bài công pháp này có thể nhanh chóng đả khai các khí mạch toàn thân (trong đó gồm cả đại chu thiên), từ trên xuống dưới dần dần thông khắp toàn thân. Đặc điểm lớn nhất của bài công pháp này là dùng sự xoay chuyển của Pháp Luân để chỉnh lại trạng thái không đúng đắn của [thân] thể người, khiến tiểu vũ trụ của nhân thể được quy về trạng thái nguyên sơ, đạt được khí mạch toàn thân thông suốt không trở ngại. Khi luyện tới trạng thái đó, là đã đạt tới tầng thứ rất cao trong tu luyện thế gian pháp, người đại căn khí có thể tiến nhập vào tu luyện Đại Pháp. Bấy giờ, công lực và thần thông sẽ tăng mạnh. Khi luyện, tay [di] động theo khí cơ, động tác cần hoãn mạn viên. Quyết: Xuánfǎ zhì xū, xīn qīng sì yù; Fǎnběn guīzhēn, yōuyōu shì qǐ. Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, hai chân giang rộng bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai chân hơi chùng một chút, đầu gối và háng trạng thái lỏng tự nhiên; hàm dưới hơi thu, lưỡi đặt hàm trên, hàm răng hơi hở một tí, môi miệng ngậm lại, hai mắt hơi nhắm, nét mặt mang ý an hoà. Hai tay kết ấn, [sau đó] hợp thập. Hai tay vừa tháo khỏi trạng thái hợp thập, vừa hạ xuống phía chỗ bụng dưới, đồng thời xoay lòng bàn tay hướng vào thân thể. Bàn tay cách thân thể khoảng 10cm, vượt qua chỗ bụng dưới và duỗi xuống chỗ giữa hai chân, xuống theo mé trong hai chân, đồng thời khom lưng ngồi xuống, (như hình 4.1). Khi hai đầu các ngón tay gần chạm mặt đất, bàn tay từ chỗ đầu ngón chân, qua bên ngoài chân mà vạch một [vòng cung] bên ngoài ra phía sau chân (như hình 4.2). 1 song thủ suy động Pháp Luân: hai tay đẩy động Pháp Luân (diễn nghĩa bề mặt). 46 Chương IV Các bài công pháp Pháp Luân Công

51 Hình 4.1, 4.2, 4.3, 4.4, 4.5, 4.6, 4.7 và 4.8 IV. Pháp Luân Chu Thiên pháp 47

52 Hình 4.9 và 4.10 Sau đó, hai cổ tay hơi cong lên, từ phía sau chân từ từ đi lên dọc theo phía sau chân (như hình 4.3), vừa đưa hai tay lên sau lưng vừa thẳng eo lên, (như hình 4.4). Trong toàn bộ bài Pháp Luân Chu Thiên pháp, hai bàn tay không được chạm vào bất kể chỗ nào trên thân thể, nếu không, năng lượng trên tay sẽ thu vào trong [thân] thể. Khi hai tay tới chỗ mà không thể đưa lên hơn nữa, thì tay nắm không (như hình 4.5) 1, rồi rút tay qua chỗ nách, hay tay giao nhau trước ngực (không có yêu cầu đặc biệt tay nào ở trên tay nào ở dưới, tuỳ thói quen cá nhân mà quyết định, không phân biệt nam nữ) (như hình 4.6), buông nắm tay ra, hai bàn tay ở trên vai (có khoảng cách). [Đưa bàn tay] theo sát mặt dương của cánh tay2 và tới chỗ cổ tay, [sau đó] hai tâm lòng bàn tay đối nhau, bàn tay ngoài có ngón cái hướng lên, bàn tay trong có ngón cái hướng xuống, hai bàn tay cách nhau khoảng 3~4cm, lúc đó bàn tay và cẳng tay làm thành hình chữ nhất, (như hình 4.7). Tiếp theo là tay xoay quả cầu 3, khiến bàn tay ngoài trở thành bàn tay trong, tay trong thành tay ngoài. Sau đó hai bàn tay vừa dẫn theo mặt âm của cẳng tay và bắp tay, vừa đưa [tay] lên vòng qua đầu, (như hình 4.8). Sau khi qua đầu thì hai tay ở trạng thái giao nhau, vẫn tiếp tục di động hướng tới phía sống lưng (như hình 4.9). Hai bàn tay tách khỏi thế giao nhau, ngón tay hướng xuống, tiếp [nối] với năng lượng ở bộ phận lưng, tiếp tục với hai tay song song di chuyển qua đỉnh đầu và tới trước ngực, (như hình 4.10). Như thế là một lần tuần hoàn chu thiên, [làm] tổng cộng chín lần. Sau khi hoàn thành lần thứ chín, hai bàn tay đi qua chỗ trước ngực mà xuống tới chỗ bụng dưới. Điệp khấu tiểu phúc, [sau đó] hai tay kết ấn. V. Thần Thông Gia Trì pháp Công lý: Thần Thông Gia Trì pháp là thuộc về pháp tu luyện tĩnh công của Pháp Luân Công, là công pháp mà dùng thủ ấn của Phật xoay chuyển Pháp Luân gia trì thần thông (gồm cả công năng) và đồng [thời] tu luyện nhiều hạng công lực. Bài pháp này 1 tay nắm không hiểu là tay nắm thành hình nắm đấm, nhưng không chặt, bên trong có khoảng không. 2 Bản tiếng Anh diễn giải mặt dương của cánh tay là mặt ngoài (outer side), còn mặt âm là mặt phía trong (inner side) của cánh tay. 3 tay xoay quả cầu: xoay xoay hai bàn tay đối diện nhau tựa như đang xoay một quả bóng ở giữa. 48 Chương IV Các bài công pháp Pháp Luân Công

