LaoTuTinhHoa_NDC

Size: px
Start display at page:

Download "LaoTuTinhHoa_NDC"

Transcription

1 LÃO TỬ TINH HOA Tác giả: Thu Giang Nguyễn Duy Cần Nhà xuất bản: Thành phố Hồ Chí Minh Năm xuất bản: 1992 Số trang: 258 Giá bìa: đ MỤC LỤC Vài lời thưa trước PHẦN THỨ NHẤT I. LƢỢC SỬ LÃO TỬ II. SÁCH CỦA LÃO TỬ: ĐẠO ĐỨC KINH A. VĂN CHƢƠNG TRONG SÁCH LÃO TỬ B. CÁC NHÀ CHÚ GIẢI LÃO TỬ PHẦN THỨ HAI I. PHẦN TỔNG QUAN A. Đạo là gì? B. Cái Động của Đạo C. Huyền Đồng D. Chính trị II. PHẦN PHÂN TÍCH ĐẠO A. Về bản thể B. Về nhân sự ĐỨC A. Đức B. Huyền Đức VÔ A. Vô tuyệt đối Thực hiện ebook: Goldfish Ngày hoàn thành: 09/02/2010

2 B. Vô đối đãi: TỰ NHIÊN NHÂN NGHĨA THÁNH TRÍ HỌC PHẢN VÀ PHỤC TỔN HỮU DƢ BỔ BẤT TÚC TRI TÚC TRI CHỈ BẤT TRANH NHU NHƢỢC BẤT NGÔN CHI GIÁO TAM BỬU HUYỀN ĐỒNG VÔ VI PHẦN THỨ BA A. SỰ BIẾN THIÊN CỦA LÃO HỌC B. LÃO TỬ VÀ KHỔNG TỬ C. ẢNH HƢỞNG SÁCH LÃO TỬ Vài lời thưa trước Lão Tử Tinh Hoa gồm ba phần mà phần chủ yếu, tức phần thứ hai, tôi đã có dịp chép lại từ blogspot Chu Văn An (xem post #20, trang Vì lúc chép lại tôi không có sách giấy nên đã chép không theo đúng thứ tự các tiết. Trong một dịp về quê tôi tìm lại tác phẩm này (tôi mua từ năm 1994) nên nay tôi cũng bắt đầu chép lại từ phần thứ hai. Ngoài việc sắp xếp lại theo đúng thứ tự trong sách, tôi còn sửa một vài lỗi chính tả, lƣợc bỏ những đoạn mà trong sách không có; chép thêm các những chỗ thiếu (bản đó không chép chữ Hán, chữ Pháp, một số các chú thích). Nhờ trƣớc đây tôi đã chép cuốn Lão tử - Đạo Đức kinh của cụ Nguyễn Hiến Lê (Nxb Văn hoá, năm 2006) nên việc chép chữ Hán trong cuốn Lão tử tinh hoa này không tốn công nhiều, gần nhƣ chỉ cần chép lại các đoạn tƣơng ứng trong bản của cụ Nguyễn Hiến Lê rồi sửa lại cho phù hợp với bản của cụ Nguyễn Duy Cần vì hai bản có nhiều chỗ khác nhau nhƣ hai ví dụ sau: - Trong tiết D: Chính trị, phần II: Tổng quan, cụ Nguyễn Duy Cần có trích dẫn câu: Dân chi khinh tử, dĩ kỳ cầu sinh chi hậu ( 民之輕死, 以其求生之厚 ), và dịch là: dân mà coi thường cái chết, là vì quá trọng cầu cái sống ). Còn bản của cụ Nguyễn Hiến Lê thì chép là: Dân chi khinh tử, dĩ kì thƣợng cầu sinh chi hậu ( 民之輕死, 以其上求生之厚 ), và dịch là: Dân sở dĩ coi thường cái chết là vì nhà cần quyền tự phụng dưỡng quá hậu. Vì bản của cụ Nguyễn Hiến Lê có chữ thƣợng 上, còn bản của cụ Nguyễn Duy Cần thì không, nên ý nghĩa câu đó khác nhau nhƣ vậy. Điều này cụ Nguyễn Hiến Lê có nêu ra trong cuốn Lão tử - Đạo Đức kinh (xem phần dịch Đạo Đức kinh, chƣơng75).

3 - Một câu trích dẫn khác, cũng trong trong tiết C: Dân đa lợi khí, quốc gia tƣ hôn ( 民多利器, 國家滋昏 ): Nhân dân nhiều lợi khí, thì nước nhà càng tối tăm. Tƣơng ứng với chữ dân 民 trong câu đó, bản của cụ Nguyễn Hiến Lê chép là triều 朝 : Triều đa lợi khí, quốc gia tƣ hôn ( 朝多利器, 國家滋昏 ): Triều đình càng nhiều lợi khí (tức quyền mưu) thì quốc gia càng hỗn loạn (Chƣơng 57). Hai ví dụ trên có một điểm chung là: theo bản của cụ Nguyễn Duy Cần thì ngƣời có lỗi đều là dân, còn theo bản của cụ Nguyễn Hiến Lê thì ngƣời có lỗi đều là nhà cầm quyền. Trong cuốn Đạo Đức kinh dễ hiểu, Phan Ngọc cho biết: Trong việc dịch này tôi cảm ơn các bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Hiến Lê, Thu Giang, Giáp Văn Cƣờng mà tôi đều tham khảo với tinh thần Hƣ tâm cầu học. Đó đều là những bản dịch tốt, biểu hiện một trình độ Hán học sâu và một công phu khảo cứu hết sức nghiêm túc. So với nhiều bản dịch tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nga thì nó dễ hiểu hơn. Tôi chỉ giới thiệu cách dịch dễ hiểu cho nên gọi nó là Đạo Đức Kinh dễ hiểu, còn Đạo Đức Kinh chính nghĩa là chuyện của các thế hệ sau. Hai câu tƣơng ứng với hai ví dụ nêu trên, Phan Ngọc phiên âm và dịch nghĩa nhƣ sau: - Dân chi khinh tử, dĩ kỳ thƣợng cầu sinh chi hậu : Dân mà coi thường cái chết là vì người trên lo cái sống của họ quá nặng - Dân đa lợi khí, quốc gia tƣ hôn : Khi dân có nhiều mánh khóe mưu lợi (/lợi khí/) thì nước nhà sẽ tối tăm. Nhƣ vậy, câu trƣớc, bản của Phan Ngọc có chữ thƣợng giống nhƣ bản của cụ Nguyễn Hiến Lê; còn câu sau dùng chữ dân giống nhƣ bản của cụ Nguyễn Duy Cần 1. Sách dày khoảng 250 trang (không kể phần sách tham khảo và mục lục mà tôi không chép lại) mà phần thứ hai gồm khoảng 170 trang, tức khoảng 70% tác phẩm, nên phần tôi đánh máy không đáng kể so với phần tôi chép lại từ blogspot Chu Văn An. Xin chân thành cảm ơn ngƣời đã đăng phần hai tác phẩm Lão Tử Tinh Hoa và xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn. Goldfish ĐẠI CƯƠNG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC LÃO TỬ TINH HOA 1 Có trƣờng hợp, nhƣ câu bất tranh chi đạo, nhược xưng thượng đức, cả hai bản của cụ Nguyễn Hiến Lê và của Phan Ngọc đều không có. (Goldfish).

4 Kính tặng hương hồn thân phụ để nhớ lại những đêm dài mà Cha đã giảng cho con nghe về lẽ Đạo. Con N.D.C ( ) Ông chỉ viết có một quyển rất vắn tắt: ĐẠO ĐỨC KINH. Vài dòng chữ hợp thành quyển sách ấy chứa đựng tất cả sự khôn ngoan trên quả đất này. (Il n écrivit qu un livre très bref: le livre de la voie et de la vertu. Les quelques lignes qui le composent contiennent toute la sagress de cette terre) RENE BERTRAND (sagesse Perdu) p Lão Tử đâu phải chỉ sống cho nƣớc Trung Hoa và thời đại của ông mà thôi; ông là một trong những bậc Thầy thuần tuý và sâu sắc của nhân loại. (Lao Tsé n est pas vécu seulement pour la Chine et pour son époque; il est un des maîtres les plus purs et les plus profonds de l Humanité) E.V. ZENKER (Hist. de la Philos. Chinoise) p Tri giả bất ngôn 知者不言 Ngôn giả bất tri 言者不知 Biết, thì không nói; Nói, là không biết. 道德經 ---- ĐẠO ĐỨC KINH

5 PHẦN THỨ NHẤT I. LƯỢC SỬ LÃO TỬ Nhân vật Lão Tử sanh vào thời nào, năm nào, thật là một điều rất khó thể biết đƣợc. Các học giả Trung Hoa, Nhật Bản và cả Âu Mỹ từ trƣớc đến giờ chỉ bàn suông, chƣa có một giả thuyết nào có thể tin là đích xác đƣợc về thân thế cũng nhƣ về sách vở của ông. Theo sử gia đầu tiên của Trung Quốc là Tƣ Mã Thiên 司馬遷 thì Lão Tử là ngƣời nƣớc Sở 楚, huyện Khổ 苦, làng Lệ 厲, xóm Khúc Nhân 曲仁, ở tỉnh Hồ Nam bây giờ. Ông tên Nhĩ 耳, họ Lý 李, tự là Bá Dƣơng 伯陽 ; thuỵ là Đam 聃, làm quan giữ tàng thất sử nhà Châu 周. Khổng Tử đến Châu, hỏi Lễ. Lão Tử nói: Lời nói của ông là lời nói của những kẻ nay đã xương tàn cốt rụi. Vả, người quân tử đắc thời thì đi xe, không đắc thời thì tay vịn nón lá mà đi chơn. Ta nghe rằng: kẻ buôn giỏi khéo giữ của quý như không có gì, người quân tử đức thạnh, dung mạo dường như kẻ ngu. Họ rất khác với cái kiêu khí và đa dục của ông, thái sắc và đảm chí ấy không ích gì cho thân ông cả. Tôi sở dĩ bảo cho ông biết có bấy nhiêu thôi. Khổng Tử ra về bảo với đệ tử: Chim, ta biết nó bay thế nào; cá, ta biết nó lội làm sao; thú, ta biết nó chạy cách nào. Thú chạy, thì ta có lưới bắt nó; cá lội, thì ta có dây câu ví nó; chim bay, thì ta có bẫy gài nó. Chí như con Rồng, ta không biết nó theo mây theo gió mà bay liệng như thế nào. Nay ta thấy Lão Tử như con Rồng! Lão Tử tu giồi đạo đức, cái học của ông là vụ lấy sự ẩn tích mai danh làm gốc. Ở Châu lâu, sau thấy Châu suy, nên bỏ mà đi. Đến cửa ải, quan lệnh là Doãn Hỉ 尹喜 nói: Ngài toan đi ẩn, xin gượng vì tôi để lại bộ sách. Lão Tử ở lại soạn ra bộ sách ý nói về Đạo Đức, phân làm hai thiên, gồm trên năm nghìn lời. Rồi bỏ đó mà đi, không biết chung cuộc đời Ngài như thế nào. Câu chuyện hỏi Lễ trên đây rất có thể là một câu chuyện ngụ ngôn, chứ không phải là sự thực nhƣ đã có nhiều học giả ngờ vực và bài bác. Nhƣng thiết nghĩ, việc ấy đích xác hay không đích xác cũng không quan trọng gì cho lắm. Quan trọng nhất là cái ý nghĩa hàm súc của câu chuyện hỏi Lễ ấy: nó biểu diễn đƣợc một cách rất sâu sắc và ý vị lập trƣờng hữu vi và vô vi của hai nhà đại tƣ tƣởng đã thay nhau ngự trị và nhồi nắn tâm hồn ngƣời Trung Hoa trên mấy mƣơi thế kỷ.

6 Có kẻ lại cho rằng đồng thời với Khổng Tử cũng có ngƣời tên là Lão Lai Tử ( 老來子 ) ngƣời nƣớc Sở 楚, có viết ra một bộ sách mƣời lăm thiên, chuyên nói về cái dụng của Đạo gia. Sách Lễ Ký ở thiên Tăng Tử Vấn có câu tích ngô tùng Lão Đam (xƣa ta theo Lão Đam), và trong sử nƣớc Sở cũng có câu Lão Lai Tử giáo Khổng Tử (Lão Lai Tử dạy Khổng Tử) nên ngƣời sau có kẻ cho rằng Lão Lai Tử chính là Lão Đam hay Lão Tử vậy. Vì chƣng Lão Tử sống trên 160 năm (có kẻ lại bảo là trên 200 năm) nên ngƣời ta cho rằng ông nhờ tu dƣỡng Đạo Đức mà đƣợc sống lâu và mạnh khoẻ nhƣ thế. Trong Sử Ký cũng có chép rằng: 129 năm sau khi Khổng Tử mất, Thái Sử nhà Châu ( 周 ) là Đảm ( 儋 ) gặp Tần Hiến Công ( 秦獻公 ) nói: Bắt đầu nhà Tần và nhà Châu hợp với nhau, rồi lại tan. Tan rồi năm trăm năm lại hợp với nhau 70 năm thì Bá Vương ra đời vậy. Cho nên có kẻ cho rằng ông Đảm ( 儋 ) đây tức là Lão Tử đó. Nhƣng có ngƣời cho rằng không phải thế, vì Lão Tử là một bậc quân tử ở ẩn. Học giả về sau phần nhiều cũng ngờ đoạn văn trên đây của Sử Ký. Nho gia đời Thanh là Tất Nguyên ( 畢元 ) trong bài tựa quyển Lão Tử Đạo Đức Kinh Khảo Dị ( 老子道德經考異 ) biện minh rằng: đời xưa chữ ĐAM ( 聃 ) và chữ ĐẢM ( 儋 ) dùng lẫn nhau. Trong Thuyết Văn Giải Tự ( 說文解字 ) cũng có chữ Đam ( 聃 ) và giải nghĩa nhƣ vầy: Tai thòng xuống ( 耳曼也 ) 2. Còn chữ Đảm ( 儋 ) thì cũng giải là: Tai dài ( 垂耳也 ) 3. Ở phƣơng Nam có nƣớc tên là Đảm Nhĩ ( 聸耳 ), nghĩa là nƣớc mà ngƣời ta có tai dài thòng xuống. Trong sách Đại Hoang Bắc Kinh Lữ Lãm ( 大荒北經呂覽 ) thì chữ Đam Nhĩ 聃耳 cũng viết là Đảm 聸. Lại nữa, cũng trong Lữ Lãm ( 呂覽 ) chữ Lão Đam 老聃, trong sách Hoài Nam Vương ( 淮南王 ) chữ Đảm Nhĩ 儋耳 đều viết là Đam 耽. Trong Thuyết Văn Giải Tự ( 說文解字 ) cũng có chữ 耽 (cũng đọc là Đam), cắt nghĩa là tai lớn rủ xuống ( 耳大垂也 ) 4. Vì chƣng ba chữ ấy ý nghĩa và giọng đọc tƣơng đồng nên mới dùng lẫn với nhau. Trịnh Khang Thành ( 鄭康成 ) nói: Lão Đam là cái biệt hiệu của những kẻ sống 2 Nhĩ mạn dã. (Goldfish). 3 Thuỳ nhĩ dã. (Goldfish). 4 Nhĩ đại thuỳ dã. (Goldfish).