53 thuộc về công pháp trung tầng trở lên, nguyên là thuộc về pháp bí luyện 1. Vì để thoả mãn yêu cầu của những người đã có cơ sở nhất định, [tôi] đặc biệt truyền xuất bài công pháp này ra, truyền ra độ những người có duyên. Bài công pháp này yêu cầu luyện trong khi ngồi xếp bằng, tốt nhất là ngồi song bàn, dùng đơn bàn cũng khả dĩ 2. Khi tu luyện thì dòng khí khá mạnh mẽ, trường năng lượng ngoài [thân] thể khá to lớn. Động tác được làm thuận theo khí cơ mà Sư phụ đã cài, khi di động tay thì tâm động theo ý 3. Khi gia trì thần thông, thì ý không, tiềm ý thức hơi hơi ở tại hai bàn tay. Lòng bàn tay sẽ có cảm giác nhiệt, nặng, điện tê, tựa như có vật, v.v. Nhưng không được dùng ý truy cầu, hãy tuỳ kỳ tự nhiên. Thời gian ngồi xếp bằng yêu cầu càng lâu càng tốt, mà căn cứ theo công mà định4, thời gian càng lâu, cường độ càng lớn, xuất công càng nhanh. Khi luyện công, (không suy nghĩ gì hết, không có bất kể ý niệm gì) thì dần dần nhập tĩnh, từ trạng thái của động công là tự tĩnh phi định 5 mà dần dần nhập định. Nhưng chủ ý thức biết rằng mình đang luyện công. Hình 5.1 và 5.2 Quyết: Yǒuyì wúyì, yìn suíjī qǐ; Shì kōng fēi kōng, dòngjìng rúyì Hai tay kết ấn: Xếp bằng đả toạ, toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, lưng ngay cổ thẳng, hàm dưới hơi thu, lưỡi đặt hàm trên, hàm răng hơi hở một tí, môi miệng ngậm lại, hai mắt hơi nhắm, tâm sinh từ bi, nét mặt mang ý an hoà. Hai tay kết ấn ở chỗ bụng dưới, dần dần nhập tĩnh (như hình 5.1). 1 bí luyện chi pháp: hiểu là công pháp nguyên dùng trong tu luyện bí mật, không phổ cập. 2 bàn toạ: ngồi xếp bằng; đơn bàn: ngồi xếp đơn với một chân ở trên chân kia; song bàn: ngồi xếp đôi với hai chân chéo lên nhau (đây là diễn nghĩa bề mặt chữ, bàn cái bàn, cái khay). 3 tâm tuỳ ý động: tạm dịch là tâm động theo ý. 4 căn cứ công đê nhi định: tuỳ theo công phu, sự thuần thục, sức bỏ ra, sức chịu đựng mà định, tạm dịch là căn cứ theo công mà định (diễn giải theo bản tiếng Anh). 5 tự tĩnh phi định: tựa như tĩnh, không phải định. V. Thần Thông Gia Trì pháp 49

54 Hình 5.3, 5.4 và Chương IV Các bài công pháp Pháp Luân Công

55 Hình 5.6, 5.7, 5.8 và 5.9 V. Thần Thông Gia Trì pháp 51

56 Hình 5.10, 5.11 và 5.12 Thủ ấn thứ nhất: (Khi di chuyển tay, tâm động theo ý, thuận theo khí cơ mà Sư phụ đã cài cho mà làm, cần hoãn mạn viên ) Hai tay từ trạng thái kết ấn đưa lên một cách từ tốn, khi tới chỗ trước mặt thì từ từ xoay bàn tay lên, cùng lúc khi tâm lòng bàn tay hướng lên, thì tay cũng tới chỗ cao nhất (như hình 5.2), tiếp đó hai tay tách ra, ở đỉnh đầu vẽ một đường cong, chuyển động sang hai bên, một mạch chuyển tới chỗ trước mặt, (như hình 5.3). Ngay tiếp đó, hai tay từ từ hạ xuống, cùi chỏ hướng hết mức vào trong, hai lòng bàn tay hướng lên, ngón tay chỉ ra phía trước, (như hình 5.4). Sau đó, vừa duỗi hai cổ tay ra, vừa giao nhau ở chỗ trước ngực. Nam tay trái vận hành bên ngoài, nữ tay phải ở bên ngoài (như hình 5.5), khi hai tay giao nhau tạo thành hình chữ nhất, thì tay ở phía ngoài, cổ tay xoay hướng phía ngoài, vừa xoay cho lòng bàn tay hướng lên, vừa vạch một nửa hình tròn, và trở thành lòng bàn tay hướng lên, ngón tay chỉ ra phía sau, tay là có lực độ nhất định; [còn] tay phía trong thì sau khi giao nhau, lòng bàn tay từ từ chuyển hướng phía dưới, duỗi [tay] thẳng hết ra, bàn tay và cánh tay chuyển động sao cho lòng bàn tay hướng ra ngoài, bàn tay và cánh tay nghiêng xuống dưới thành một góc khoảng 30 so với thân thể, (như hình 5.6). 52 Chương IV Các bài công pháp Pháp Luân Công

Mục lục 1.Chú ý an toàn 2.Danh sách các bộ phận 4~5 6 3.Chú ý trong thi công 7 4.Các bước thi công chính Chuẩn bị lắp đặt bồn tắm~lắp đặt bồn tắm (1)C

Mục lục 1.Chú ý an toàn 2.Danh sách các bộ phận 4~5 6 3.Chú ý trong thi công 7 4.Các bước thi công chính Chuẩn bị lắp đặt bồn tắm~lắp đặt bồn tắm (1)C NTE150 2013.10 HƯỚNG DẪN LẮP ĐẶT BỒN TẮM GANG TRÁNG MEN ĐẶT SÀN CÓ CHÂN FBY1756PWGE, FBY1756PWNE Để phát huy hết tính năng của sản phẩm, vui lòng lắp đặt đúng như bản hướng dẫn này. Sau khi lắp đặt, hãy

More information

SBD HO TEN Ngày Sinh Sửa đổi DOAN THI AI DAO THI AN DO VAN AN DO XUAN AN LE

SBD HO TEN Ngày Sinh Sửa đổi DOAN THI AI DAO THI AN DO VAN AN DO XUAN AN LE 30001 DOAN THI AI 05.01.1993 30002 DAO THI AN 17.05.1995 30003 DO VAN AN 09.08.1995 30004 DO XUAN AN 20.09.1993 30005 LE HONG AN 29.07.1992 30006 LE XUAN AN 19.02.1994 30007 MA MY AN 25.08.2005 30008 MAC

More information

YLE Starters PM.xls

YLE Starters PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 08/12/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Starters 1 WANG NAN SIANG 28/02/2010 3 5 5 13 2 CHEN HSUAN BANG 08/04/2012 5 5 5 15 3 HUANG