7 lâu đời xưa. Nói nhƣ thế cũng thông. Nhƣ vậy thì Lão Tử cũng chỉ là danh hiệu một bậc Thầy Già và chỉ có thế thôi. Qua thế kỷ thứ 19, các nhà bác học Trung Hoa cũng nhƣ những nhà thông thái Âu Tây áp dụng phƣơng pháp khoa học về ngôn ngữ để nghiên cứu sách của Lão Tử, thực ra cũng chỉ đem lại thêm một vài tia sáng nhƣng kết quả chƣa có gì thiết thực. Các học giả Trung Hoa phần đông lâu nay vẫn tin theo truyền thuyết rằng Lão Tử đồng thời với Khổng Tử và lớn hơn lối vài mƣơi tuổi. Khổng Tử sống vào khoảng 570 và 490 còn Lão Tử thì sống vào khoảng 570 và 479 trƣớc Tây lịch kỷ nguyên, nghĩa là vào khoảng cuối thế kỷ thứ 6 và đầu thế kỷ thứ 5 trƣớc Chúa Giáng Sinh 5, cùng thời với Héraclite ( ) và Pythagore ( ) ở Hy Lạp. Những câu chuyện do sử gia Tư Mã Thiên thuật lại trong Sử Ký không thể tin đƣợc, là vì phần nhiều tài liệu, Tƣ Mã Thiên đều lấy theo sách Trang Tử. Mà sách Trang Tử thƣờng có tánh cách nụ ngôn nên những câu chuyện kể trong ấy không thể tin đƣợc. Huống chi phần nhiều câu chuyện có liên quan đến Lão Tử trong sách Trang Tử đều ở về phần Ngoại thiên, tức là thiên mà các nhà phê bình đều cho là nguỵ thơ. Những ý tƣởng mà sách Trang Tử gán cho Lão Tử về Lễ lại nghịch rất xa với học thuyết Lão Tử trong Đạo Đức Kinh nơi chƣơng 38: Lễ chỉ là cái vỏ mỏng của lòng trung tín mà cũng là đầu mối của hỗn loạn (Phù Lễ giả, trung tín chi bạc, nhi loạn chi thủ ( 夫禮者, 忠信之薄, 而亂之首 ). Trong tình trạng hiện thời, ta chƣa thể biết đƣợc rõ ràng hơn nữa về con ngƣời lịch sử của Lão Tử, vậy ta cũng nên tạm thời, theo truyền thuyết mà cho Lão Tử là tác giả quyển Đạo Đức Kinh cũng không sao. II. SÁCH CỦA LÃO TỬ: ĐẠO ĐỨC KINH Sách của Lão Tử cũng theo truyền thuyết, có lẽ viết ra lúc Khổng Tử còn sống, là vì trong sách Trang Tử có thuật lại việc hỏi Lễ của Khổng Tử, và trong Lễ Ký ở thiên Tăng Tử Vấn, nhất là trong Sử Ký của Tƣ Mã Thiên cũng đều có bàn qua về việc gặp gở giữa hai ngƣời. Lại còn một lẽ nữa là trong nhiều quyển sách viết ra trƣớc hoặc sau ngày chết của Khổng Tử (479) nhƣ Lễ Ký, Trang Tử, Lữ Thị Xuân Thu, Chiến Quốc Sách, Hàn Phi Tử, Hàn Phi Ngoại Truyện, Hài Nam Tử, Sử Ký và cả Luận Ngữ nữa 6, ngƣời ta thƣờng 5 Tức là ném về thời Xuân Thu ( ). 6 Nghi là Luận Ngữ đã rút trong chƣơng 63 của Lão Tử đoạn báo oán dĩ đức để viết đoạn văn: Hoặc viết: Dĩ đức báo oán, hà như. Tử viết: Hà dĩ báo đức? Dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức (chƣơng Hiến Vấn đệ thập tứ) ( 或曰 : 以德報怨, 何如. 子曰 : 何以報德? 以直報怨, 以德報德 ( 憲問 ). (Có kẻ hỏi: lấy đức

8 thấy có trích trong nhiều đoạn văn trong Đạo Đức Kinh gồm 1745 lời. Nhƣ vậy, ta có thể cho rằng quyển Đạo Đức Kinh viết ra vào khoảng cuối thế kỷ thứ năm, trƣớc Tây lịch kỷ nguyên. Chống lại với thuyết trên, có ngƣời lại cho rằng Đạo Đức Kinh là một quyển sách tạp nhạp phỏng theo thuyết Âm Dƣơng, lƣợm lặt những chỗ hay của Khổng học và Mặc học để dung hoà với điều cốt yếu của Danh gia và Pháp gia hoặc về sau phỏng theo sách của Trang Tử, các sách binh pháp và rút tỉa những tƣ tƣởng về thuyết ngu dân cuối thế kỷ thứ 9 sau Chúa Giáng sinh mà thêm vào Vì chính vì vay mƣợn cùng khắp bá gia chƣ tử mà sách ấy đƣa ra nhiều ý tƣởng mâu thuẫn. Nhƣng nghiên cứu cho thật kỷ, ta sẽ thấy rằng Đạo Đức Kinh, về phƣơng diện tƣ tƣởng cũng nhƣ về văn chƣơng, là một quyển sách do một ngƣời viết ra mới đƣợc nhất trí nhƣ thế và thành một hệ thống tƣ tƣởng rất chặt chẽ. Về thuyết cho rằng sách ấy viết ra sau sách Trang Tử ( ) thì là một việc khó tin đƣợc. Sách Trang Tử và Hàn Phi Tử là những sách giải thích cái học của Lão Tử rất là rõ ràng từng điểm một, huống chi lại cho nó rút tỉa tƣ tƣởng các thuyết ngu dân cuối thế kỷ thứ 9 sau công nguyên thì rõ là phi lý. Ngoài hai giả thuyết trên đây còn một giả thuyết thứ ba cho rằng Đạo Đức Kinh rất có thể viết vào khoảng giữa từ Khổng Tử ( ) và Mặc Tử ( ) đến Trang Tử ( ) và Mạnh Tử ( ), nghĩa là khoảng 460 và 380, cuối thế kỷ thứ 5 và đầu thế kỷ thứ 4, trƣớc công lịch kỷ nguyên. Là vì Khổng Tử và Mặc Tử không hề nói đến Lão Tử, còn Lão Tử, trong nhiều đoạn văn, lại chống hẳn với tƣ tƣởng của hai nhà tƣ tƣởng trên kia. Những danh từ nhƣ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín của Nho học đều bị Lão Tử chỉ trích chê bai, nhất là ở những chƣơng 18, 19 và 38: Đại Đạo phế hữu Nhân Nghĩa (18), Tuyệt Thánh khí Trí Tuyệt Nhân khí Nghĩa (19), Thất Đạo nhi hậu Đức, thất Đức nhi hậu Nhân, thất Nhân nhi hậu Lễ Phù Lễ giả, Trung Tín chi bạc, nhi loạn chi thủ (38) Cũng nhƣ trong sách của Mặc Tử đề cao thuyết thượng hiền, thì Lão Tử trái lại bảo Bất thượng hiền ở chƣơng thứ 3, dĩ nhiên không phải đó là nhắm vào thuyết thượng hiền của Mặc Tử mà công kích hay sao? Vì vậy, giả thuyết cho rằng Đạo Đức Kinh viết vào thời Chiến Quốc, khoảng 460 và 380, nghĩa là cuối thế kỷ thứ 5 và đầu thế kỷ thứ 4 là có thể tin đƣợc hơn cả, nhƣng vẫn còn là một giả thuyết, vì trong sách không thấy ghi một tên ngƣời hay một việc gì để có thể dùng làm đối chứng 7. mà báo oán thì sao? Phu Tử nói: Rồi lấy gì để báo đức?. Hảy lấy ngay thẳng mà báo oán, lấy đức mà báo đức). Nhƣ vậy, sách Lão Tử có trƣớc hay sau Luận Ngữ? 7 Lƣơng Khải Siêu cho rằng sách Lão Tử Đạo Đức Kinh là sản phẩm của thời Chiến Quốc ( ), còn nhân vật Lão Tử thì không rõ thật là ở vào thời nào. Họ Lƣơng căn cứ vào 5 điều sau đây để chứng minh giả thuyết của mình: -1) Theo Sử Ký, thì nói Lão Tử là tiền bối của Khổng Tử. Vậy cháu của Lão Tử không thể là tƣớng quốc nƣớc Nguỵ đƣợc (Tam Quốc). -2) Khổng Tử, Mặc Tử, Mạnh Tử - trƣớc sau không bao giờ đề cập đến Lão Tử. -3) Lão Tử Đ.Đ.K, những tên xƣng Hầu Vƣơng, Vƣơng Công, Vƣơng Hầu, Vạn Thặng đều là thành ngữ không thuộc về thời Xuân Thu. -4) Trong Lão Tử Đ.Đ.K giọng văn hết sức tự do và kịch liệt, không giống với giọng văn thời Xuân Thu. -5) Sách Đ.Đ.K chỉ trích Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí là chống báng Nho gia. Câu bất thƣợng hiền là chống báng Mặc Tử. Lại câu dân bất uý tử có vẻ ám chỉ Pháp gia. Còn Phùng Hữu Lan thì cũng chủ trƣơng rằng sách Lão Tử Đ.Đ.K là tác phẩm của thời Chiến Quốc. Sách ấy viết sau Huệ Thi và Công Tôn Long (phái Danh học) chứ không thể trƣớc đó đƣợc là vì trong sách Lão Tử có đề cập đến vấn đề danh học (vô danh). Họ Phùng nói: -1) Về thời đại trƣớc Khổng Tử không có những ngƣời tự trƣớc thuật ra học thuyết riêng. Bởi thế Chƣơng Học Thành, một sử gia đời Thanh, có viết: Về thời xƣa không thấy ai tự viết sách cả. Các nhà cầm quyền dùng sử gia của họ thì chỉ chép văn chƣơng.

9 Nhƣ vậy, ngƣời ẩn quân tử với chủ trƣơng vi nhi bất thị, thiện hành vô triệt tích đã thắng đƣợc óc tò mò soi bói của hậu thế Trong hoàn của hiện tại của ta không còn biết phải làm sao hơn đƣợc nữa khi chạy theo tông tích của bậc ẩn quân tử này, có lẽ ta cũng nên khôn ngoan hơn là tạm thời nhận theo thuyết mà cho rằng Lão Tử là tác giả bộ Đạo Đức Kinh. A. VĂN CHƯƠNG TRONG SÁCH LÃO TỬ Trong Lão Trang Thân Hàn Liệt truyện ( 老莊申韓列傳 ), Thái sử Công cho rằng sách Lão Tử thật là thâm viễn, vi diệu, kỳ ảo khó thể biết v.v Đó là ông muốn nói về nội dung tƣ tƣởng, chứ chƣa phải muốn nói đến hình thức của văn từ. Nhƣ trong bản dịch của Lão Tử, tôi đã nói, văn từ trong sách Đạo Đức Kinh là một lối thơ tự do, thƣờng là một lối thơ ba chữ hay bốn chữ, và rất chú trong đến âm vận. Tỉ nhƣ, nơi chƣơng 3, ta thấy: Hư kỳ tâm, 虛其心, Thực kỳ phúc, -- 實其腹, Nhược kỳ chí, -- 弱其志, Cường kỳ cốt, -- 强其骨, Chƣơng thứ 4: Toả kỳ nhuệ, 挫其銳, Giải kỳ phân, ---- 解其紛, Hoà kỳ quang, -- 和其光, Đồng kỳ trần, --- 同其塵, Chƣơng thứ 8: Còn sử gia chân chính thì chép các việc xảy ra. Chỉ đến khi xã hội rời rã, các học giả mới bắt đầu lập ra học thuyết riêng. Vì thế, Khổng Phu Tử hơn cả Nghiêu Thấun. -2) Quyển Đ.Đ.K không viết theo lối vấn đáp nhƣ Luận Ngữ, Mạnh Tử. -3) Văn của Đ.Đ.K viết theo lối kinh, nghĩa là thể văn thịnh hành ở đời Chiến Quốc. Nhƣng Hồ Thích trong Trung Quốc Triết Học Sử Cƣơng thì cho rằng đoạn Sử Ký trên đây là ám chỉ về Đạo giáo và thuyết Âm Dƣơng, không ăn chịu gì đế Đạo Đức kinh, tức là Lão học (học thuyết của Lão Tử) cả, vì Đạo gia cũng nhƣ Âm Dƣơng gia đều thuộc về Tạp gia, nhƣ thiên Nghệ Văn Chí trong Tần Hán Thƣ có nói qua.

10 Cư thiện địa, 居善地, Tâm thiện uyên, -- 心善淵, Dữ thiện nhân, ---- 與善仁, Ngôn thiện tín, 言善信, Chánh thiện trị, -- 正善治, Sự thiện năng, ---- 事善能, Động thiện thời, -- 動善時 Có khi câu văn lại viết theo lối thơ 4 chữ: Ở chƣơng 21: Khổng đức chi dung, --- 孔德之容, Duy Đạo thị tùng; 惟道是從 ; Đạo chi vi vật, 道之為物, Duy hoảng duy hốt, 惟恍惟惚, Hốt hề hoảng hề, 惚兮恍兮, Kỳ trung hữu tượng 其中有象 v.v Ở chƣơng 45: Đại thành nhược khuyết,-- 大成若缺, Kỳ dụng bất tệ; 其用不弊 ; Đại doanh nhược xung, --- 大盈若沖, Kỳ dụng bất cùng; 其用不窮 ; Đại trực nhược khuyết, --- 大直若屈, Đại xảo nhược chuyết; --- 大巧若拙, Đại biện nhược nột 大辯若訥 Có khi là thứ thơ 6 chữ: Nhƣ ở chƣơng 12:

11 Ngũ sắc lệnh nhơn mục manh. 五色令人目盲 Ngũ âm lệnh nhơn nhĩ lung. 五音令人耳聾 Ngũ vị lệnh nhơn khẩu sảng. 五味令人口爽 Có khi giống nhƣ lối thơ 7 chữ: Ở chƣơng 10: Địch trừ huyền lãm, năng vô tỳ 滌除玄覽, 能無疵 Ái dân trị quốc, năng vô vi 愛民治國, 能無為 Thiên môn khai hạp, năng vô thư 乎天門開闔, 能無雌 Minh bạch tứ đạt, năng vô tri 明白四達, 能無知 Các bản chép, phần nhiều đều có thêm chữ hồ ( 乎 ), bản của Hà Thƣợng Công lại không có chữ hồ 乎. Lại cũng có khi, hành văn giống nhƣ là điệu của Sở từ 楚辭 8, nhƣ câu này ở chƣơng thứ 15: Dự hề nhược đông thiệp xuyên, 豫兮若冬涉川 Do hề nhược úy tứ lân. 猶兮若畏四鄰 Nghiễm hề kỳ nhược khách, 8 Vì chữ trong sách không đọc đƣợc, nên tôi tạm chép chữ 辭 (từ) này theo Nguyễn Hiến Lê trong bộ Đại cương Văn học sử Trung Quốc (Nxb Trẻ, năm 1997, trang 91). (Goldfish).

12 儼兮其若客 Hoán hề nhược băng chi tương thích. 渙兮若冰之相釋 Đôn hề kỳ nhược phác, 敦兮其若樸 Khoáng hề kỳ nhược cốc, 9 曠兮其若谷 Hỗn hề kỳ nhược trọc. 混兮其若濁 Có khi lại viết theo lối Ca hành ( 歌行 ) nhƣ câu này ở chƣơng 28: Tri kỳ hùng, 知其雄 Thủ kỳ thƣ, 守其雌 Vi thiên hạ khê; 為天下谿 Vi thiên hạ khê, thƣờng đức bất ly, 為天下谿, 常德不離 Phục quy ƣ anh nhi. 復歸於嬰兒. Tri kỳ bạch, 知其白 Thủ kỳ hắc, 守其黑 Vi thiên hạ thức, 為天下式 Vi thiên hạ thức, thƣờng đức bất thắc, 9 Vì chữ trong sách không đọc đƣợc, nên tôi tạm chép chữ 曠 (khoáng) này theo cuốn Lão tử Đạo Đức kinh của Nguyễn Hiến Lê. (Goldfish).