More information

YLE Movers PM.xls

YLE Movers PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 18/11/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 BUI PHAM DANG NAM 11/06/2010 3 2 3 8 2 LE PHUC ANH 07/07/2009 2 4 2 8 3 VO GIA

More information

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx277 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx111 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 3 DO DINH DAO 0943xxx000 03. TITANIUM STEPUP CREDIT

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NG

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NG DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NGUYEN THI NGOC HUYEN NGUYEN VAN DAN NGUYEN QUANGMINH

More information

SBD HỌ TEN Ngày Sinh Sửa đổi NGUYEN VINH AI DO XUAN AN HOANG VAN AN LUU LE HONG AN

SBD HỌ TEN Ngày Sinh Sửa đổi NGUYEN VINH AI DO XUAN AN HOANG VAN AN LUU LE HONG AN 40001 NGUYEN VINH AI 26.10.1995 40002 DO XUAN AN 03.05.1998 40003 HOANG VAN AN 25.09.1994 40004 LUU LE HONG AN 19.03.2003 40005 NGO THI THUY AN 17.11.2000 40006 NGUYEN CONG AN 07.07.1997 40007 NGUYEN HUU

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR Class: Pre- Intermediate 1 1 Tran Duc Anh 6.5 5.7 4.3 4.9 4.0 4.0 5.9 6.7 5.3 D 2 Tran Ngoc Van Anh 7.6 8.2 6.9 8.2 7.3 7.3 8.9 9.4 8.0 B 3 Pham Dai Duong 7.4 8.2 7.6 7.4 6.6 7.1 8.5 9.2 7.8 C 4 Le Xuan

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx277 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx111 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 3 DO DINH DAO 0943xxx000 03. TITANIUM STEPUP CREDIT

More information

Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/ /12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG G

Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/ /12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG G Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/2018-31/12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN 422076XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG GIANG 457353XXXXXX8460 1,000,000 3 NGO VAN PHUC 422076XXXXXX7476

More information

DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM "SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN" DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY ,403 2 NGUYEN THI

DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY ,403 2 NGUYEN THI DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM "SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN" DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY 025355865 152,403 2 NGUYEN THI HUONG HUYEN 320635110 1,500,000 3 HA DUY THANH 023146891

More information

NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do

NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do - Hanh phuc Dia< M3D1 16/12/201 ~.98 T*. Khai,HaN6i

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER 1 SCHOOL YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER 1 SCHOOL YEAR Class: Pre- Intermediate 1 1 Tran Phuc An 8.6 6.7 6.8 6.5 6.9 7.4 8.7 8.4 7.5 C 2 Nguyen Manh Dan 9.1 8.4 7.9 6.9 5.2 6.7 9.5 6.7 7.6 C 3 Huynh Tuan Dat 8.7 7.4 6.8 6.3 4.1 7.7 9.7 7.6 7.3 C 4 Lam The

More information

N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN LUU LE HONG AN NGUYEN CONG AN NGUYEN DINH NGAN AN

N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN LUU LE HONG AN NGUYEN CONG AN NGUYEN DINH NGAN AN N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN 23.10.1996 0002 LUU LE HONG AN 19.03.2003 0003 NGUYEN CONG AN 07.07.1997 0004 NGUYEN DINH NGAN AN 13.01.2000 0005 NGUYEN HAI AN 05.12.1995 0006 NGUYEN QUOC AN

More information

YLE Movers PM.xls

YLE Movers PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 16/12/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 NGUYEN HUU XUAN KHANG 10/04/2009 4 4 5 13 2 TRAN LONG MINH DUY 01/10/2008 2 2

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Intermediate 1   RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PR Class: Intermediate 1 1 Dang Quang Anh 8.0 6.0 6.1 7.9 6.8 7.3 7.3 7.7 7.1 C 2 Nguyen Thuy Quynh Anh 8.3 6.4 6.0 7.5 6.6 7.3 5.4 9.1 7.1 C 3 Nguyen Tran Ha Anh 8.8 6.4 8.5 8.7 9.0 7.1 9.9 8.5 8.4 B 4 Chang

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Elementary 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROG

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Elementary 1   RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROG Class: Elementary 1 1 Tran Nguyen Binh An 7.6 6.0 6.1 6.9 6.8 5.9 7.1 6.6 C 2 Phung Lam Ngoc An 8.2 6.8 8.1 7.9 8.2 6.4 8.7 7.8 C 3 Tu Pham Tieu Bang 7.4 8.1 8.4 8.4 8.6 8.3 9.3 8.4 B 4 Nguyen Thi Truong

More information

Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20, xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20, xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000

Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20, xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20, xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000 Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20,000 090xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20,000 093xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000 098xxxx068 3/3/2017 9:00 DO TUAN ANH 20,000 012xxxx122

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM No. Class: Starter 1 Name RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM No. Class: Starter 1 Name RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR Class: Starter 1 1 Tran Nguyen Binh An 7.2 5.6 7.1 5.3 3.8 5.3 8.6 6.1 D 2 Phung Lam Ngoc An 7.8 8.2 8.6 7.6 4.3 7.1 9.3 7.6 C 3 Tu Pham Tieu Bang 7.5 8.3 9.2 7.4 4.4 7.9 9.6 7.8 C 4 Nguyen Thi Truong

More information

SBD HO N5 TEN NGAY SINH BUI NGOC AN HOANG THI NHI AN HOANG THI UT AN NGUYEN BINH AN

SBD HO N5 TEN NGAY SINH BUI NGOC AN HOANG THI NHI AN HOANG THI UT AN NGUYEN BINH AN SBD HO TEN NGAY SINH 50001 BUI NGOC AN 16.08.1989 50002 HOANG THI NHI AN 19.08.1993 50003 HOANG THI UT AN 19.08.1993 50004 NGUYEN BINH AN 15.12.1995 50005 NGUYEN HUU AN 06.10.1993 50006 PHAM THI AN 05.04.1984

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Upper-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YE

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Upper-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YE Class: Upper-Intermediate 1 History Economics Math Biology Physics Chemistry 1 Le Hai An 8.3 8.7 8.8 9.0 9.4 9.6 7.4 9.1 8.8 B 2 Hoang Truc Anh 7.1 5.5 7.2 7.4 8.0 7.7 6.0 6.9 7.0 C 3 Nguyen Phu Cuong

More information

N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH DUONG QUOC AI CHU MINH AN NINH VAN AN PHAM THI THUY AN

N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH DUONG QUOC AI CHU MINH AN NINH VAN AN PHAM THI THUY AN N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH 50001 DUONG QUOC AI 16.09.1993 50002 CHU MINH AN 14.08.1990 50003 NINH VAN AN 22.06.1994 50004 PHAM THI THUY AN 17.05.2000 50005 VUONG THI AN 03.09.1992 50006 BUI THI ANH 08.08.1997

More information

Movers PM.xlsx

Movers PM.xlsx BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 24/03/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 NGUYEN LINH CHI 31/12/2009 5 5 5 15 2 BUI HOANG QUAN 19/06/2008 5 4 5 14 3 BLINO

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Date of issue: Ja

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Date of issue: Ja Class: Intermediate 1 Geograph Histor Econom ic Math Phsics Chenistr GPA 1 Vu Nhat Chuong 8.9 9.0 6.4 8.6 7.6 6.5 7.5 7.0 7.7 C 2 Nguen Tran Anh Du 9.0 8.9 6.7 8.3 8.7 8.4 7.6 8.2 8.2 B 3 Do Le Y Duen

More information

Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải

Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải 法輪大法義解 Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải 李洪志 Lý Hồng Chí Lời nói đầu Để làm tốt hơn nữa công tác phụ đạo Pháp Luân Đại Pháp, và theo yêu cầu của Hội Nghiên cứu và các trạm phụ đạo các nơi, [một số] giảng Pháp

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1   RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Chemistry Mathematics 1 Dang Quang Anh 7.8 7.6 6.8 7.9 7.0 6.2 8.7 8.4 7.6 C 2 Nguyen Thuy Quynh Anh 7.6 8.7 6.7 7.3 6.5 6.1 6.8 7.3

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Flyers 1 RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR 2015

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Flyers 1 RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR 2015 Class: Flyers 1 No. Name Speaking Listening Grammar 1 PHAN DIEN KY BOI 8.3 9.1 8.8 8.9 7.6 7.8 8.6 7 8.3 Distinction 2 LUC PHU HUNG 8.5 9 7.9 8 7.3 6.8 9.1 7 8 Distinction 3 LUU DUONG BAO KHANH 7.5 9.6

More information

KET for Schools_ August xls

KET for Schools_ August xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE Kỳ thi ngày: 11/08/2018 Cấp độ: KET 0001 CONG CHIEN NGUYEN Pass 128 0002 BA RIN PHAM Z 0003 THI MAI ANH DO Council of Europe Level A1 112 0004 KHOI

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLISH

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLISH Class: Movers 1.1 No. Name Speaking Listening Grammar Social Studies 1 NGUYEN CAO THIEN AN 7.7 9.3 9.8 8.8 9.7 8.9 8.9 9.6 9.1 High Distinction 2 LE PHUONG ANH 7.7 8.7 9.0 7.8 9.1 6.5 7.8 8.6 8.2 Distinction

More information

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name   Speaking Listening Grammar RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Chemistry Mathemati 1 Le Hai An 8.9 9.0 7.6 7.7 9.9 7.4 7.3 9.0 8.4 B 2 Le Minh Anh 7.1 5.6 6.6 5.4 7.3 7.7 7.7 5.3 6.6 C 3 Hoang Truc

More information

Tinh Tan Yeu Chi 3

Tinh Tan Yeu Chi 3 法輪大法 Pháp Luân Đại Pháp 精進要旨三 Tinh Tấn Yếu Chỉ 3 李洪志 Bản dịch tiếng Việt trên Internet http://phapluan.org http://vi.falundafa.org MỤC LỤC Lời chúc đến Pháp hội tại New York...1 Sư phụ chúc mừng năm mới...1

More information

THÔNG CÁO BÁO CHÍ

THÔNG CÁO BÁO CHÍ HỘI SỰ NGHIỆP TỪ THIỆN MINH ĐỨC Minh Duc Charitable Foundation (MDCF) 明德慈善事業基金會 Website: http://www.tuthienminhduc.com Địa chỉ: Chùa Trung Lâm, xã Tân Xã, Thạch Thất, Hà Nội Số 242A Minh Khai, Quận Hai

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: TOEFL Beginner 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR 2

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: TOEFL Beginner 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR 2 Class: TOEFL Beginner 1 Speaking Listening Grammar Reading & Literature Geography History Economics Math Biology Physics Chemistry 1 Le Hai An 8.9 9.2 8.3 9.2 8.7 9.6 8.2 8.9 8.9 B 2 Hoang Truc Anh 8.7

More information

Giáo trình tư duy thơ hiện đại Việt Nam

Giáo trình tư duy thơ hiện đại Việt Nam G'.0000016852 A I H O C Q U O C G I A H A NGUYEN BA THANH g i A o t r i n h i n DUY TH0 HIEN DAI VIET NAM O K ] O D G Ha NQI NHA XUAT BAN DAI HOC QUOC GIA HA NO' GIAOTRiNH TITDUY THAT HIEN DAI VIET NAM

More information

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng 5 nam 017 V/v huong din danh gia, hoan thanh h6 so BDTX nam hoc 016-017 Thuc hien KS

More information

BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0CfflNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, n

BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0CfflNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, n BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0ClNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, nang cao chat hrong, hieu qua boat dong cua Lien hiep

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Starters RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLIS

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Starters RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLIS Class: Starters 2.1 No. Name Speaking Listening Grammar Social Studies Science 1 PHAM HUYNH LOC AN 7.5 7.4 6.7 8.7 5.9 6.9 8.0 7.4 7.3 Pass with Merit 2 JI YOU BIN 7.8 10.0 10.0 9.5 9.0 7.5 9.3 9.3 9.1

More information

Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC

Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC DIEM 093xxxxx779 1,000,000 3 NGUYEN TIEN DUNG 090xxxxx796

More information

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers 2.1 Name Speaking RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR List