13 為天下式, 常德不忒 Phục quy ƣ vô cực, 復歸於無極 Tri kỳ vinh, 知其榮 Thủ kỳ nhục, 守其辱 Vi thiên hạ cốc, 為天下谷 Vi thiên hạ cốc, thƣờng đức nãi túc, 為天下谷, 常德乃足 Phục quy ƣ phác. 復歸於樸 Toàn quyển sách, Lão Tử phần nhiều rất thích dùng âm vận. Ở chƣơng 1: Cố, thường vô dục, dĩ quan kỳ DIỆU; thường hữu dục, dĩ quan kỳ KIẾU. Chữ diệu âm với kiếu. Ở chƣơng 2: Cố hữu vô tương SANH, Nan dị tương THÀNH, Trường đoản tương HÌNH, Cao hạ tương KHUYNH. Chữ sanh âm với thành ; chữ hình âm với khuynh. Lại có khi dùng đồng tự làm âm. Nhƣ ở chƣơng 1:

14 Đạo khả đạo, phi thƣờng Đạo; Danh khả danh, phi thƣờng Danh. Ba chữ Đạo âm với nhau, ba chữ Danh âm với nhau. Tỉ nhƣ, ở chƣơng 8 có câu: Chánh thiện TRỊ, 正善治 Sự thiện NĂNG, 事善能 Động thiện THÌ, 動善時 Phù duy bất TRANH, 夫唯不爭 Cố vô VƯU. 故無尤 Xét câu văn này, thì chỉ trừ hai chữ trị 治 và chữ thì 時 là âm với nhau thôi, các vận kia không hợp nhau, nhƣ 3 chữ năng, tranh 爭, vƣu 尤. Không thể âm với nhau đƣợc là chiếu theo giọng đọc ngày nay, nhƣng theo xƣa, thì chữ năng 能 dùng lẫn với chữ nhi 而 ; chữ tranh 爭 thì đọc là chỉ 脂 ; chữ vƣu 尤 thì đọc là di 移. Nhƣ vậy thì, các vận đều cùng âm với nhau cả: trị, thì, nhi, di, chỉ, di (theo giọng đọc của thời xƣa). Căn cứ vào âm vận, có khi nhờ đó mà ta đính lại đƣợc những chữ bị tam sao thất bản. Tỉ dụ nhƣ câu này, ở chƣơng 2: Hữu vô tương SANH, Nan dị tương THÀNH, Trường đoản tương HÌNH, Cao hạ tương KHUYNH. Các bản ngày nay đều chép là hình 形 ; trừ ra các bản của Vƣơng Bật và Lục Đức Minh (và sau này trong bản dịch của Nghiêm Toản cũng chép theo bản của Vƣơng Bật) đều chép chữ hình ra chữ giảo 較. Đó là chép sai. Căn cứ vào âm vận, ta thấy chữ hình âm

15 với chữ khuynh, chứ chữ giảo 較 không làm sao ứng với âm khuynh đƣợc. Vì vậy mà Tất Nguyên 畢元 cho Vƣơng Bật chép sai cũng có lý. B. CÁC NHÀ CHÚ GIẢI LÃO TỬ Cũng nhƣ sách Trang Tử, kẻ hậu học giảng giải về Lão Tử rất nhiều, nhƣng theo các học giả xƣa nay thì chỉ có hai nhà có thể xem là cự phách: Hà Án và Vương Bật. Hà Án 何晏 là một danh sĩ trong phái Huyền học đời Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều, tự là Bình Thúc 平叔, mẹ là Doãn Thị, vợ vua Thái Tổ 10. Sách Nguỵ Chí cho rằng Hà Án sinh trƣởng trong cung điện, thuở nhỏ đã nổi tiếng là tài hoa, rất say mê cái học của Lão Trang, làm ra sách Đạo Đức Luận độ mƣời thiên. Hà Án lại đem chỗ sở đắc ở cái học Lão Trang mà chú giải sách Luận Ngữ biến thành một hệ thống nhân sinh, không còn phải là một mớ hỗn tạp cách ngôn luân lý nữa. 11 Vương Bật 王弻, tự là Phụ Tự 輔嗣, thuở mới mƣời tuổi đã thích cái học của Lão Tử và lại có tài biện luận rất linh hoạt. Hà Án lúc bấy giờ đã phải thán phục cái tài lạ lùng ấy. Ông nói: Thánh nhân nói rằng: kẻ hậu sinh đáng sợ! Phải chăng là người này?. Thật vậy, chỉ trong một kiếp sống ngắn ngủi (hai mƣơi bốn tuổi) mà ông làm xong đƣợc công việc chú thích Châu Dịch và Lão Tử hết sức thâm viễn. Vu Hữu Nhiệm 于右任, trong Trung Quốc Học Thuật Tư Tưởng Đại Cương, cho rằng Hà Án chú thích Luận Ngữ, Vương Bậc chú thích Châu Dịch đều lấy theo tôn chỉ của Đạo gia, mà giải thích những lời nói của Nho gia. Vƣơng Bật thì đem Lão học và Dịch học mà bổ túc và giảng giải lẫn nhau, còn Hà Án thì thiên hẳn về phƣơng diện siêu hình của Lão học, lấy quan điểm của Lão Tử để chứng giải quan điểm Nho gia. Tóm lại, cả hai đều có công to làm phát huy đƣợc tƣ tƣởng của Lão học ở thời Nguỵ Tấn. Tuy vậy, công việc làm của Hà Án không tránh khỏi chỗ khiên cƣỡng, sao đƣợc nhƣ Hƣớng Tú, Quách Tƣợng đã làm cho Trang học càng thêm rực rỡ dồi dào! Lấy Lão mà giảng Dịch nhƣ Vƣơng Bật thì còn có thể thuận đƣợc, chứ đem Đạo học của Lão mà giải thích Nho học thì quả là khiên cƣỡng, nếu không nói là sai lạc, bởi đó là hai cái học không thể dùng một tiêu chuẩn chung mà đánh giá, cũng không thể đem so sánh hơn thua 10 Doãn Thị là phu nhân của Nguỵ Thái tổ Tào Tháo. (Goldfish). 11 Trong sách in là 轉 (Theo Thiều Chửu thì đọc là Chuyển hoặc Chuyên ). Tôi tạm chép chữ Phụ 輔 này theo bộ Đại cương triết học Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê (Nxb Thanh Niên, năm 2004, cuốn 2, trang 894). (Goldfish).

16 cao thấp 12. Tuy vậy, Hà Án cũng đã làm cho một số đông tín đồ Nho học bị lung lạc và đổ xô theo Huyền học không ít. Về sau từ Đƣờng, Tống, Minh, Thanh các nhà chú giải tiếp nhau xiển minh Lão Tử nhƣ Lục Đức Minh, Tư Mã Quang, Tô Triệt, Tô thức, Thích Đức Thanh, Tất Nguyên, Nghiêm Phục, Tôn Di Nhượng, Vương Niệm tôn, Lưu Sư Bồi, Hồ Thích, Lương Khải Siêu v.v kể ra thật phong phú, nhƣng phần đông lạc chạc mâu thuẫn, chƣa nắm vững yếu chỉ của Lão học và quá vụ về hình thức, nhất là các nhà chú giải hiện đại nhƣ Hồ Thích, Trần Trụ Bởi vậy có ngƣời cho rằng chú giải càng nhiều càng giết mau Lão Tử: âu cũng là một nhận xét đáng cho ta lƣu ý mà đề phòng. Đọc Lão cần đọc bằng Tâm hơn bằng Trí. PHẦN THỨ HAI HỌC THUYẾT LÃO TỬ I. PHẦN TỔNG QUAN Đạo Đức Kinh, theo nhiều học giả Đông Phƣơng cũng nhƣ Tây Phƣơng, là một quyển sách thuộc về Tâm linh Đạo học, dành cho những ngƣời đi theo con đƣờng Huyền Học và siêu thoát. Nhƣng theo một cách khách quan, ta phải nhìn nhận rằng Đạo Đức Kinh, trƣớc hết, là một quyển sách dƣờng nhƣ viết ra để kêu gọi các nhà cầm quyền và chánh khách dùng Đạo mà trị nƣớc. Lão Tử thực ra là một hiền giả đã cố gắng đem Đạo học vào chánh trị, do những kinh nghiệm tâm linh của ông mà lập thành một hệ thống triết học. Lịch sử nhân loại cận đại, chỉ thấy có một Gandhi là ngƣời duy nhất đã cố gắng đem áp dụng đạo học vào chánh trị, nhƣng tiếc thay, ông mất trong lúc công cuộc thực nghiệm chính sách bất tranh nhi thiện thắng đang thành công trong bƣớc đƣờng đầu. Có kẻ cho rằng Lão Tử không siêu thoát bằng Trang Tử. Nói thế không đúng. Thực sự thì trong Đạo Đức Kinh, ta thấy Lão Tử ít nói về vấn đề siêu thoát, mà bàn rất nhiều về phƣơng trị nƣớc, tức là về phần chính trị. Sở dĩ Lão Tử ít nói đến phần tâm linh siêu thoát, chẳng phải vì ông không biết sự quan trọng của vấn đề ấy, mà vì ông muốn đem 12 Hermann de Keyrerling cũng nhận rằng: Kong-Tseu et Lao-Tseu représentent les pôles opposées de la Perfection possible: - le premier, la perfection dans les phénomènes, - le deuxième, la perfection dans le Sens; l un, la perfection dans le formé, l autre, dans le non-formé; par conséquent on ne peut les mesurer avec la même mesure. Voyage d un Philosophe (Tome II) Stock Paris (1948) (p.131). [Xem lời dịch đoạn trích dẫn này trong phần III, tiết B: Lão học và Khổng học. (Goldfish)].

17 Đạo vào chánh trị, mục đích duy nhất của ông trong khi trƣớc tác. Cho nên, có ngƣời khuyên ta nên đọc Trang trƣớc Lão sau, thiết nghĩ cũng không phải là không có lý do chánh đáng. Ngƣời muốn áp dụng đƣợc phƣơng pháp Vô vi nhi trị hay Dĩ bất trị, trị thiên hạ cần phải trƣớc nhất thực hiện đƣợc ít nhiều cái Đạo nơi mình, nghĩa là cần phải là một bậc chân nhân vô kỷ, vô công, vô danh tức là ngƣời không còn tƣ tâm tƣ dục nữa. Đọc Trang trƣớc Lão sau, tức là thực hiện Đạo theo từng giai đoạn: tự giác nhi giác tha. Hai học thuyết ấy bổ túc cho nhau. Trƣớc phải thoát tục rồi sau mới hoàn tục để mà cứu dân cứu nƣớc. Dù là Thích Ca hay Jesus cũng không làm khác hơn. A. Đạo là gì? Có lẽ Lão Tử là ngƣời đầu tiên trong các triết gia Trung Quốc đã dùng chữ Đạo 道 để chỉ cái nguyên lý tuyệt đối của Vũ Trụ đã có từ trƣớc khi khai thiên lập địa, không sinh, không diệt, không tăng, không giảm. Đạo có thể quan niệm dƣới hai phƣơng diện: Vô 無 và Hữu 有. Vô, thì Đạo là nguyên lý của trời Đất, nguyên lý vô hình. Hữu, thì Đạo là nguyên lý hữu hình, là Mẹ sinh ra vạn vật: Vô danh thiên Địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu ( 無名天地之始, 有名萬物之母 ). Đạo, là một nguyên lý hoàn toàn huyền diệu siêu hình và bất khả tƣ nghị. Ngƣời ta không thể định danh nó, cho nên gƣợng mà dùng đến danh từ ấy để tạm chỉ định. Hễ dùng đến danh từ để chỉ định, tức là vật đƣợc chỉ định đã bị hạn định, cho nên dùng đến danh, là chỉ để áp dụng cho những phần tử của Đạo bị phá ra mà thôi. Nghĩa là chỉ để ám chỉ một khía cạnh nào, một bề mặt hay bề trái nào của cái Đạo Một, cái Đạo không thể phân chia. Cho nên muốn được Đạo, không còn thể dùng đến Lý trí, hiểu biết bằng sự so sánh, mà chỉ có thể hiểu biết đƣợc khi nào chính mình thực hiện đƣợc nó nơi bản thân: Đạo mà nói ra được, không còn phải là Đạo thường nữa, Danh mà gọi ra được, không còn phải là Danh thường nữa ( 道可道非常道, 名可名非常名 ) (chƣơng 1). Nhƣ vậy, định cho Sự vật một cái tên ( 名 ) đó chỉ làm cho ta lìa xa với cái chân diện mục 真面目 của chúng, tức là cái Chân lý toàn diện của sự vật. Trong giới sắc tƣớng, thẩy đều biến động không dừng, không có sự vật nào mà không thay đổi hoặc mau hoặc chậm. Hay nói một cách khác, sự vật là vô thường 無常. Bởi vậy hạn định nó trong một danh từ tịnh là sai. Ở đây ta thấy Lão Tử chống lại với thuyết chính danh của Khổng Tử, và đề xƣớng thuyết Vô danh. Nghĩa là Lão Tử quan niệm sự vật trong đời theo sự thực hiện của sự vật, nghĩa là cái nhân sinh quan của ông là nhân sinh quan động (dynamique), không còn phải là nhân sinh quan tịnh (statique) nữa. Không có một danh từ nào, không có một ý tƣởng nào, cũng không có một sự phán đoán về giá trị nào mà có thể gọi là Tuyệt đối cả. Thảy đều tƣơng đối, nghĩa là bao giờ cũng có phần đối đãi của nó, tốt và xấu, thiện và ác, thị và phi, dài và ngắn, cao và thấp...

18 Hữu vô tương sanh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thinh tương hòa, tiền hậu tương tùy ( 有無相生, 難易相成, 長短相形, 高下相傾, 音聲相和, 前後相隨 ) (chƣơng 2) 13. Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ ( 天下皆知美之為美, 斯惡已 ; 皆知善之為善, 斯不善已 ). (Thiên hạ đều biết tốt là tốt, thì đã có xấu rồi. Đều biết lành là lành, thì đã có cái chẳng lành rồi). Cặp tƣơng đối ấy luôn luôn nằm sẵn trong mọi sự mọi vật, và bất cứ trong đời sống ta lúc nào cũng thấy nó hiện lên và thƣờng gây cho lòng ta nhiều tranh chấp vì mâu thuẫn. Ta há không nhận thấy rằng lòng ta là cả một cái gì mâu thuẫn hay sao? Vừa thƣơng mà cũng vừa không thƣơng, vì trong thâm tâm ta cảm thấy mất tự do khi bắt đầu yêu ai một cách tha thiết. Biết bao lần khi lòng thì thuận, mà miệng thì chối từ, hoặc miệng thì ừ, mà lòng không thuận! Cái gì đã khiến cho ta vừa cƣời vừa khóc, và tiếng khóc tiếng cƣời thƣờng lại giống nhau?... Phải chăng vì cảm xúc của ta mà lên đến cực độ lại càng giống nhau không thể phân biệt, nhất là trong sự yêu ghét! Thƣơng nhau lắm, cắn nhau đau : tình yêu tha thiết thƣờng lại dƣờng nhƣ giống với sự oán thù! Cho nên mới nói: ghét là cái bề trái của cái thƣơng và thƣơng ghét, tựu trung là một. Đời sống nội tâm của con ngƣời khi Đạo bị chia lìa là một bầu mâu thuẫn, và vì thế Sống là khổ, bởi thƣơng là khổ mà ghét cũng khổ. Và chỉ khi nào lòng ta không còn chia rẽ nữa, trở về sống đƣợc trong cái Sống Một, thì mới mong giải quyết đƣợc vấn đề phân chia Nhĩ Ngã. Cho nên, đó là cái học chạy theo thị phi, thiện ác, cái học chi li phân tán, cái học nhị nguyên, cái học mà ngƣời muốn trở về với Đạo phải vứt bỏ. Chƣơng 20 có viết: Tuyệt học vô ưu, duy chi dữ a, tương khứ kỷ hà? Thiện chi dữ ác, tương khứ nhược hà? ( 絕學無憂, 唯之與阿, 相去幾何? 善之與惡, 相去若何?) 14. Lão Tử khuyên ta, nếu muốn đƣợc Đạo, đừng có nhìn sự vật bằng cập mắt nhị nguyên chia phân nhĩ ngã, mà phải nhìn thấy thẩy đều là Một. Con ngƣời mà càng chạy theo cái học phân tán sẽ bị tâm hồn rối loạn vì hay phân biệt và biện biệt. Cũng vì nhìn đời với cập mắt nhị nguyên nên gặp phúc thì mừng, gập họa thì buồn, mà không hay rằng phúc đấy họa đấy cũng không chừng, hay họa đấy phúc đấy cũng biết đâu! Họa hề phúc chi sở ỷ, phúc hề học chi sở phục) ( 禍兮福之所倚, 福兮禍之所伏 ) 15 (Chƣơng 58). Ôi! Phúc rồi họa, họa rồi phúc... sự vật bao giờ cũng phản biến. Nghĩa là hễ biến, thì biến thành cái đối đích của nó. Tục ngữ của dân gian có câu: Nay cười, mai khóc. Và có nhận rõ đƣợc cái luật phản biến ấy của sự vật trên đời, thì được không nên vội mừng, mất không nên vội buồn... Nhờ vậy mà lòng mới bình tĩnh thản nhiên trƣớc mọi biến cố của cuộc đời. 13 Có không cùng sanh, khó dễ cùng thành, ngắn dài cùng sánh, cao thấp cùng chiều, giọng tiếng cùng hoạ, trƣớc sau cùng theo. 14 Dứt học, không lo. Dạ và ơi khác nhau chỗ nào? Làng với dữ khác nhau ở đâu? 15 Hoạ là chỗ dựa của Phúc, Phúc là chỗ dựa của Hoạ.