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers 2.1 Name   Speaking RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR List No. Class: Movers 2.1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Writing Social Studies Science Maths 1 NGUYEN HOANG ANH 8.8 9.7 8.6 9.7 9.8 9.9 9.8 9.2 9.4 High Distinction 2 DOAN NGOC TRUC GIANG 8.6 9.8

More information

TIEM LUC CAN BANG-BAOVE SINH THAI VA PHAT TRIEN NONG THON QUA XAY DUNG HE THONG CHAN NUOI GIA CAM DAC SAN TAI VIETNAM

TIEM LUC CAN BANG-BAOVE SINH THAI VA PHAT TRIEN NONG THON QUA XAY DUNG HE THONG CHAN NUOI GIA CAM DAC SAN TAI VIETNAM The role of Old Hungarian Poultry Breeds in development of poor regions with regards to agrarian environmental protection and gene conservation in Vietnam VAI TRO CAC GIONG GIA CAM CHAN THA HUNGARY TRONG

More information

Bốn bài thi của Phó đại sĩ

Bốn  bài  thi  của  Phó  đại  sĩ 1 Bốn bài thi của Phó đại sĩ Tác giả : Văn Thận Độc Dịch giả : Dương Đình Hỷ Phó đại sĩ (497-569) là một cư sĩ đời Tề, Lương người huyện Nhĩa Ô nay thuộc tỉnh Triết Giang. Năm 16 tuổi lấy Lưu thị, sanh

More information

Final Index of Viet Ad Person.xls

Final Index of Viet Ad Person.xls 11000-001 Truong Tan Sang 11000-002 Nguyen Thi Doan 12100-001 Nguyen Phu Trong 12220-001 Nguyen Phu Trong 12220-002 Truong Tan Sang 12220-003 Nguyen Tan Dung 12220-004 Nguyen Sinh Hung 12220-005 Phung

More information

So tay di cu an toan.indd

So tay di cu an toan.indd Bộ ấn phẩm: Sáng kiến phòng chống mua bán người và di cư không an toàn Sổ tay di cư an toàn World Vision International 2014 ISBN 978-0-918261-41-0 Tầm nhìn Thế giới (TNTG) là tổ chức nhân đạo Cơ đốc, thực

More information

GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM NHCT SAM SON HUA THANH PHONG NHCT CA

GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM NHCT SAM SON HUA THANH PHONG NHCT CA GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN 1294090 NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM 6327127 NHCT SAM SON HUA THANH PHONG 0737415 NHCT CA MAU NGUYEN THI CAI 6532757 NHCT QUANG NINH NGUYEN

More information

Microsoft Word - VIETFAIR's EXHIBITION SCHEDULE 2018 (Vietnamese Version) - update 28.9

Microsoft Word - VIETFAIR's EXHIBITION SCHEDULE 2018 (Vietnamese Version) - update 28.9 KẾ HOẠCH HỘI CHỢ TRIỂN LÃM (CHỦ YẾU) NĂM 018 do Công ty VIETFAIR tổ chức thực hiện TẠI HÀ NỘI STT Tên Hội chợ, Triển lãm Thời gian Địa điểm tổ chức Nội dung, quy mô Đơn vị chủ trì, ủng hộ, phối hợp Ghi

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG H

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG H DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG HA 2,000,000 2 Sở giao dịch NGUYEN PHUOC MINH DUC 2,000,000

More information

MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM)

MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM) MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM) TAP DOAN HOA CHAT VIET NAM CONG TY CO PHAN BOT GIAT

More information

UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi,

UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi, UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi, kiem ta danh gia tong cac ky thi ket thuc hoc phan

More information

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG DỊCH VỤ SACOMBANK EBANKING Sacombank ebanking phiên bản Ngân hàng điện tử mới Ưu việt Thân thiện An toàn Hãy trải nghiệm các chức năng nổi trội của Sacombank - ebanking: Cá nhân hóa giao

More information

* Tiểu kết chương CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ PHẬT GIÁO THỜI MINH MẠNG ( ) Đặc điểm Phật giáo thời Minh Mạng ( ).

* Tiểu kết chương CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ PHẬT GIÁO THỜI MINH MẠNG ( ) Đặc điểm Phật giáo thời Minh Mạng ( ). MỤC LỤC MỞ ĐẦU... 1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI... 1 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU... 2 3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU... 2 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU... 3 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN... 4 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN

More information

2. Quê quán 3. Tên họ 4. Chức tước 5. Lão tử với Khổng tử có gặp nhau không? Khổng tử có hỏi Lão tử về lễ không? 6. Lão tử có phải là Lão Lai tử không

2. Quê quán 3. Tên họ 4. Chức tước 5. Lão tử với Khổng tử có gặp nhau không? Khổng tử có hỏi Lão tử về lễ không? 6. Lão tử có phải là Lão Lai tử không Nguyễn Hiến Lê Lão Tử Đạo Đức Kinh MỤC LỤC Vài lời thưa trước Phần I: ĐỜI SỐNG và TÁC PHẨM Chương I: Đời sống 1. Sự tích Lão tử 1 Lão Tử - Đạo Đức Kinh Nguyễn Hiến Lê www.thienquan.net 2. Quê quán 3. Tên

More information

2 汉语和越南语形容词的体 Trí thông minh về vận động (bodily/kinesthetic): Những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua cách vận động và sử

2 汉语和越南语形容词的体 Trí thông minh về vận động (bodily/kinesthetic): Những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua cách vận động và sử 1 汉语和越南语形容词的体 ỨNG DỤNG THUYẾT ĐA TRÍ TUỆ TRONG VIỆC GIẢNG DẠY TIẾNG TRUNG TẠI KHOA ĐÔNG PHƢƠNG ThS. Hoàng Thị Thu Thủy Bộ môn Trung Quốc học, khoa Đông phương học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

More information

GU285_VNM_Cover.indd

GU285_VNM_Cover.indd GU285 Hướng dẫn Sử dụng www.lgmobile.com P/N : MMBB0353931 (1.0) ELECTRONICS INC. GU285 Hướng dẫn Sử dụng TIẾNG VIỆT 简体中文 ENGLISH Bluetooth QD ID B015843 Một số nội dung trong sách hướng dẫn này có thể

More information

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG DỊCH VỤ SACOMBANK EBANKING Sacombank ebanking phiên bản Ngân hàng điện tử mới Ưu việt Thân thiện An toàn Hãy trải nghiệm các chức năng nổi trội mới của Sacombank - ebanking: Cá nhân hóa