19 Cái mà Lão Tử chống đối là sự nhìn cuộc đời bằng Lý Trí, tức là nhìn cuộc đời bằng khối óc chia phân Thiện Ác, Vinh Nhục, Thị Phi, Cao Thấp... Cho nên, muốn đƣợc Đạo, muốn có hạnh phúc thật sự, phải bỏ cái óc chia phân sự vật, mà Lão Tử gọi là giải kỳ phân ( 解其分 ) để mà thấy đƣợc sự huyền đồng ( 玄同 ) của tất cả sự vật. Cái lập trƣờng chống Lý trí của Lão Tử, là do nơi kinh nghiệm thuần túy tâm linh của ông. Tri thức không bao giờ đạt đến cái lẽ Tuyệt đối. Nguyên lý cùng tột của Vũ trụ Vạn Vật, tức là Đạo. Cho nên, những kẻ dùng đến Trí để mà hiểu Đạo là ngƣời Ngông. Đó là ông chống đối cái học la tập, cái học chủ Trí của ngƣời đời. Bậc Thánh nhân sở dĩ đạt đến trạng thái Tuyệt đối chỉ vì nhờ biết rõ mình là kẻ mắc cái bệnh nhị nguyên, cái bệnh phân tán, nên phòng ngừa mà tỉnh ngộ: Phù duy bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh 16 ( 夫唯病病, 是以不病 ) (chƣơng 71). Phƣơng pháp giải thoát, theo Lão Tử, là phƣơng pháp tiêu cực: đừng sa vào cái tập niệm nhị nguyên, tức là gần đƣợc với Đạo rồi đấy. Và nhƣ vậy, cái mà theo Lão Tử gọi là cái học cao nhất lại giống nhƣ sự ngu dốt. Chƣơng 45 ông nói: Đại trực nhược khuất, đại xảo nhược chuyết, đại biện nhược nột ( 大直若屈, 大巧若拙, 大辯若訥 ) 17. Hai chữ dường như cần phải nên chú ý. Dùng lời nói danh từ của giới nhị nguyên để diễn tả cái mà ta không thể phân chia (là Đạo) thật là một việc rất khó. Bởi vậy, Lão Tử thƣờng phải mƣợn lối nghịch thuyết để nói về chân lý. Nhƣ khi ông nói: Hữu sinh ƣ Vô 有生於無 18 hoặc đại thành nhƣợc khuyết 大成若缺 19, đại doanh nhƣợc xung 大盈若沖 20. Và đây là lối mà các đại triết gia biện chứng Tây Phƣơng cũng thƣờng dùng để miêu tả cái chân lý động và trở nên không phút nào im lặng, nhƣ Heraclite (Hy Lạp), trong câu: Những cuộc đại thắng là những cuộc đại bại 21. Câu đại doanh nhược xung (đầy tràn, lại dƣờng nhƣ trống không) là chỗ mà Lão Tử muốn bảo Đạo trùm lắp Trời Đất Vũ Trụ, nhƣng không làm sao thấy đƣợc, nên gần nhƣ không có gì cả. Để diễn tả cái chỗ không không đó và công dụng của nó, ở chƣơng 11, ông ví nó nhƣ cái ổ trục của bánh xe, cái khoảng không của chén bát, cái chỗ trống của buồng the: Tam thập phúc, cộng nhất cốc, đương kỳ vô, hữu xa chi dụng. Duyên thực dĩ vi khí, đương kỳ vô, hữu khí chi dụng. Tạc hộ dĩ vi thất, đương kỳ vô, hữu thất chi dụng ( 三十輻, 共一轂, 當其無, 有車之用. 埏埴以為器, 當其無, 有器之用. 鑿戶牖以為室, 當其無, 有室之用. 故有之以為利, 無之以為用 ) Biết đó là bệnh, thì không bệnh nữa. 17 Rất thẳng dƣờng nhƣ cong, rất khéo dƣờng nhƣ vụng; rất hùng biện dƣờng nhƣ ấp úng (Chƣơng 45). 18 Có sinh nơi không. 19 Thành tựu mỹ mãn dƣờng nhƣ dở dang. 20 Đầy tràn dƣờng nhƣ trống không (Chƣơng 45) 21 Les plus grandes victoires sont, en même temps, les plus grandes défaites (Héraclite). 22 Ba chục căm, hợp lại một bầu, nhƣng nhờ chỗ không mới có cái dùng của xe. Nhồi đất để làm chén bát, nhờ chỗ không mới có cái dùng của chén bát. Khoét cửa nẻo, làm buồng the, nhờ chỗ không mới có cái dùng của buồng the (XI).

20 Đạo, thì hƣ vô, nhƣng mà cái Đức của nó thì là nguồn gốc sinh ra trời đất vạn vật. Chữ Đức 德 ở đây có nghĩa là mầm sống ngấm ngầm theo nguyên nghĩa của nó, chứ không còn phải với cái nghĩa luân lý thông thƣờng nữa. Thật vậy, ông nói: Khổng Đức chi dung, duy Đạo thị tùng (Dáng của Đức lớn, thì theo cùng với Đạo) 孔德之容, 惟道是從. 23 Một chỗ khác, ông nói: Đạo sinh chi, Đức súc chi, trưởng chi dục chi, đình chi độc chi, dưỡng chi phúc chi... 道生之, 德畜之, 長之育之, 亭之毒之, 養之, 覆之 24 Đạo thì sinh mà Đức thì nuôi nấng và đùm bọc. Bởi vậy mới thƣờng gọi là Huyền tẫn 玄牝 (mẹ nhiệm mầu). B. Cái Động của Đạo Trời đất vạn vật do Đạo mà ra, nhƣng rồi đều trở về với Đạo. Chƣơng 40 ông nói: Phản giả đạo chi Động 反者道之動 (Trở lại là cái động của Đạo). Đó là con đƣờng đi về. Còn con đƣờng đi ra thì Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị, Nhị sinh Tam, Tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ Âm nhi bảo Dương. Xung khí dĩ vi hòa 道生一, 一生二, 二生三, 三生萬物. 萬物負陰而抱陽, 沖氣以為和 25 (Đạo sinh Một, Một sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinh vạn vật. Trong vạn vật không vật nào mà không cõng Âm và bồng Dương. Nhân chỗ xung nhau mà hòa nhau). Nhất đây, là cái thể duy nhất của Đạo. Nhị, là trỏ vào hai khí âm dƣơng, tức là hai nguyên lý mâu thuẫn nhau, nhƣng bổ túc nhau đồng có ở trong mỗi vật, và vì thế mới có nói trong vạn vật không vật nào không cõng âm và bồng dương. Giữa sự xô xát, xung đột nhau của hai nguyên lý mâu thuẫn ấy, lại có Một cái nắm giềng mối và làm cho nó phải sống chung và dung hòa với nhau mà không thủ tiêu nhau, cái đó là nguyên lý thứ ba; cái mà Lão Tử gọi là cái Dụng của Đạo. Xung khí dĩ vi hòa ( 沖氣以為和 ). Tức là cái nguyên lý làm cho cái khí xung đột giữa hai nguyên lý mâu thuẫn kia điều hòa với nhau. Đến khi đƣợc cái số Ba đó, thì vạn vật mới thành hình, nên mới gọi là Tam, sinh vạn vật ( 三, 生萬物 ). Nhƣ vậy, ta thấy rằng Lão Tử có thể đã căn cứ vào Dịch học: Thái cực sinh lưỡng nghi để lập thành cái học Nhất sinh Nhị của ông. Nhƣng ông chỉ mƣợn cái Đạo đi ra của 23 Chƣơng 21. (Goldfish). 24 Đạo sinh đó, Đức nuôi đó, cấp dƣỡng đó, nuôi nấng đó, đùm bọc đó, bồi sức đó, dƣỡng nuôi đó, che chỡ đó. [Chƣơng 51. (Goldfish)]. 25 Chƣơng 42. (Goldfish).

21 Dịch, vì Dịch chủ trƣơng Âm Dƣơng để diễn tả cái Đạo biến đổi mà thôi. Lão Tử nhân đó, bàn về cái đạo trở về (phản phục), nghĩa là ông vƣợt cái học nhị nguyên của Dịch để chủ trƣơng cái Đạo quy Chân phản Phác 歸真反樸. Theo Lão Tử, vạn vật đều động chuyển theo hai khuynh hƣớng nghịch nhau: Đi Ra, rồi Trở Về. Chƣơng 16 ông nói: Vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân, các phục quy kỳ căn... 萬物並作, 吾以觀復. 夫物芸芸, 各復歸其根 (Vạn vật cùng đều sinh ra, ta lại thấy nó trở về gốc; ôi, mọi vật trùng trùng, đều trở về cội rễ của nó). Mà trở về cội rễ, tức là trở về gốc Tịnh của nó (tức là trở về với Vô Vi): Quy căn viết Tịnh, thị vị viết Phục Mạng, Phục Mạng viết Thường 歸根曰靜, 是謂復命. 復命曰常. Trở về cội rễ, gọi là Tịnh, ấy gọi là Phục Mạng. Mà Phục Mạng gọi là Thường. Thường 常 tức là Đạo 道 vậy. Nhân quan niệm về chữ Thường, tức là một cái gì bất di bất dịch nắm cả giềng mối Vạn Vật Vũ Trụ, nên Lão Tử mới nghĩ đến một cái gì nhƣ là một thứ Định Mạng trong sắc giới: Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất 天網恢恢, 疏而不失 26. Lƣới trời lồng lộng, tuy thƣa mà chẳng lọt. Lƣới trời, tức là cái luật tự nhiên mà không vật nào trong Vũ Trụ thoát khỏi. Thiên Đạo vô thân 天道無親 Đạo trời không thân ai cả (Chƣơng 79). Trong tất cả các luật của Tạo Hóa, thì cái luật lớn nhất và quan trọng nhất là luật Phản Phục 反復 : hễ: Vật cùng tắc phản, Vật cực tắc biến... Chƣơng 25 nói: Thệ viết viễn, viễn viết phản ( 逝曰遠, 遠曰反 ). Nghĩa là mỗi vật, khi mà đi đến cực độ thì phải biến; mà biến, thì lại biến trở về cái đối đích của nó. Phải biến Quấy, Nên biến Hƣ, Sống biến Chết, Lạnh biến Nóng, Vinh biến Nhục, Thiện biến Ác... hoặc trái ngƣợc lại. Đó là một cái luật Thường 常, bất di bất dịch của Tạo Hóa: Cái gì lên cao, thì xuống thấp. Cho nên hòng muốn thu rút, là sắp mở rộng đó ra, hòng muốn làm yếu đó, là sắp làm đó mạnh lên, hòng muốn vứt bỏ đó, là sắp làm hƣng khởi đó, hòng muốn cƣớp đoạt đó, là sắp ban thêm cho đó. Ấy là ánh sáng huyền vi, mềm yếu thắng cứng mạnh 將欲歙之, 必固張之. 將欲弱之. 必固強之. 將欲廢之, 必固興之. 將欲奪之, 必固與之. 是謂微明. 柔弱勝剛強 (Tương dục hấp chi, tất cố trương chi. Tương dục nhược chi, tất cố cường chi. Tương dục phế chi, tất cố hưng chi. Tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi. Thị vị vi minh, nhu nhược thắng cương cường) (chƣơng 36). Tóm lại, những câu nhƣ: Ít thì lại được, nhiều thì lại mê 少則得, 多則惑 (thiểu tắc đắc, đa tắc hoặc) (Chƣơng 22); Gió lốc không thổi suốt một buổi mai. Mưa dào, không mưa suốt một ngày trường.. 飄風不終朝, 驟雨不終日 (Phiêu phong bất chung triêu, 26 Chƣơng 73. (Goldfish).

22 sậu vũ bất chung nhật) (Chƣơng 23); Cái rất mềm của thiên hạ, thắng cái rất cứng trong thiên hạ 天下之至柔馳騁天下之至堅 (Thiên hạ chi chí nhu, trì sính thiên hạ chi chí kiên). (Chƣơng 43); Bớt là thêm, thêm là bớt 損之而益, 益之而損 (Tổn chi nhi ích, ích chi nhi tổn) (chƣơng 42) đều là do cái luật Phản Phục 反復 mà ra cả! Nhƣng đối với ngƣời thƣờng, thì lại thấy rất là trái ngƣợc, mâu thuẫn! Bởi vậy, ở chƣơng 41, Lão Tử mới nói: Hạ sĩ văn Đạo, đại tiếu chi 下士聞道大笑之. Kẻ sĩ bậc thấp mà nghe nói đến Đạo, sẽ cả cƣời mà bỏ qua! Tuy vậy, nếu bảo rằng vật cực tắc phản thì chữ cực 極 đây phải hiểu nhƣ thế nào? Đâu là chỗ cùng cực của mỗi vật? Không thấy Lão Tử bày giải chỗ nào cả. Không nói ra, có lẽ là vì Lão Tử hiểu rằng mọi vật, vật nào cũng có cái cùng tận của nó, không có một mực độ cùng tận nào có thể làm mực độ chung cho vạn sự vạn vật trong đời. Cho nên ông mới nói: Tri túc chi túc thường túc hĩ 知足之足常足矣 27. Biết đủ trong cái đủ, thì luôn luôn đủ. Cái gọi là đủ, không thể giống nhau đối với mọi ngƣời. Có khi cái mà ngƣời này thấy đủ, lại không đủ với ngƣời kia: hoàn cảnh, địa vị, sức khỏe, lớn nhỏ, thời buổi... đều khác nhau, không sao đƣa ra một số lƣợng nào gọi là số lƣợng mẫu và đầy đủ cho cho tất cả mọi ngƣời mọi vật. Cái đủ của ngƣời mạnh không giống với cái đủ của ngƣời yếu. Cái vừa đủ đối với ngƣời khỏe, không còn là cái vừa đủ nữa đối với ngƣời đau, và ngay đối với chính bản thân của mình cũng vậy, cái mà hôm nay cho là đủ, ngày mai sẽ là thiếu không chừng! Lấy ngay trong việc ăn uống cũng đủ thấy rõ: cái mà ta thƣờng gọi là món ăn vừa đủ cũng phải tùy... tùy tuổi tác, tùy sức khỏe, tùy chất bổ nhiều ít của món ăn, không sao nhất luật đặng. Đó là những cái mà Lão Tử gọi là Thƣờng 常, nghĩa là bất biến, và luôn luôn đúng với tất cả vạn vật. Cho nên ngƣời sáng suốt phải là ngƣời thông suốt những cái luật ấy mà tuân theo: Tri thường viết minh 知常曰明 (Kẻ nào biết những luật Thƣờng ấy là ngƣời sáng suốt). Và trái lại, kẻ nào không biết đến nó, sẽ bị tai họa suốt đời: Bất tri thường, vọng tác hung 不知常, 妄作凶. Không biết Đạo thƣờng ấy, là gây hung họa (cho mình). Cho nên ai mà đƣợc Đạo thƣờng ấy, suốt đời không nguy: một thân bất đãi 没身不殆 (Chƣơng 16). C. Huyền Đồng 玄同 Trong khi nói Đạo là mẹ nuôi của muôn loài: Hữu danh vạn vật chi mẫu 有名萬物之母, ta thấy hình ảnh của một Bà Mẹ là đầu mối của học thuyết Lão Tử, và 27 Chƣơng 46. (Goldfish).

23 Lão Học là là cái học chú trọng về phần Âm. Thiên hạ có nguồn gốc, dùng làm Mẹ của thiên hạ. Hễ giữ đƣợc Mẹ, thì biết đƣợc con. Đã biết đƣợc con, trở về với Mẹ: thân đến 28 chết không nguy 天下有始, 以為天下母. 即得其母. 以知其子, 即知其子, 復守其母, 沒身不殆 (Thiên hạ hữu thủy, dĩ vi thiên hạ mẫu. Ký đắc kỳ mẫu, dĩ tri kỳ tử. Ký tri kỳ tử, phục thủ ký mẫu. Một thân bất đãi) (Chƣơng 52). Đã biết được con, trở về với Mẹ, là nghĩa làm sao? Con đây là ám chỉ vạn vật. Sau khi cái học của mình về cái học trục vật mà đi đến cùng tột rồi thì con ngƣời lại trở về với Đạo ( 復守其母 ). Cũng nhƣ văn minh vật chất mà đến mức tột cùngt rồi, bèn sẽ xoay về tinh thần. Bởi vậy mới có ngƣời bảo rằng cái học nguyên tử ngày nay của Tây Phƣơng trở lại gặp gỡ với Huyền học của Đông phƣơng. Vấn đề đồng nhất của Tâm và Vật, Vật chất và Tinh thần... trƣớc những phát minh về nguyên tử lực không còn phải là một vấn đề siêu hình nan giải nữa 29. Cái số kiếp con ngƣời, cũng nhƣ của vạn vật là sớm muộn phải trở về với Đạo : các phục quy kỳ căn 各復歸其根 (mọi vật trùng trùng, đều trở về với cội rễ của nó cả). Trở về đƣợc với Đạo, thì ngƣời ta mới đƣợc trƣờng cửu, hay nói một cách khác, ngƣời ta mới thực hiện đƣợc cái Chân Tánh của mình, tức là cái mà Lão Tử gọi Tử nhi bất vong 死而不亡 (Ch.33). Nhƣng làm sao thực hiện đƣợc sự Huyền Đồng ấy với Đạo? Phải kiến tố, bảo phác, và thiểu tƣ, quả dục, nghĩa là trở về với đời sống giản dị tự nhiên, ít tƣ riêng, ít tham dục. Công việc này chỉ là bƣớc đƣờng đầu: con đƣờng tâm trai, gột sạch lòng vị kỷ đủ mọi phƣơng diện: Vi Đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn, dĩ chí ƣ Vô Vi 為道日損, 損之又損, 以至於無為 (48) (Theo Đạo, càng ngày ngày càng bớt. Bớt rồi lại bớt, đến mức vô vi). Vô Vi đây là vô dục vậy. Phải dứt bỏ: dứt bỏ cả lề lối suy tƣ theo la tập nhị nguyên, dứt bỏ cả lòng ham muốn riêng tƣ, dứt bỏ cả cái học trục vật, chạy theo danh lợi bên ngoài... Dứt bỏ cả cái lòng đèo bòng tham muốn theo những tánh phận bên ngoài... Tóm lại, phải dứt bỏ cái ta nhân tạo, giả dối để trở về với cái ta đồng nhất với Đạo, trở về thanh tĩnh và vô vi. Khi mà giai đoạn đầu này đƣợc thực hiện đầy đủ, thì mới bƣớc qua giai đoạn ngộ Đạo. Hễ trí hư cực, thủ tĩnh đốc 致虛極, 守靜篤 30. Bấy giờ mới có thể hoát nhiên đại ngộ! 豁然大悟. 28 Chữ 即 này (cả câu có hai chữ), Thiều Chửu phiên âm là tức chứ không phải ký ( 既 ). Trên trang ta thấy chép cả hai chữ 既 (trong nguyên văn) lẫn hai chữ 即 (trong phiên dịch). (Goldfish). 29 La matière est moins matérielle et l'esprit moins spirituel qu'on le suppose généralement. La séparation habituelle de la physique et de la psychologie, de l'esprit et de la matière est métaphysiquement indéfendable. B. Russel (Philosophie de la Matière). Xem bài Sience et Spiritualité của R. Linssen (France-Asie số 76 9/1952). [Chữ moins trong La matière est moins matérielle do tôi thêm vào. (Goldfish)]. 30 Chƣơng 16. (Goldfish)

24 Lão Tử không thấy nói về giai đoạn này, vì ông cho rằng tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri 知者不言, 言者不知 nhƣng ông chỉ cho ta biết rằng trong cái trạng thái huyền đồng ấy, tất cả mọi sự mọi vật đều hòa lẫn nhau không còn thấy riêng tƣ, phân biệt nữa. Trƣớc con mắt của ngƣời đã thực hiện đƣợc sự huyền đồng, thì tất cả đều là Một. Giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần - thị vị Huyền Đồng 解其紛, 和其光, 同其塵. 是謂玄同 31 (Bỏ chia phân, hòa ánh sáng, đồng bụi bậm, ấy gọi là Huyền Đồng). Trong những câu nhƣ: Đại phương vô ngung, đại khí vãn thành,đại âm hi thanh, đại tượng vô hình 大方無隅, 大器晚成, 大音希聲 ; 大象無形 (Vuông lớn, không góc; chậu lớn muộn thành; âm lớn, ít tiếng; tƣợng lớn, không hình) (Ch.41); hoặc: kỳ thƣợng bất kiểu, kỳ hạ bất muội vô vật chi tƣợng, thị vị hốt hoảng nghinh chi bất kiến kỳ thủ, tùy chi bất kiến kỳ hậu vân vân đều là những chân lý mà ông gƣợng miêu tả trong những khi huyền hóa, tức là những lúc ông kiến độc và tiêu triệt. Sự huyền đồng với Đạo mƣu cho con ngƣời đƣợc một sự yên tĩnh và khoan khoái tâm hồn mà không còn có một khoái lạc nào khác trên đời so sánh kịp... Không phải là một thứ vui sƣớng, nhƣng là một cái gì nhẹ nhàng lâng lâng khác thƣờng mà chỉ có ai đã nếm qua mới ý thức đƣợc đôi phần. Đạo chi xuất khẩu đạm hồ ký vô vị. Thị chi bất túc kiến, thính chi bất túc văn, dụng chi bất túc ký 道之出口, 淡乎其無味, 視之不足見, 聽之不足聞, 用之不足既 (Đạo ra cửa miệng, lạt lẽo vô vị, nhìn không đủ thấy, lắng không đủ nghe, nhƣng mà dùng nó không hết) (Ch.35). Mùi vị của Đạo, đối với những khoái lạc nồng nhiệt trong đời, thì thấy nhƣ là lạt lẽo vô vị, nhìn không đủ thấy, lắng không đủ nghe, nghĩa là không thể nào tả đƣợc. Sự huyền đồng với Đạo có đem lại cho con ngƣời quyền lực nào chăng? Có làm cho ngƣời đƣợc pháp lực phi thƣờng nào không? Đó là thắc mắc của số đông ngƣời học Lão Trang tự hỏi. Bởi vậy, về sau để trả lời câu hỏi ấy, nhóm Đạo gia mới bày ra những câu chuyện Thần Tiên, trong đó Lão Tử đƣợc tôn làm Thái Thƣợng Lão Quân, và Trang Tử đƣợc tôn làm Nam Hoa Đại Lão Chân Tiên. Thực ra vấn đề này không thấy Lão Tử bàn đến, ngƣời ta chỉ biết Lão Tử đặt kẻ đắc đạo nhƣ một đứa anh nhi tuy không làm gì cả mà độc trùng không cắn được, thú dữ không ăn được, ác điểu không xớt được 含德之厚, 比於赤子. 毒蟲不螫, 猛獸不據, 攫鳥不搏 (Ch.55). Toàn là những lời nói bóng mà ta phải hiểu nhƣ thế này: ngƣời đã đƣợc Đạo, giống cái đức của trẻ sơ sinh kẻ mà đức dày giống như con nhỏ 含德之厚 比於赤子. Chữ xích tử đây là ám chỉ cái tâm trạng của đứa trẻ sơ sinh, không dục vọng, bình thản đối với ngoại vật, nên ngoại vật không động đƣợc tâm và làm thƣơng sinh. Cho nên mới nói độc trùng không cắn được Chƣơng 56. (Goldfish) 其上不皦, 其下不昧 : trên nó thì không sáng, dƣới nó thì không tối. (Ch.14) 無物之象, 是謂惚恍 : cái hình tƣợng của cái không có vật, nên gọi là tợ hữu tợ vô (nhƣ có mà nhƣ không). 34 迎之不見其首, 隨之不見其後 : Đón thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi. (Ch.14)

25 Những danh từ hƣ ảo, mập mờ ấy khiến ngƣời ta hiểu lầm và cho là quyền phép lạ lùng, nhân đó mới có việc tin tƣởng bâng quơ sau này của phái thần tiên... Tuy vậy, kẻ huyền đồng đƣợc với Đạo, dù không biết đƣợc họ có quyền lực gì khác ngƣời chăng, song chắc chắn họ sẽ không giống ngƣời đời, từ tƣ tƣởng, tình cảm và hành vi. Và chắc chắn họ là ngƣời không còn đau khổ nữa, vì chỉ có Bản Ngã mới là nguồn gốc của đau khổ mà thôi. Mà kẻ huyền đồng với Đạo là ngƣời không còn sống cho mình nữa! Làm cách nào để nhận biết một ngƣời đã bắt chƣớc Đạo? Đã theo con đƣờng của Đạo? Lão Tử nói: Lời nói của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm. Thế mà, thiên hạ không ai hiểu, không ai làm 吾言甚易知, 甚易行. 天下莫能知, 莫能行 35 (70). Tại sao dễ hiểu, dễ làm mà thiên hạ phần đông lại không chịu hiểu, không chịu làm? Phải chăng vì làm theo Đạo, thì lại chạm đến lòng vị kỷủa mình, nên không ai muốn làm? Theo Đạo thì phải biết dừng, biết đủ, mà lòng vị kỷ thì không biết sao dừng đƣợc dù Lão Tử thƣờng căn dặn họa mạc đại ư bất tri túc! 禍莫大於不知足! 36 Cho nên theo Đạo, khó! Theo Đạo thì phải biết làm mà không cậy công, công thành rồi không nên ở lại, không để cho ai thấy cái tài hiền của mình. (Vi nhi bất thị, công thành nhi bất xử, bất dục kiến hiền). Mà tình đời thì làm ít lại muốn hƣởng nhiều, chỉ sợ ngƣời khác không biết ân, cho nên làm 1 mà kể công 10, công thành rồi thì ở mà hƣởng, hƣởng đến đời con, đời cháu cũng chƣa vừa lòng, suốt đời chỉ lo sợ không ai biết đến tài hay trí cả của mình! Cho nên theo Đạo càng khó! Theo Đạo thì phải như cây cung mà giương lên: chỗ cao thì ép xuống, chỗ thấp thì nâng lên (có dư thì bớt đi, không đủ thì bù vào). Bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu. 天之道其猶張弓與 : 高者抑之, 下者擧之. 有餘者損之, 不足者補之. 天之道損有餘而補不足 37 (Ch.77). Nhƣng mà lòng của nhân thế thì sao? Đạo của người thì không vậy, bớt chỗ thiếu, bù chỗ dư! ( 人之道則不然, 損不足以奉有餘 38 ). Thƣờng hay vị thân, vị kỷ, kết phe với kẻ đắc thời, cầu thân với ngƣời đắc thế... để dựa vào đó mà bóc lột, lợi dụng những kẻ vô cô, bất hạnh! Cho nên theo Đạo rất khó! Theo Đạo, thì phải hạ mình, làm kẻ thấp, sống trong bóng tối, không tự xem mình là sáng... không tự cho mình là phải... không tự hào và khoe khoang 不自見 不自是 35 Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. Thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành. (Ch.70). 36 Chƣơng 46. (Goldfish) 37 Thiên chi đạo kỳ do trƣơng cung dữ: Cao giả ức chi, hạ giả cử chi. Hữu dƣ giả tổn chi, bất túc giả bổ chi. Thiên chi đạo tổn hữu dƣ nhi bổ bất túc. (Goldfish). 38 Nhân chi đạo tắc bất nhiên, tổn bất túc dĩ phụng hữu dƣ. (Ch.77). (Goldfish).

26 不自伐 不自矜 39 (Ch.22), nhƣ vậy, thì cái lòng hiếu danh chỉ suốt đời nơm nớp sợ không ai biết đến tên tuổi của mình và mong mỏi đƣợc lƣu danh ƣ hậu thế, muốn cho ai ai cũng phải thờ kính và phục tùng theo cái lẽ phải của mình vì đời đục cả, một mình ta trong, đời say cả, một mình ta tỉnh phải dựa vào đâu mà tồn tại? Cho nên theo Đạo thật là vô cùng khó vậy! Lại nữa, theo Đạo phải biết dĩ đức báo oán 以徳報怨 (Ch.63), và phải biết với kẻ lành, thì lấy lành mà ở, với kẻ chẳng lành, cũng lấy lành mà ở, với kẻ thành tín, thì lấy thành tín mà ở, với kẻ không thành tín, thì cũng lấy thành tín mà ở 善者吾善之, 不善者吾亦善之 ( ) 信者吾信之, 不信者吾亦信之 40 (Ch.49)- nhƣ vậy, thì làm sao mà hả đƣợc cái lòng căm thù của mình, và ít ra, nếu ngƣời ta móc mình một con mắt thì mình cũng phải biết nằm gai nếm mật để ân thì đền, mà oán phải trả, móc họ lại một con mắt mới hợp Công Bình chứ! Vậy thì, theo Đạo, quả là không thể nào làm đƣợc, đừng nói là khó làm! Tóm lại, Đạo của Lão Tử không có gì là khó hiểu, khó làm... Ngƣời ta sở dĩ không chịu hiểu, không chịu làm, là vì tâm hồn con ngƣời quá hẹp hòi ích kỷ. Và vì vậy mà từ xƣa đến nay, tiếng nói của ông, tuy xét theo Lý thì rất xác đáng, mà theo Tình thì không mấy ai chịu làm theo! Cho nên Thích Ca mới bảo: Đời là bể khổ!, mà Lão Tử cũng đã phải than: ----Người đời vui vẻ, ----Như hưởng thái lao, ----Như lên xuân đài, ----Riêng ta im lặng, ----Chẳng dấu vết chi, ----Như trẻ sơ sinh, ----Chưa biết tươi cười, ----Rũ rượi mà đi, ----Đi không chỗ về, ----Người đời có dư, ----Riêng ta thiếu thốn, ----Lòng ta ngu dốt vậy thay, ----Mỏi mệt chừ! Người đời phân biện, ----Riêng ta hỗn độn, ----Điềm tĩnh dường tối tăm, ----Vùn vụt dường không lặng, ----Người đời đều có chỗ dùng, ----Riêng ta ngu dốt, thô lậu, ----Ta riêng khác người đời (Chƣơng 20) 39 Bất tự hiện (kiến) bất tự thị bất tự phạt bất tự căng ). (Goldfish). 40 Thiện giả ngô thiện chi, bất thiện giả ngô diệc thiện chi ( ). Tín giả ngô tín chi, bất tín giả ngô diệc tín chi. (Goldfish). 41 Có lẽ sách in thiếu 2 câu, sau câu này: Người đời sáng chói, Riêng ta mịt mờ. (Goldfish).