More information

H

H H.T. THÍCH TRÍ THỦ Chủ trương LÊ MẠNH THÁT Chủ biên TỰ ĐIỂN BÁCH KHOA PHẬT GIÁO VIỆT NAM A Tập II Từ A Di Đà (Tịnh Độ Giáo) đến A Di Đà Tự Phật Lịch 2548 TL 2004 Lời Tựa Từ điển BÁCH KHOA PHẬT GIÁO VIỆT

More information

UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIE

UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIE UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Xu- do - Hanh phiic Hd Tinh, ngdy/flf

More information

Microsoft Word - Duoc Su_ready for print.doc

Microsoft Word - Duoc Su_ready for print.doc Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Thiển Thích Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Lược Giảng 1 Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch Tuyên Hóa

More information

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa 觀無量壽佛經 疏鈔演義 Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Tịnh Không Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Giảo chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang Quán Vô Lượng Thọ

More information

Viện nghiên cứu Phật học

Viện nghiên cứu Phật học Mục lục Lời nói đầu CHƯƠNG I Phần dẫn luận: Khái quát về 5 việc của Đại Thiên và phương pháp nghiên cứu CHƯƠNG II Thảo luận về những nguồn tư liệu liên quan đến Đại Thiên và 5 việc của ông 1. Vấn đề văn

More information

hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng. Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một

hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng. Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một 1 Sự hình thành và phát triển Thiền phái Trúc Lâm Thích Như Pháp Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được gắn liền với tên tuổi của Ngài, với dòng Thiền do Ngài mở lối, là một đại nhân duyên không phải tầm thường

More information

Phục hồi chức năng bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não

Phục hồi chức năng bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não Cao D ing Y te Plu'i Thp - Tlur vi?n PGS.TS. BSCC TRAN VAN CHUONG PHUC Hdl CH LfC NANG b n h n h a n l i t n u a n g u o i D O T A I B IE N M A C H M A U N A O NHA XUAT BAN Y HOC Ha Noi - 2010 PGS. TS.

More information

CONG TY CP NHI/A BINH MINH CQNG HOA XA HQI CHU NGHIA VlfT NAM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DAI HQI CO DONG

CONG TY CP NHI/A BINH MINH CQNG HOA XA HQI CHU NGHIA VlfT NAM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DAI HQI CO DONG CONG TY CP NHI/ BINH MINH CQNG HO X HQI CHU NGHI VlfT NM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DI HQI CO DONG THUONG NIEN NM 2018 - Can cu Luat Doanh nghiep so 68/2014/QH13

More information

Ngân hàng câu hỏi thi, kiểm tra môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

Ngân hàng câu hỏi thi, kiểm tra môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin TS. PHAM VAN SINH (Chu bien) NGAN HANG CAU HOI THI, KlfeM TRA MON NHUNG NGUYEN LY C(T BAN CUA CHU NGHIA MAC - LENIN (Dung lam tai lieu tham khao phuc vu thi, kiem tra cho cac trirang dai hoc, cao d^ng)

More information

2015 Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES) Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gi

2015 Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES) Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gi TÀI LIỆU DỊCH TLD-11 TẦM NHÌN VÀ HÀNH ĐỘNG THÚC ĐẨY CÙNG XÂY DỰNG VÀNH ĐAI KINH TẾ CON ĐƯỜNG TƠ LỤA VÀ CON ĐƯỜNG TƠ LỤA TRÊN BIỂN THẾ KỶ XXI Cơ quan ban hành: Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia, Bộ

More information

UBND TINH SON LA SO' GIAO DUC VA BAO TAO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ttr do - Hanh phuc S6: 1341/KH-SGDDT Son La, ngay 28 thdng 9 na

UBND TINH SON LA SO' GIAO DUC VA BAO TAO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ttr do - Hanh phuc S6: 1341/KH-SGDDT Son La, ngay 28 thdng 9 na UBND TINH SON LA SO' GIAO DUC VA BAO TAO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ttr do - Hanh phuc S6: 1341/KH-SGDDT Son La, ngay 28 thdng 9 nam 2018 KE HOACH Boi duong thuong xuyen can bo quan

More information

KINH VÀO HỌC

KINH VÀO HỌC KINH VÀO HỌC (Giọng nam xuân) KINH VĂN Đại từ phụ xin thương khai khiếu, Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ, Gần điều nên, lánh lẽ hư, 4. Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn. Dò đường Thánh khó khăn chẳng

More information

DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG HO THI MY QUYEN NGUYEN THANH VINH LAM QUA

DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG HO THI MY QUYEN NGUYEN THANH VINH LAM QUA DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG 1 28342753 HO THI MY QUYEN 2 28259949 NGUYEN THANH VINH 3 28265356 LAM QUANG DAT 4 23156836 NGUYEN NGOC NHO 5 26231419 NGUYEN

More information

LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI

LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI - DỰ BÁO V -NHẦM LẪN GIỮA CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG VI

More information

PwC 2

PwC 2 www.pwc.com/vn Sổ tay thuế Việt Nam 2016 PwC 1 PwC 2 Mục Lục Hệ Thống Thuế Tổng quan 5 Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp ( TNDN ) 7 Thuế suất Ưu đãi thuế TNDN Xác định thu nhập chịu thuế TNDN Các khoản chi không

More information

Microsoft Word _09_04__DS_08__Part_1_Bai_So_00_09_Nghien_Cuu_Bien_Khao_Editing_OK.doc

Microsoft Word _09_04__DS_08__Part_1_Bai_So_00_09_Nghien_Cuu_Bien_Khao_Editing_OK.doc Một Cách Thiền Để Dưỡng Sinh Trong Thái Cực Quyền (Trích sách TẬP THÁI-CỰC DƯỠNG SINH, Let s Practice Nutri-Living TaiChi Exercises! Đỗ Quang-Vinh, Canada, 2013) Giáo Sư Đỗ Quang-Vinh 1-Thái-cực-quyền

More information

Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp

Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp chuyên môn của mình. Chúng tôi cùng nhau chuẩn bị