27 D. Chính trị Nhƣ đã nói trƣớc đây, Đạo Đức Kinh sở dĩ viết ra là để cho những nhà trị nƣớc, hay những kẻ sắp ra cầm quyền trị nƣớc. Có lẽ vì mục kích hỗn trạng cực kỳ thê thảm thời Xuân Thu, Chiến Quốc mà Lão Tử, cũng nhƣ Khổng Tử, Mặc Tử cùng các Pháp gia thời ấy, cố ý đƣa ra một giải pháp an bang tế thế. Thật vậy, ông nói: dân chi cơ, dĩ kỳ thượng thực thuế chi đa, dân chi nan trị, dĩ kỳ thượng chi hữu vi; dân chi kkinh tử, dĩ kỳ cầu sinh chi hậu ( 民之飢, 以其上食稅之多, 民之難治, 以其上之有為, 民之輕死, 以其求生之厚 ) (Ch.75). Dân mà đói, là vì trên bắt thuế nhiều..., dân mà khó trị, là vì trên dùng đạo hữu vi..., dân mà coi thƣờng cái chết, vì quá trọng cầu cái sống). Bởi vậy, dù có đem cái chết mà dọa dân chúng, cũng không ích gì cả, trong khi dồn họ vào nơi tuyệt vọng... ( 民不畏死, 奈何以死懼之?) dân chi úy tử, nại hà dĩ tử cụ chi. (Dân không sợ chết, làm sao lấy chết dọa đó!) (Ch.74). Nhƣ vậy, ta thấy trị nƣớc, Lão Tử chống lại với những hình phạt tru lục của Pháp gia thời đó. Ham sống, sợ chết là thiên tính của loài ngƣời. Nhƣng làm cho dân không sợ chết nữa, là vì đã quá dùng cái chết mà sát phạt nó. Đó là một chân lý, dù mới xem dƣờng nhƣ là trái ngƣợc với lẽ thƣờng. Trong những chế độ hà khắc bạo ngƣợc, hay dùng đến cực hình, dân chúng hàng ngày thƣờng sống trong cảnh không có ngày mai... Thét rồi, họ không còn sợ chết nữa. Dân mà không còn sợ chết nữa, thì dùng cái chết mà dọa chúng có ích gì? Các nhà xã hội học ngày nay cũng chứng nhận rằng: cực hình càng tăng, số tội ác càng thêm! Thời Chiến Quốc, giặc giã liên miên, ngƣời ta chết, thây nằm chật đất, bởi vậy, không có tai họa nào lớn trong đời bằng cái họa chiến tranh. Cho nên ông khuyên: Kẻ lấy Đạo thờ vua không nên dùng đến binh mà bức thiên hạ 以道佐人主者, 不以兵強天下 42 (Ch.30) Đối với những tai họa đã kể trên, ngƣời trị nƣớc phải làm cách nào? Đồng ý với Khổng Tử, Lão Tử cũng chủ trƣơng cần phải có một bậc Hiền để cầm quyền thiên hạ. Nhƣng ngƣời cầm quyền trị nƣớc, theo Khổng thì có khác với ngƣời cầm quyền trị nƣớc theo Lão. Trong khi theo Khổng thì ngƣời trị nƣớc phải hành theo Đạo hữu vi, nghĩa là chế Lễ, tác Nhạc và làm rất nhiều... còn bậc trị nƣớc theo Lão, trái lại, càng làm ít càng hay, và không làm gì cả lại càng tốt hơn! Là vì, theo Lão Tử: việc đời mà đa đoan, việc ngƣời mà rối rắm, chẳng phải vì những việc ngƣời ta đã lo cho đời quá ít, mà chính vì những việc mà ngƣời ta đã lo cho đời quá nhiều. 42 Dĩ đạo tá nhân chủ giả, bất dĩ binh cƣờng thiên hạ. (Goldfish).

28 Ông nói: thiên hạ đa kỵ húy, nhi dân di bần. Dân đa lợi khí, quốc gia tư hôn. Nhân đa kỹ xảo, kỳ vật tư khởi. Pháp lệnh tư chương, đạo tặc đa hữu ( 天下多忌諱而民彌貧, 民多利器國家滋昏. 人多伎巧, 其物滋起 ; 法令滋彰, 盜賊多有 ) (Thiên hạ mà nhiều kiêng kỵ, thì dân chúng càng nghèo. Nhân dân nhiều lợi khí, thì nước nhà càng tối tăm. Người người nhiều tài khéo, vật lạ càng nẩy sinh. Pháp lệnh càng rõ rệt, trộm cướp càng sinh nhiều) (Ch.57). Cho nên bậc Thánh nhân trị nước phải lo đứt thánh bỏ trí, dân lợi trăm phần. Dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại thảo lành. Dứt xảo bỏ lợi, trộm cướp không có ( 絕聖棄智, 民利百倍. 絕仁棄義, 民復孝慈. 絕巧棄利, 盜賊無有 43 ). Một nơi khác ông cũng nói: không tôn bậc hiền tài, khiến cho dân không tranh, không quý của khó đặng, khiến cho dân không trộm cướp, không phô điều muốn, khiến lòng dân không loạn. Vì vậy, cái trị của Thánh nhân là làm cho dân hư lòng, no dạ, an (yếu) chí, mạnh xương. Thường khiến cho dân không biết, không ham, khiến cho kẻ trí không dám dùng đến cái khôn của mình. Làm theo Vô Vi, ắt không có gì là không trị được 不尚賢, 使民不爭. 不貴難得之貨, 使民不為盜. 不見可欲, 使民心不亂. 是以聖人之治, 虛其心, 實其腹, 弱其志, 強其骨. 常使民無知無欲, 使夫智者不敢為也, 為無為, 則無不治 (Bất thượng hiền, xử dân bất tranh. Bất quý nan đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo. Bất kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn. Thị dĩ Thánh nhân chi trị, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ chí, cường kỳ cốt. Thường sử dân vô tri vô dục, sử phù trí giả bất cảm vi dã. Vi vô vi, tắc vô bất trị) (Chƣơng 3). Đó là dùng phƣơng pháp tiêu cực, thủ tiêu mọi nguyên nhân gây lòng tham dục của con ngƣời trƣớc hết, thì nó lấy đâu mà bùng cháy? Bậc hiền tài cũng nhƣ của khó đặng, là những cái mồi làm cho lòng dân sanh loạn. Nó có khác nào những chất củi khô làm bổi cho ngọn lửa tham dục dấy lên. Cho nên trị loạn sao bằng phòng loạn, rút củi ra thì lửa tắt đi. Trẻ con, lòng ít tham dục, nên đời sống của nó còn tự nhiên chất phác, giản dị... Cho nên Lão Tử mới nói: hàm đức chi hậu, tỉ ư xích tử 含德之厚, 比於赤子, nghĩa là đem kẻ đức dầy mà ví với đứa con đỏ (Ch.55). Bậc thánh nhân trị nƣớc, vì vậy, xem dân nhƣ đứa trẻ: thánh nhân giai hài chi 聖人皆孩之 (Ch49), và không làm cho nó sáng, mà làm cho nó ngu : Cổ chi thiện vi Đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi ( 古之善為道者, 非以明民, 將以愚之 ) (Bậc Thánh nhân trị nƣớc mà khéo thi hành Đạo, thì không làm cho dân sáng mà làm cho dân Ngu). Chữ minh dân và ngu dân ở đây 43 Tuyệt thánh khí trí, dân lợi bách bội; tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ; tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu. (Ch.19) (Goldfish).

29 không còn có cái nghĩa thông thƣờng của nó nữa. Minh dân không có cái nghĩa là mở rộng óc thông minh, ngu dân cũng không có nghĩa là làm cho đầu óc con ngƣời trở nên ngu đần. Chữ minh đây, là đa kiến xảo trá, và chữ ngu đây là thuần hậu thật thà. Cái đạo trị nƣớc hay nhất để đem lại hạnh phúc cho nhân dân là đƣa họ trở về 1 đời sống thật thà và giản dị. II. PHẦN PHÂN TÍCH ĐẠO 道 A. Về bản thể Trong các chƣơng 1, 4, 14, 21, 25, 34, 42, 51, 79, Lão Tử ròng luận về Bản thể của Đạo. Chỗ mà ông gọi là Đạo, tức là chỗ ông ám chỉ cái Nguồn gốc của Vũ Trụ ( 宇宙之本原 44 ) Nguồn gốc của Vũ Trụ (Đạo 道 ) là một Lẽ tuyệt Đối, không chi đối đãi với nó cả, vì vậy, không thể lấy một danh từ gì để chỉ định. Là vì, phàm cái gì có thể lấy lời nói mà định danh là đã sa vào chỗ đối đãi rồi. Nhƣ nói Đạo tức là đã mặc nhiên hàm cái ý có một cái không phải Đạo ẩn trong danh từ ấy, và nhƣ thế thì Đạo không còn là một lẽ Tuyệt đối nữa. Tuyệt đối là độc nhất vô nhị, cho nên dùng danh từ của giới nhị nguyên (dualist) đối đãi mà gọi tên, là không thể đƣợc. Bởi vậy mới nói: Đạo khả đạo, phi thường Đạo; Danh khả danh, phi thường Danh (Đạo mà ta có thể gọi đƣợc, không còn phải là Đạo thƣờng ; Danh mà ta có thể gọi đƣợc, không còn phải là Danh thƣờng ) (Chƣơng 1) 道可道, 非常道 ; 名可名, 非常名. Thế thì, sở dĩ lại gọi nó là Đạo, là bất đắc dĩ gƣợng mà kêu tên đó thôi: Ngô bất tri kỳ Danh, cưỡng tự chi viết Đạo, cưỡng vị chi danh viết Đại (Ta không biết tên, gƣợng gọi đó là Đạo, gƣợng cho đó là lớn) (Chƣơng 25) 吾不知其名, 強字之曰道, 強為之名曰大. 44 Vũ trụ chi bản nguyên. (Goldfish).

30 Việc quan trọng nhất của triết học phải chăng, không có gì cần thiết hơn mà cũng không có gì khó khăn hơn là vấn đề giải thích Vũ Trụ? Lấy Vũ Trụ làm căn nguyên cho tất cả Vạn vật thì học thuật mới có chỗ cứu cánh, và trí thức loài ngƣời mới mong đầy đủ đƣợc. Nếu lấy ngay hình hài và kiếp sống trăm năm là hạn của con ngƣời mà sánh với cái vô cùng vô tận của không gian và thời gian, thì tuy thấy là có mà hình nhƣ không có gì cả. Cho nên, bàn về cách đo lƣờng tinh xác Vũ Trụ đã đến đâu, và sự học thức của ngƣời để hiểu biết Vũ Trụ ấy đã tiến đến bực nào, thiết tƣởng cũng không cần cho lắm. Là vì muốn giải quyết cứu cánh Vũ Trụ, rốt cuộc lại hình nhƣ không bao giờ có thể giải quyết đƣợc. Tại sao thế? Giả sử mà công việc giải thích ấy có thể đƣợc thì Vũ Trụ này sẽ là một Vật hữu tận, chứ không còn là vô tận nữa. Và ngoài cái Vũ Trụ này ra cũng có thể còn có một Vũ Trụ khác, và cứ nhƣ thế mãi đến không cùng. Vậy thì cái Vũ Trụ vô cùng đó, đâu phải chỗ mà chúng ta có thể giải quyết đƣợc. Theo các nhà thiên văn ngày nay thì Thái Dƣơng ở giữa trung bộ của đại vũ trụ. Cách trung tâm đại vũ trụ ƣớc mấy trăm trăm triệu lý, ngoài ra thì ngôi sao phân bố bốn phƣơng nhƣ dầy dặt trên một cái vòng tròn. Cái bề cao của nguyên khôi tinh tú ấy từ đầu này sang đầu kia, nếu tính theo sức mau lẹ của ánh sáng anh lý trong một ly đồng hồ, thì cũng phải đến năm mới có thể đi tới đặng. Đó là cái đại vũ trụ của loài ngƣời chúng ta ở... Nhƣng ngoài cái Vũ Trụ này há lại chẳng còn có cái đại vũ trụ nào khác nữa hay sao? Nhà thiên văn lại cũng có nói: Cái Vũ Trụ lớn mà loài ngƣời chúng ta ở đây là một vùng xoáy của tinh vân: hình nó mỏng và bằng, bề mặt hai bên nó lồi lên. Từ trung tâm thẳng đến bên cạnh thiên hà, có trên vạn vạn triệu lý. Từ trung tâm đến khoảng hai trục ấy, lại chỉ có một phần ba con số ấy mà thôi. Nếu cho rằng mỗi một đoàn tinh vân là một cái đại vũ trụ độc lập, thì lớn hay nhỏ, nó sẽ giống nhau nhƣ đại vũ trụ mà chúng ta đang ở. Mà cái số của đoàn tinh vân ấy có trên mƣời vạn Nhƣng mà đó cũng chỉ chẳng qua là ngày nay chúng ta mới thấy đƣợc bấy nhiêu mà thôi, và biết đâu sau này, chỗ biết ấy lại không hơn bây giờ gấp trăm nghìn lần! Vậy thì Vũ Trụ tức là Không gian và Thời gian há có thể là vấn đề có thể bàn đến đƣợc không, và ta có thể nào lấy lời nói mà hình dung đƣợc cái chỗ Vô cùng Vô tận của nó chăng? Nhƣ vậy, đến ngày nay mà khoa học đã đến chỗ gần nhƣ cùng độ, thế mà đối với vấn đề Vũ Trụ, dƣờng nhƣ cũng phải nhận là một vấn đề bất khả tƣ nghị và hình dung đƣợc. (Trần Trụ). Trong thời đại Lão Tử, quan niệm về Vũ Trụ hãy còn hết sức là ấu trĩ, cho nên phần đông con ngƣời khó tránh sa vào thần bí. Chỉ có một mình Lão Tử là không phải nhƣ thế. Mặc dù ông không có đủ khí cụ cùng phƣơng tiện đo lƣờng tinh xác nhƣ ngày nay, ông vẫn cũng biết đƣợc một cách rất thâm sâu rằng: Vũ Trụ không thể nào dùng tƣ tƣởng mà suy nghĩ đƣợc, không thể nào dùng lời nói mà luận bàn đƣợc. Và vì thế ông cƣỡng đặt cho nó tên là Đạo.

31 Ở chƣơng thứ nhất sách Đạo Đức Kinh có nói: Đạo mà có thể nói ra được, không còn phải là Đạo thường nữa; Danh mà có thể nói ra được, không còn phải là Danh thường nữa. Trang Tử ở Thiên Trí Bắc Du 知北遊 giải câu nói trên đây của Lão Tử rất rõ ràng: Đạo chẳng có thể nghe được, nghe được không còn phải là Nó nữa; Đạo chẳng có thể thấy được, thấy được không phải là Nó nữa; Đạo chẳng có thể nói được, nói được không phải là Nó nữa. Có thể nào lấy cái Trí mà hiểu được cái hình dung của cái không hình dung được chăng? Vậy thì, không nên đặt tên cho Đạo ( 道不可聞, 聞而非也 ; 道不可見, 見而非也 ; 道不可言, 言而非也. 知形之不形乎! 道不當名 ) 45. Ông lại nói thêm: Kẻ hỏi Đạo cũng như kẻ đáp lại, đều là những người không hiểu Đạo cả ( 有問道而應之者, 不知道也 ) 46, vì biết thì không nói, mà nói thì không biết ( 知者不言, 言者不知 ) 47. Hàn Phi Tử 韓非子 ở thiên Giải Lão 解老 cũng có bàn rộng về cái nghĩa bất khả Đạo 不可道 trên đây nhƣ sau đây: Phàm cái Lý ấy, nếu đem ra mà phân chia thành ra vuông, tròn, dài, ngắn, xấu, đẹp, cứng, mềm... thì cái Lý ấy đã bị hạn định rồi vậy (...) Vật mà đã định rồi thì mới có còn mất, sống chết, thịnh suy. Ôi! vật mà khi còn, khi mất, thoạt sống, thoạt chết, trƣớc thịnh sau suy, thì không thể gọi là thƣờng đƣợc (...) Cho nên không thể gọi đó là Đạo đƣợc ( 凡理者方園短長粗靡堅脆之分也 ( ) 故定理有存亡, 有死生, 有盛衰. 夫物之一存一亡. 乍死乍死, 初盛而後衰者, 不可謂常 ( ) 是以不可道也 ) 48. Chƣơng 67 Đạo Đức Kinh có câu: Thiên hạ giai vị ngã Đạo đại tự bất tiếu. Phù duy đại, cố tự bất tiếu; nhược tiếu cữu hĩ, kỳ tế dã phù! 天下皆謂我道大似不肖. 夫惟大, 故似不肖. 若肖久矣, 其細也夫! (Thiên hạ đều gọi Đạo ta là lớn mà dường như không giống chi cả. Bởi nó Lớn, nên Nó không giống chi cả. Nhược bằng Nó giống vật chi, thì Nó đã nhỏ lâu rồi!). Đạo mà nói ra đặng, mà có thể gọi tên đặng, là vì nó có chỗ giống (để mà so sánh). Có chỗ giống, mới có thể dùng lời nói mà hình dung, nhƣ vậy thì Đạo đã có chỗ cùng. Mà đã có chỗ cùng, thì sao có gọi là Lớn, lớn một cách tuyệt đối. Thật vậy, mỗi khi ta nói đến Lớn, thì óc ta liên tƣởng đến một cái gì nhỏ hơn, nghĩa là lớn hơn cái nhỏ, nhỏ hơn cái lớn Và nhƣ thế, thì trong đời không có cái gì thật lớn, cũng không có cái gì thật nhỏ. 45 Đạo bất khả văn, văn nhi phi dã; Đạo bất khả kiến, kiến nhi phi dã; Đạo bất khả ngôn, ngôn nhi phi dã. Tri hình chi bất hình hồ! Đạo bất đƣơng danh (Trí Bắc du). 46 Hữu văn Đạo nhi ứng chi giả, bất tri Đạo dã. (Trí Bắc du). 47 Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri (Đạo Đức kinh). 48 Phàm Lý giả phƣơng viên, đoản trƣờng thô mỹ kiên nhuế chi phân dã Có định lý hữu tồn vong, hữu tử sinh, hữu thạnh suy. Phù vật chi nhất tồn nhất vong, sã tử sạ sinh sơ thịnh nhi hậu suy giả, bất khả vị thƣờng Thị dĩ bất khả đạo dã. [Chữ 脆 Thiều Chửu phiên âm là thuý. (Goldfish)].

32 Chƣơng 15 sách Đạo Đức Kinh: Cổ chi thiện vi sĩ giả, vi diệu huyền thông, thâm bất khả thức. Phù duy bất khả thức, cố cưỡng chi vi dung 古之善為士者, 微妙玄通, 深不可識. 夫唯不可識, 故強為之容. (Bậc toàn thiện xưa, tinh tế nhiệm mầu, siêu huyền thông suốt, sâu chẳng khá dò. Bởi chẳng khá dò, tạm hình dung đó). Nghiêm Phục 49 嚴復 nói: Vật có hình khí thời không thể không đối đãi được. Cái mà chẳng thể đối đãi được, thời chẳng thể nào tư tưởng mà suy nghĩ, lấy lời nói mà nghị luận. 形氣之物, 無非對待 ; 非對待則不可思議 (Hình khí chi vật, vô phi đối đãi; phi đối đãi tắc bất khả tƣ nghị). Trở lên, là bàn về Bản thể của Đạo. Bản thể của Đạo, tức là Nguồn gốc của Vũ Trụ, nên mới nói: Hữu vật hỗn thành, tiên Thiên Địa sinh. Tịch hề, liêu hề, độc lập bất cải, châu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên hạ mẫu ( 有物混成, 先天地生. 寂兮, 寥兮, 獨立而不改, 周行而不殆, 可以為天下母 ) (Chƣơng 25) (Có vật hỗn độn mà nên, sanh trƣớc Trời Đất. Yên lặng, trống không. Đứng riêng mà không đổi, đi khắp mà không mỏi, có thể là Mẹ thiên hạ). Gọi là thiên hạ mẫu ( 天下母 ) là muốn bảo: Đạo là Nguồn gốc của Vũ Trụ, Mẹ sinh ra vạn vật dƣới trời, mà cũng là nguồn gốc của Vô Vi, của một cái Có tuyệt đối, một cái Lớn tuyệt đối mà không có đối đãi. Vì nó là một cái gì Lớn tuyệt đối nên mới nói: nghinh chi nhi bất kiến kỳ thủ, tùy chi nhi bất kiến kỳ hậu 迎之不見其首, 隨之不見其後 (Chƣơng 14) (Đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi). Tức là vô thủy vô chung 無始無終 vậy. Lại cũng vì Nó là một cái Có tuyệt đối, một cái gì Lớn tuyệt đối nên mắt xem không thể thấy, tai lóng không thể nghe, tay rờ không thể đụng, nên mới nói: Thị chi nhi bất kiến, danh viết Di; thính chi nhi bất văn, danh viết Hi; bác chi bất đắc, danh viết Vi 視之而不見名曰夷 ; 聽之不聞名曰希 ; 搏之不得名曰微 (Chƣơng 14) (Xem mà không thấy nên tên gọi là Di, Lóng mà không nghe nên tên gọi là Hi; Bắt mà không nắm đƣợc, nên tên gọi là Vi). Nhƣ vậy Đạo là một cái gì gần nhƣ không có vật gì cả, nên mới nói: thằng thằng bất khả danh, phục quy ư vô vật, thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi tượng 繩繩不可名, 復歸於無物. 是謂無狀之狀, 無物之象 (Chƣơng 14) (Dài dằng dặc mà không có tên, rồi lại trở về chỗ không có; ấy gọi là hình trạng không hình trạng, cái hình trạng của cái không có vật). Nhƣng thực sự thì không phải vậy, bởi nó là Nguồn gốc sanh ra Vạn Vật, thì bảo là không có gì cả sao đặng. Nên mới nói: Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt; hốt hề hoảng hề, kỳ trung hữu tượng. Hoảng hề hốt hề, kỳ trung hữu vật. Yểu hề minh hề, kỳ trung hữu 49 Đời nhà Thanh 清

33 tinh (Chƣơng 21) ( 道之為物, 惟恍惟惚 ; 惚兮恍兮, 其中有象. 恍兮惚兮, 其中有物. 窈兮冥兮, 其中有精 ) (Đạo sanh ra Vật, Thấp thoáng mập mờ. Thấp thoáng mập mờ, trong đó có hình; mập mờ thấp thoáng, trong đó có Vật. Sâu xa tăm tối, trong đó có tinh). Vì Đạo là nguồn gốc của Vũ Trụ, hay nói 1 cách khác, Đạo là nguồn gốc của Vạn Vật, nên mới nói: Đạo sanh Nhất, Nhất sanh Nhị, Nhị sanh Tam, Tam sanh Vạn Vật ( 道生一, 一生二, 二生三, 三生萬物 ) (Chƣơng 42) (Đạo sanh Một, Một sanh Hai, Hai sanh Ba, Ba sanh ra Vạn Vật). Lại nói: Đạo sanh chi, Đức súc chi, vật hình chi, thế thành chi ( 道生之, 德畜之, 物形之, 勢成之 ) (Ch.51) (Đạo sanh đó, Đức nuôi đó, chủng loại tạo hình đó, hoàn cảnh kết liễu đó). Bao nhiêu điều nói trên, đều là để bày giải cái lý sinh thành của Vạn Vật. Đạo là nguồn gốc của Vạn Vật, là cái chỗ tự sinh ( 生 ) của muôn loài mà không biết tại sao mà sinh ra. Nó là cái vật che chở và nuôi dƣỡng vạn vật mà không tự cho mình là chủ muôn vật, và bởi thế mới có nói: Vạn vật thị chi nhi sinh nhi bất từ. Công thành bất danh hữu, y dưỡng vạn vật nhi bất vi chủ 萬物恃之而生而不辭. 功成而名有. 衣養萬物而不為主 (Chƣơng 34) (Vạn vật nhờ Nó mà sinh ra, mà không vật nào bị nó khƣớc từ. Xong việc rồi, không để tên; che chở, nuôi nấng muôn loài mà không làm chủ). Lời nói này, chủ ý muốn nói Đạo sinh ra vạn vật, tuồng nhƣ không có làm gì cả mà kỳ thật, không có gì là không làm ( 似無為而實無不為也 ) 50. Chỗ nguồn gốc phát xuất triết học chánh trị vô vi của Lão Tử là căn cứ nơi chỗ này vậy. B. Về nhân sự Những chƣơng 8, 9, 14, 15, 16, 18, 23, 25, 30, 31, 32, 37, 38, 41, 46, 47, 48, 53, 59, 77, 79, 81, Lão Tử bàn đến cái Đạo về nhân sự. Nhƣng, thiết yếu nhất là chƣơng: Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp tự nhiên ( 人法地, 地法天, 天法道, 道法自然 ) 51 (Ngƣời bắt chƣớc Đất, Đất bắt chƣớc Trời, Trời bắt chƣớc Đạo, Đạo bắt chƣớc Tự Nhiên). Bấy nhiêu lời nói ấy, đủ chỉ cho ta thấy rằng Lão Tử đối với vấn đề nhân sinh, chủ trƣơng con ngƣời phải bắt chƣớc theo Trời, bắt chƣớc theo Đạo. 50 Tự vô vi nhi thực vô bất vi dã. Chƣơng 37 có câu: Đạo thƣờng vô vi nhi vô bất vi ( 道常無為而無不為 )(Goldfish). 51 Chƣơng 25. (Goldfish).

34 Bởi vậy, ông thƣờng khuyên ta: Đạo thường Vô vi, nhi vô bất vi. Hầu vương nhược năng thủ chi, vạn vật tương tự hóa ( 道常無為而無不為, 侯王若能守之, 萬物將自化 ) (Đạo thƣờng không làm, nhƣng không gì không làm. Bậc hầu vƣơng giữ đƣợc nó, thì vạn vật sẽ tự thay đổi) (Ch.37). Câu độc lập bất cải, châu hành bất đãi ( 獨立而不改, 周行而不殆 ) (Đứng riêng mà không đổi, đi khắp mà không mỏi) là muốn ám chỉ cái luật mâu thuẫn của Đạo: Đạo thì chí tịnh ( 至静 ), bất cải mà cũng là chí động ( 至動 ) bất đãi. Nhƣ khoa học vật lý ngày nay đã chứng minh, ta thấy rằng trong cái chí tịnh của hạt nguyên tử, mà giác quan ta không thể nhận thức khác hơn đƣợc, kỳ thực là một cái chí động (động cùng cực). Rộng lớn hơn, là quả địa cầu ta ở: cái chuyển của quả địa cầu thật là chí động, thế mà ta không dè là có động. Lớn hơn nữa là ngôi Thái dƣơng, chí tịnh đối với các hành tinh trong thái dƣơng hệ, mà chí động đối với các ngôi thái dƣơng khác. Cho hay cái chí động lại dƣờng nhƣ cái chí tịnh, cái không làm gì cả mà kỳ thực là cái làm hiệu quả nhất. Bản thể của Đạo thì thấy là không làm gì cả: chí tịnh; mà kỳ thực không có gì là không do cái làm của nó mà ra ( 無為而無不為 ): chí động. Do đó mới có cái hành động Vô Vi là bất tranh ( 不爭 ), mà không có cái gì tranh đƣợc với nó, hay thắng đƣợc nó. Hành động Vô vi, là hành động bất tranh nhi thiện thắng, ta phải bắt chƣớc theo hành động ấy của Đạo mà hành cái Đạo không tranh. Ông lấy nƣớc để ví với Đạo. Thượng thiện nhược thủy, thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố. Cố cơ ư Đạo. Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chánh thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời. Phù duy bất tranh, cố vô vưu ( 上善若水. 水善利萬物而不爭, 處眾人之所惡, 故幾於道. 居善地, 心善淵, 與善仁, 言善信, 正善治, 事善能, 動善時. 夫唯不爭, 故無尤 ) (Bậc thƣợng thiện, giống nhƣ nƣớc, nƣớc thì ƣa làm lợi cho vạn vật mà không tranh. Ở thì hay lựa chỗ thấp, lòng thì chịu chỗ thâm sâu, xử thế thì thích lòng nhân, nói ra thì trung thành không sai chạy, sửa trị thì chịu làm cho thái bình. Làm việc thì hợp với tài năng, cử động thì hợp với thời buổi. Ôi vì không làm nên không sao lầm lỗi) (Ch.8). Nhân nguyên tắc bất tranh nhi thiện thắng mới có sanh ra những thuyết xử thế: công toại thân thoái 52 ( 功遂身退 ) (Ch.9), nhược úy tứ lân 53 ( 若畏四鄰 ) (Ch.15), và do đó nẩy ra những điều răn mình nhƣ tự căng tự phạt ( 自矜自伐 ) ở chƣơng 24: tự phạt giả vô công, tự căng giả bất trưởng... (tự xem là có công thì không công, tự kiêu căng thì không đứng đầu...) hay là bất dĩ binh cưỡng thiên hạ (Ch.30) (đừng dùng binh mà bức thiên hạ)... Phải chăng đó đều là do cái nghĩa của hai chữ bất tranh để gìn giữ cho thân mạng của mình đƣợc lâu dài... mà nẩy sinh ra không? 52 Thành công rồi thì lui thân. 53 Do dự dƣờng sợ, mắt ngó bốn bên.

35 Tôn chỉ của Lão Tử, chỗ khấn yếu nhất là câu: thƣợng Đức bất Đức ( 上德不德 ) ở chƣơng 38. Đoạn văn này cần phải để ý đến hai chữ thƣợng và hạ. Thƣợng, là chỉ sự gần với Đạo; hạ, là chỉ sự xa với Đạo. Cái đức của Đạo, không phải những đức tính nhƣ ngƣời đời thƣờng nhận nhƣ Nhân, Nghĩa, Lễ... nên mới nói: thƣợng đức bất đức, thị dĩ hữu đức, hạ đức bất thất đức, thị dĩ vô đức. (Đức mà cao là không có đức, bởi vậy mới có Đức. Đức mà thấp, là có đức, nên không có đức). Ta thấy rằng chỗ mà Lão Tử gọi là Đạo, bao giờ cũng có hai nghĩa: cái Đạo của Bản thể và cái Đạo của Nhân sự. Chữ Đức cũng có hai nghĩa: cái đức của Đạo và cái đức của cái không phải Đạo nhƣ Nhân, Nghĩa, Lễ... Và vì thế Lão Tử trọng Đạo Đức mà khinh Nhân, Nghĩa, Lễ v.v Khinh Nhân, Nghĩa... không phải là bỏ Nhân, Nghĩa, mà thực ra là cho nó chưa đủ để thực hiện được cái Đạo nơi lòng mình. Còn nói đến Nhân, Nghĩa... là còn phân nhĩ ngã... còn thấy có ngƣời có ta. Đạo mà cao, hay nói một cách khác, ngƣời mà thực hiện đƣợc cái Đạo nơi mình rồi, không cần nói đến Nhân, đến Nghĩa mà vẫn có Nhân, có Nghĩa một cách hoàn toàn đầy đủ, không miễn cƣỡng... Không cần phải thi hành cái đạo Nhân, đạo Nghĩa mà tự nhiên đƣợc Nhân đƣợc Nghĩa là vì kẻ đã thực hiện đƣợc cái đạo nơi mình, không còn thấy có ngƣời, có ta... mà thấy ngƣời là ta, ta là ngƣời; cũng không còn thấy có nội, có ngoại gì nữa mà cả thẩy đều là một. Còn nói đến Nhân, Nghĩa, Lễ là còn thấy có ta và ngƣời khác nhau. Lời nói này của Trần Trụ cũng đáng để cho ta để ý: Lão Tử, vì muốn khôi phục cái chánh trị đạo đức đại đồng, nên mới cho Nhân, Nghĩa, Lễ là chưa đủ... Nếu chưa rõ được chỗ chánh trị đạo đức đại đồng mà lại chê bướng Nhân, Nghĩa, Lễ... đó là kẻ tội nhân của Lão Tử.... Hay nói một cách khác Đại đạo phế, hữu Nhân Nghĩa... 大道廢, 有仁義 (Ch.18). Đạo nơi ta đã mất rồi, ta mới nhận thấy có ngƣời có ta nên mới có bày ra Nhân Nghĩa để nối lại cái Sống Một đã bị chia lìa. Còn thấy nhĩ ngã, nội ngoại là còn sống trong nhận định sai lầm của Tƣ Ngã ( 本我 ) 54 của nhãn kiến Nhị nguyên. Trang Tử, ở chƣơng Thiên Vận ( 天運 ) giải thích vấn đề này có nói: Thương đại tể là Đảng hỏi Trang Tử cái nghĩa của chữ Nhân. Trang Tử nói: Ấy là đức của hổ lang. Đảng hỏi: sao vậy?. Đảng hỏi: Còn chí nhân thì sao? Trang Tử nói: Chí nhân không thân ai hết. Đảng hỏi: Tôi nghe nói không thân thì không thương, không thương thì không hiếu. Gọi người chí nhân là không có hiếu được không? Trang Tử nói: Không phải vậy. Chí nhân cao lắm. Hiếu không đủ để nói đến họ. Nhƣ vậy, ta thấy kẻ mà khuyên ta thiện giả ngô thiện chi, bất thiện giả ngô diệc thiện chi; tín giả, ngô tín chi, bất tín giả, ngô diệc tín chi lại bị ngƣời đời cho là vô luân lý chẳng phải là oan lắm ru! Đối với kẻ phải với ta, ta ở thành tín với họ, thì đó là lẽ thƣờng rồi! Nhƣng, đối với kẻ ở quấy với ta, đối với kẻ bội phản ta, thế mà ta vẫn cứ một mực ở phải với họ, thành tín chung thủy với họ, thì có cần phải đem Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín mà bàn với ta nữa không? Ta là kẻ đã đứng trên loài ngƣời: đạo đức luân lý thông thƣờng nhƣ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đều là qua nhỏ bé đối với ta vậy! 54 Bản ngã. (Goldfish)