More information

Khoa học xã hội và nhân văn: mười năm đổi mới và phát triển

Khoa học xã hội và nhân văn: mười năm đổi mới và phát triển r- 5. PHAM TAT DONG (C h u b ie n ) CK.0 0 0 0 0 6 0 0 3 9 Miroi n a m DDI MOI VA PHAT TRIEN n h A x u a t b a n k h o a h o c XA HOl HA NOl-1997 GS. PHAM TAT DONG (Chii bien) KHOA HOC XA HOI VA NHAN VAN

More information

CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN

CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN CHUONG TRINH TAp HuAN Sau khi ky HQ'P dong tham gia ban hang da c~p voi Cong ty, Nha phan phoi c6 nghia vu hoan

More information

Microsoft Word - Sachvck1.doc

Microsoft Word - Sachvck1.doc OSHO OSHO Tín Tâm Minh Sách về Cái không HSIN HSIN MING The Book of Nothing HÀ NỘI 3/2010 @ OSHO INTERNATIONAL FOUNDATION Mục lục Tín Tâm Minh - Sách về cái không Copyright 2000 Osho International Foundation,

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH "HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA" Giai đoạn 1: Từ 28/4/ /5/2016 STT GI

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA Giai đoạn 1: Từ 28/4/ /5/2016 STT GI DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH "HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA" Giai đoạn 1: Từ 28/4/2016-27/5/2016 1 GIAI 01: MAY ANH VO TIEN HUY AN DUONG 2 GIAI 01: MAY ANH

More information

BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve d

BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve d BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve dy an Luat Nhap canh, xuat canh, cu tru cua ngiroi nircrc

More information

The Sutra of the Past Vows of Earth Store Bodhisattva

The Sutra of the Past Vows of Earth Store Bodhisattva Câ m Nang Thiê n I: Tư Ho c Thiê n Thi ch Vi nh Ho a LƯ SƠN TƯ Lu Mountain Temple 7509 Mooney Drive Rosemead, CA 91770 USA Tel: (626) 280-8801 Xuâ t ba n lâ n thư nhâ t, ISBN 978-0-9835279-6-1 Copyright:

More information

Liêt Tử Và Dương Tử

Liêt Tử Và Dương Tử Liêt Tử Và Dương Tử Tác giả: Thể loại: Trung Hoa Website: Date: 24-October-2012 Trang 1/54 NHÂN VẬT LIỆT NGỰ KHẤU Trước hết về bản thân Liệt tử, có một số học giả còn nghi ngờ. Như Cao Tự Tôn (thế kỉ XII),

More information

Hình này cho thấy, từ giáp cốt văn đến kim văn, đại triện đều là dưới mái nhà có hình con heo. Tiểu triện và lệ thư có bộ 宀 (miên, nghĩa là mái nhà),

Hình này cho thấy, từ giáp cốt văn đến kim văn, đại triện đều là dưới mái nhà có hình con heo. Tiểu triện và lệ thư có bộ 宀 (miên, nghĩa là mái nhà), Gia đình, gia thất Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ấn định đường hướng mục vụ cho Giáo Hội tại Việt Nam trong năm 2014 là năm Tân Phúc-Âm-Hoá đời sống gia đình. Logo năm gia đình của Tổng Giáo Phận Tp.HCM là

More information

CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON XX

CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON XX CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON 457353XXXXXX8443 LE HONG THUY TIEN 230,000 2 HAI PHONG 478097XXXXXX3147

More information

Ban đầu, con tập dùng hạnh lắng nghe, để tư duy phân biệt tốt xấu, động tĩnh Sau đó tu tập quán chiếu vào tánh nghe không phân biệt, quên hẵn tiếng ng

Ban đầu, con tập dùng hạnh lắng nghe, để tư duy phân biệt tốt xấu, động tĩnh Sau đó tu tập quán chiếu vào tánh nghe không phân biệt, quên hẵn tiếng ng Sự Giác Ngộ và Hóa độ của Bồ tát Quán Thế Âm qua Triết lý Tánh Không - Bát Nhã I-Duyên khởi: Trong nhiều bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, có nói về Bồ tát Quán Thế Âm; một vị Bồ tát luôn luôn khởi lòng

More information

Welcome To Kindergarten VIETNAMESE 2016.indd

Welcome To Kindergarten VIETNAMESE 2016.indd NGUN T LIU CA HC KHU StudentServices(SpecialEducation)5032618209 http://www.ddouglas.k12.or.us/departments/studentservices/ EnglishasaSecondLanguageandEquity5032618223 http://www.ddouglas.k12.or.us/departments/esl/

More information

sdf.cdr

sdf.cdr CRYPTOPROFILE WHITE PAPER www.cryptopr.io 1 MỤC LỤC Tóm tắt Vấn đề và tình hình thị trường Tình hình thị trường.. Các vấn đề trong ngành công nghiệp tiền điện tử Vấn đề Cơ h i và u mô thị trường.... u

More information

Quy tắc mô tả tài liệu thư viện

Quy tắc mô tả tài liệu thư viện 0000023981 u EN THI KIM LOAN (Chu bien) HI HANH, LE THI NGUYET a * a a QUY TAC MO TA TAI LIEU THU5VIEN I a t NHA XUAT BAN THONG TIN VA TRUYEN THONG ThS. N G U Y E N THI KIM LO AN (Chu bien) PH A M TH I

More information

2 TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI Kỉnh nguyện hồi hướng cho âm siêu dương thới, quốc thái dân an, đạo pháp trường lưu, chánh giáo hoằng dương, vạn linh thức tỉnh h

2 TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI Kỉnh nguyện hồi hướng cho âm siêu dương thới, quốc thái dân an, đạo pháp trường lưu, chánh giáo hoằng dương, vạn linh thức tỉnh h ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ T H I Ệ N Q U A N G TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI IN LẦN THỨ NHẤT Nhà xuất bản San Martin, California, USA Vía Đức Quan Âm 19-9 Giáp Ngọ (2014) 2 TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI Kỉnh nguyện hồi hướng cho

More information

TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN Nguyễn Minh Tiến biên soạn Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sa

TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN Nguyễn Minh Tiến biên soạn Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sa TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN Nguyễn Minh Tiến biên soạn Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sao chép, trích dịch hoặc in lại mà không có sự cho phép

More information

_x0001_ _x0001_

_x0001_	_x0001_ 1 BAO DO 2 HO NGUYEN 3 TAM PHAM 4 MY LINH TONG 5 THU DO 6 HONG NGUYEN 7 THOM NGUYEN 8 BINH VO 9 MY LE VO 10 HAI DUONG NGUYEN 11 DAO THI NGUYEN 12 LAN NGUYEN 13 ROMAI THI NGUYEN 14 TOAN NGUYEN 15 PHI VO

More information

TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ s

TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ s ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ TÒA THÁNH TÂY NINH TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Chú Giải TRẦN VĂN RẠNG 2010 TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info.

More information

Luatsd: QUOCHOI /2013/QH13 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc LUAT NHAP CANH, XUAT CANH, ClT TRU CUA NGlTOtt NlTCfC NGOAI

Luatsd: QUOCHOI /2013/QH13 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc LUAT NHAP CANH, XUAT CANH, ClT TRU CUA NGlTOtt NlTCfC NGOAI Luatsd: QUOCHOI /2013/QH13 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc LUAT NHAP CANH, XUAT CANH, ClT TRU CUA NGlTOtt NlTCfC NGOAI TAI VIET NAM Can cu Hien phdp nude Cong hoa xd hoi

More information

Luật hải quan Việt Nam và quốc tế

Luật hải quan Việt Nam và quốc tế TRl/CSNG DAI HOC KINH TE Q U O C DAN KHOA THLfflNG MAI VA KINH TE QUOC TE' Chu bien: PGS. TS. NGUYEN THlTA LOC WIMAN (XMf; NHA XUAT BAN DAI HOC KINH TE Q UO C DAN TRLTCJNG DAI HOC KINH TE QUOC DAN KHOA

More information

Microsoft Word - GKPH I net.doc

Microsoft Word - GKPH I net.doc GIÁO KHOA PHẬT HỌC cấp một Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc 1 GIÁO KHOA PHẬT HỌC Cấp Một (Sơ Cấp Phật Học Giáo Bản nguyên tác Hán ngữ của cư sĩ Phương Luân,

More information

Mục lục TỦ SÁCH PHẬT HỌC TỪ QUANG TẬP 9 Tháng 7 năm 2014 (PL. 2558) TRONG TẬP NÀY: Chánh Trí : Đại Trai đàn Chùa Xá Lợi Pháp sư Diễn Bồi : Nhơn quả củ

Mục lục TỦ SÁCH PHẬT HỌC TỪ QUANG TẬP 9 Tháng 7 năm 2014 (PL. 2558) TRONG TẬP NÀY: Chánh Trí : Đại Trai đàn Chùa Xá Lợi Pháp sư Diễn Bồi : Nhơn quả củ T Ủ SÁCH PHẬ T HỌ C - T Ừ QUANG TẬ P 9 1 Mục lục TỦ SÁCH PHẬT HỌC TỪ QUANG TẬP 9 Tháng 7 năm 2014 (PL. 2558) TRONG TẬP NÀY: Chánh Trí : Đại Trai đàn Chùa Xá Lợi Pháp sư Diễn Bồi : Nhơn quả của Phật pháp

More information

Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD)

Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD) Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD) 大越 國總覽圖 Trần Việt Bắc (Tiếp theo) Như đã trình bày trong phần trước theo như Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn đã ghi: - Là bản-đồ nước ta do hai Đại-tướng nhà

More information

font chữ Arial Unicode MS Standard hoặc Chu Nom Minh download ở đây: (arialuni.rar, độ lớn 13MB) hoặc (taifont.zip, độ lớn 5.3MB). Nói đến Kinh dịch d

font chữ Arial Unicode MS Standard hoặc Chu Nom Minh download ở đây: (arialuni.rar, độ lớn 13MB) hoặc (taifont.zip, độ lớn 5.3MB). Nói đến Kinh dịch d Kinh dịch - Đạo của người quân tử Nguyễn Hiến L ê Mục lục Lời nói đầu Lời nói đầu của Nguyễn Hiến Lê Chương 1 : NGUỒN GỐC KINH DỊCH VÀ NỘI DUNG PHẦN KINH Chương 2 : NỘI DUNG PHẦN TRUYỆN Chương 3 : CÁC

More information

UBND THI XA DONG XOAI PHONG GIAO DUG VA DAO TAO CONG HOA XA HQI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu- do - Hanh phiic S6: /PGDDT-THCS DSngXoai, ngay Zttthd

UBND THI XA DONG XOAI PHONG GIAO DUG VA DAO TAO CONG HOA XA HQI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu- do - Hanh phiic S6: /PGDDT-THCS DSngXoai, ngay Zttthd UBND THI XA DONG XOAI PHONG GIAO DUG VA DAO TAO CONG HOA XA HQI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu- do - Hanh phiic S6: /PGDDT-THCS DSngXoai, ngay Zttthdng 12 nam 2017 Ve viec huong dan bac cao so ket hoc

More information

Thiết kế bài giảng hóa học 12 nâng cao. Tập 1

Thiết kế bài giảng hóa học 12 nâng cao. Tập 1 GUYEN c Lieu NHA XUAT BAN HA NOl uaa uor TS. CAO ClTGlAC (Chu bten) - ThS. h 6 THANH THUY THIET KE BAIGIANG hoahog12 M A ll iia b Nh N Q Q I O - T 0 P N Q T NHA XUAT ban HA NOl Thiet ke bai giang HOA

More information

-Cô thư đươc goi la "Viêt Tuyêt ky" hay "Viêt Tuyêt Thư"(*thơi Xuân -THu chiên quôc : trươc Sư Ky cua Tư Ma Thiên ), Trong đo ghi chep Vua Viêt la con

-Cô thư đươc goi la Viêt Tuyêt ky hay Viêt Tuyêt Thư(*thơi Xuân -THu chiên quôc : trươc Sư Ky cua Tư Ma Thiên ), Trong đo ghi chep Vua Viêt la con BÁCH VIỆT SỬ : NHỮNG LỚP BỤI MỜ CỦA LỊCH SỬ (1) Han g hang lơp lơp bui mơ phu lên trên bê dây lich sư Bach Viêt... Ngươi Viêt Nam ngay nay khi viêt chư Viêt vơi dân A B C thi ngươi ta goi la chư Viêt,

More information