36 Khác với Nho, Lão Tử khuyên ta dĩ đức báo oán, và dùng chữ Từ để đối xử với tất cả mọi ngƣời, bất phân kẻ thiện ngƣới ác, thì chữ Từ ấy phảng phất với chữ Bác ái và Bát nhã bình đẳng của Nhà Phật. Những kẻ vịn lẽ Lão không phân Thiện Ác, và cho ông chủ trƣơng vô luân lý là hiểu sai! Phải nói rằng luân lý của Lão là một thứ siêu đẳng luân lý mới đúng hơn. ĐỨC 德 A. Đức ( 德 ) Nhƣ trên đã nói, chỗ mà Lão Tử gọi bằng danh từ Đạo, bao giờ cũng dùng với hai nghĩa: cái Đạo của bản thể và cái Đạo của nhân sự. Chữ Đức 德 cũng vậy, vẫn dùng với hai nghĩa: cái Đức của Đạo, và cái Đức của cái không phải Đạo, tức là cái Đức của sự đã mất Đạo, nhƣ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín... Đại Đạo phế, hữu Nhân Nghĩa ( 大道廢, 有仁義 ) (Ch.18) (Đạo lớn mất, mới có sanh Nhân, Nghĩa). Ông lại nói: Thất đạo nhi hậu Đức, thất Đức nhi hậu Nhân, thất Nhân nhi hậu Nghĩa, thất Nghĩa nhi hậu Lễ...Phù Lễ giả, trung tín chi bạc, nhi loạn chi thủ... 失道而後德, 失德而後仁, 失仁而後義, 失義而後禮... 夫禮者, 忠信之薄, 而亂之首 (Ch.38) (Mất đạo rồi mới có Đức, mất Đức rồi mới có Nhân, mất Nhân rồi mới có Nghĩa, mất Nghĩa rồi mới có Lễ... Lễ chỉ là cái vỏ mỏng che ngoài của lòng Trung Tín và là cái đầu mối của hỗn loạn...). Lão Tử sở dĩ trọng Đạo Đức mà khinh Nhân, Nghĩa, Lễ... là khinh cái Đức của sự đã mất Đạo. Mất đạo rồi mới có Đức, chữ Đức này là nhân sự chi đức ( 人事之德 ) chứ không phải là cái Đức của Đạo ( 本體之德 ) 55. Cũng nhƣ trong câu thượng đức bất đức ( 上德不德 ) thì chữ thượng đức là ám chỉ cái Đức của Đạo, còn chữ bất đức ( 不德 ) ám chỉ cái Đức của nhân sự, cái Đức của sự mất Đạo Đức. Đức, thuộc về cái Đức của bản thể ( 本體之德 ) là để dùng ám chỉ cái Động hữu hình của Đạo, bắt nguồn nơi Đạo, tức là cái nguyên lý tối cao tối đại và tuyệt đối, nguồn gốc của vạn vật, luôn luôn thƣờng tồn bất biến. Cái Đức của nó sanh ra Vạn Vật Trời Đất. Trong những câu mà ông dùng đến chữ thượng nhƣ trên đây đã nói: Thượng đức bất đức... hoặc bất tranh chi đạo, nhược xưng thượng đức ; kỳ đạo nãi chân thị vị bất tranh chi Đức (Ch.68) v.v, đó là ông dùng chữ Đức của Đạo, cái Đức của vua Vô Vi, của bất ngôn chi giáo, của bất tranh nhi thiện thắng, tức là cái Đức theo Đạo Trời, theo Đại Đạo, cái Đức của Bản thể, duy cái nghĩa thì tùy chỗ dùng mà có sâu cạn 55 Bản thể chi đức. (Goldfish).

37 khác nhau thôi. Còn nhƣ khi ông bảo: dĩ đức báo oán, thì đức đây là chỉ về nhân sự chi đạo gần với những đức Nhân, Nghĩa thông thƣờng (xem các chƣơng 21, 23, 28, 38, 41, 54, 59, 60, 63, 68). Dù sao chữ Đức của Lão Tử dùng cũng nặng về siêu hình hơn. B. Huyền Đức ( 玄德 ) Chƣơng thứ 10 có câu: Sanh chi súc chi, sanh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trưởng nhi bất tể, thị vị Huyền Đức 生之畜之, 生而不有, 為而不恃, 長而不宰, 是謂玄德 (Ch.10) (Sanh đó nuôi đó, sanh mà không chiếm cho mình, làm mà không cậy công, làm việc lớn mà không làm chủ, đó gọi là Huyền Đức). Chƣơng 51 cũng có bàn đến hai chữ Huyền Đức: Huyền Đức là cái đức Huyền của Đạo: Đạo thì không phân thiện ác, thị phi, vinh nhục, nên đặt tên là Huyền nghĩa là hỗn độn, đen tối, sâu kín, hòa lẫn một màu, không thể phân biệt giữa cái vô và cái hữu, cái nội và cái ngoại, cái tịnh và cái động, cái Vô danh và cái Hữu danh: Đồng vị chi Huyền ( 同謂之玄 ) Chữ Đức 德 ở trên đây đều chỉ về cái Đạo bản thể ( 本體之道 ). Qua chƣơng 65, thì chữ Huyền Đức lại dùng để chỉ sự phải bắt chước theo cái Đạo bản thể để mà trị nước ( 法本體之道以治國者也 ) 56 tức là bàn về cái Dụng của Huyền đức. VÔ 無 A. Vô tuyệt đối Cũng cần phân biệt hai nghĩa khác nhau khi Lão Tử dùng đến chữ Vô (là không). Có một cái Vô tuyệt đối và một cái Vô tƣơng đối, hay đối đãi. Chƣơng 14 có câu: Thị chi bất kiến, danh viết Di. Thính chi bất văn, danh viết Hi. Bác chi bất đắc, danh viết Vi. Thử tam giả bất khả trí cật, cố hỗn nhi vi Nhất. Kỳ thượng bất kiểu, kỳ hạ bất muội, thằng thằng bất khả danh, phục quy ư vô vật. Thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi 56 Pháp bản thể chi đạo dĩ trị quốc giả dã. (Goldfish).

38 tượng, thị vị hốt hoảng. Nghinh chi bất kiến kỳ thủ, tùy chi bất kiến kỳ hậu ( 視之不見名曰夷 ; 聽之不聞名曰希 ; 搏之不得名曰微. 此三者不可致詰, 故混而為一. 其上不皦, 其下不昧, 繩繩不可名, 復歸於無物. 是謂無狀之狀, 無物之象, 是謂惚恍. 迎之不見其首, 隨之不見其後 ) Xem mà không thấy nên gọi là Di. Lóng mà không nghe, nên gọi là Hi. Bắt mà không nắm được, nên gọi là Vi. Ba cái ấy không thể phân ra được, vì nó hỗn hợp làm Một. Trên nó không sáng, dưới nó không tối, dài dằng dặc mà không có tên, rồi lại trở về chỗ không có. Ấy gọi là cái hình trạng không hình trạng. Cái hình trạng của cái không có vật. Ấy gọi là hốt hoảng, đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi (Ch.14) Ba chữ Di, Hi,Vi dùng để miêu tả sự vô đắc, vô thanh, vô hình của Đạo. Đó là cái Vô không có đối đãi. Vì không có đối đãi nên mới nói không thể thấy, không thể nghe, không thể nắm, không thể kêu tên. Tuy vậy, cứu cánh của nó, đâu phải là thật không, cho nên mới nói: vô trạng chi trạng, vô tượng chi vật (Ch.14). Nếu quả thật nó là không, một cái không tuyệt đối, thì sao gọi là có hình trạng, có hình tƣợng? Và chỉ vì nó không phải là thật không, nên Nó mới có thể sanh ra cái Có trên thế gian này: Thiên hạ vạn vật sanh ư hữu, hữu sanh ư vô ( 天下萬物生於有, 有生於無 ). Nhƣợc bằng nó thật là chân vô thì nó làm sao sanh ra Vạn vật? Những chữ Di, Hi, Vi đều đâu phải muốn nói hoàn toàn Vô sắc, Vô thinh, Vô hình, nhƣng vì nhìn mà không thấy, lóng mà không nghe, rờ mà không đụng nên tạm gọi là Vô vật mà thôi vậy. Những câu nói trên giống nhƣ là câu: Đại phương vô ngung, đại tượng vô hình ( 大方無隅, 大象無形 ) (Vuông lớn không thấy góc, tƣợng lớn không thấy hình) (Ch.41). Đó đều là cái Vô không đối đãi. Văn nghĩa của những câu này rất giống nhau. B. Vô đối đãi: Chƣơng 2 có câu: Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thinh tương hòa, tiền hậu tương tùy ( 故有無相生, 難易相成, 長短相形, 高下相傾, 音聲相和, 前後相隨 ) (Có với Không cùng sanh, Khó và Dễ cùng thành, Ngắn và Dài cùng sánh, Cao và Thấp cùng chiều, Giọng và Tiếng cùng họa, Trƣớc và Sau cùng theo). Chƣơng 11 nói: Tam thập phúc, cộng nhất cốc, đương kỳ vô, hữu xa chi dụng... Cố, hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng ( 三十輻, 共一轂, 當其無, 有車之用... 故有之以為利, 無之以為用 ) (Ba chục căm hợp lại một bầu, nhƣng nhờ chỗ không, mới có chỗ dùng của xe... Bởi vậy, lấy cái Có để làm cái lợi, lại lấy cái Không đó để làm cái dụng).

39 Chữ Vô dùng trên đây là cái Vô đối đãi với một cái Có, tức là chữ Vô mà ngƣời của chúng ta thƣờng dùng. Trong sách Lão Tử chữ Vô dùng theo nghĩa ấy (nghĩa đối đãi) thật rất nhiều, không cần đơn cử ra đây làm gì. Tóm lại, nhƣ khi dùng các chữ Đạo Đức, Lão Tử dùng chữ Vô cũng có 2 nghĩa. Một nghĩa tuyệt đối khi ông dùng chữ Vô để chỉ Đạo, cái đạo của Bản thể nhƣ khi ông nói: Thiên hạ vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư vô (Ch.40), nghĩa là thay vì nói: vạn vật sanh ƣ Đạo. - ông nói vạn vật sanh ƣ Vô. Còn cái nghĩa tƣơng đối của nó để dùng với cái Hữu đối đãi, tức là ông dùng theo lối thông thƣờng. Vì Lão Tử thấy thế nhân hay tranh dành xu phụ theo cái Có đến thái quá, nên muốn lập lại quân bình, ông khuyên ta đứng vào chỗ Không. Hai câu chót ở chƣơng 11 nói rất rõ: Hữu chi dĩ vi lợi, Vô chi dĩ vi dụng. Nhƣ vậy ta thấy rằng học thuyết của Lão Tử đâu phải cực đoan phản đối cái hữu, bất quá là vì ngƣời đời phần đông chỉ biết có cái lợi của cái hữu mà đổ xô xu phụ. Nên mới đề xƣớng ra sự dùng đến trọng nhiệm của cái không để cứu vớt sự chênh lệch nghiêng ngửa của xã hội. Đó là cách bổ bất túc, tổn hữu dư, để giữ lại mức quân bình của Đạo mà thôi. Ta có thể nói rằng: dùng Cƣơng hay Nhu, dùng cái Có hay cái Không, không phải luôn luôn nhất luật, mà phải tùy theo sự bất cập hay thái quá để mà ứng dụng cho đƣợc thích ứng. Cũng nhƣ ông cực lực phản đối sự dùng đến bạo lực, nhƣng ông còn nói hờ: Nếu bất đắc dĩ mà phải dùng đến bạo lực, thì nên bình tĩnh điềm đạm (Ch.31) Cái công dụng của cái Vô trong một xã hội náo loạn gần nhƣ đến cực điểm của thời Xuân Thu Chiến Quốc, dĩ nhiên phải có bậc thức giả đề xƣớng nó ra để giữ quân bình. Nhƣng thiên hạ bất cứ đời nào cũng thiên về cái đạo hữu vi, nên đem cái đạo Vô vi mà đề xƣớng ra bất cứ ở thời điểm nào, vẫn cũng là cần thiết cả. Cho nên ta thƣờng nghe nói cái vô dụng bao giờ cũng có chỗ đại dụng của nó, nhƣ về sau học thuyết của Trang Tử phần nhiều chứng minh cái dụng của vô dụng 無用之用 nơi thiên Tiêu Diêu Du. Vì không hiểu rõ công dụng của cái Vô mà ngƣời đời cho việc làm của Y Doãn là tích cực, lấy cái trong sạch của Bá Di làm tiêu cực, và cho rằng tiêu cực là vô dụng, ấy là điều lầm to vậy. Trong lời nói phải chăng cái Ý là cái Vô của lời nói. Lời nói là cái hữu, nhƣng mà cái thực dụng của nó nơi cái Ý tức là cái Vô... của nó. Ý tại ngôn ngoại... Đó là chƣa nói đến cái dụng của chữ Vô trong văn chƣơng và nghệ thuật. Nhƣ vậy, ta thấy chỗ mà triết học Lão Tử gọi là hữu, vô, đều không giống với cái nghĩa một chiều theo nhị nguyên mà thiên hạ thƣờng dùng: Vô là tuyệt đối không có gì cả! Đạo ẩn mà chƣa lộ hình, đó gọi là Vô vậy 57. Bàn về công dụng thiết thực của chữ Vô, ở chƣơng XI Lão Tử nói: Ba chục căm, hợp lại một bầu, nhưng nhờ chỗ không mới có cái dùng của xe. Nhồi đất để làm chén bát, nhờ 57 道隱而未形故謂之無 ( 陳柱 ) Đạo ẩn nhi vị vô hình, cố vị chi vô. [ 陳柱 : Trần Trụ. (Goldfish)]

40 chỗ không mới có cái dụng của chén bát. Khoét cửa nẻo, làm buồng the, nhờ chỗ không mới có cái dụng của buồng the. Bởi vậy, lấy cái có đó để làm cái lợi. Lấy cái không đó để làm cái dụng 三十輻, 共一轂, 當其無, 有車之用. 埏埴以為器, 當其無, 有器之用. 鑿戶牖以為室, 當其無, 有室之用. 故有之以為利, 無之以為用 58. Bánh xe, nhờ chỗ trống không ở giữa mới để đƣợc cái trục, nhờ thế mà xe mới lăn đƣợc. Nên mới nói: lấy cái không để làm chỗ dùng! Nhân bàn về câu nói trên đây của Lão Tử văn hào Romain Rolland có viết: Khi đọc đến cái tƣ tƣởng sâu sắc trên đây của Lão Tử - tôi nghĩ ngay đến những giả thuyết mới đây của khoa thiên văn, thấy rằng cái trung tâm của bao nhiêu thế giới, chính là những khoảng trống không thăm thẳm của Vũ trụ... Các bạn sẽ bảo: đó cũng chỉ là những giả thuyết thôi! Thì cũng chẳng hơn chẳng kém gì những giả thuyết vững chắc nhất và công hiệu nhất của khoa học các anh ngày xưa. Vả lại, giả thuyết ấy cũng xác nhận hợp lý lắm vì nó thỏa hợp được với sự tiết kiệm của các luật tự nhiên trong Vũ Trụ và nó cũng ăn với sự điều hòa tự nhiên của các luật ấy 59. Và đó cũng là chỗ mà Lão Tử bảo: Hữu, sinh ư Vô ( 有生於無 ) vậy. Còn về vấn đề sinh vật trong vũ trụ có ý chí hay không có ý chí, thì trái lại với ngƣời đồng thời, Lão Tử chủ trƣơng rằng sinh vật trong vũ trụ tuyệt không có ý chí, nghĩa là sống ý cách tự nhiên không cố cƣỡng. Chƣơng thứ 5 ông nói: Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu ( 天地不仁, 以萬物為芻狗 ) (trời đất không có lòng nhân, xem vạn vật nhƣ loài chó rơm). Vƣơng Bật giải câu này đại khái nói: Đất, không phải vì con thú mà sinh ra rơm, nhưng con thú lại ăn rơm; không phải vì con người mà sinh ra chó, nhưng người lại ăn chó... Thật là một sự giải thích sai lầm to tát của họ Vƣơng. Vậy mà Nghiêm Phục 嚴復 lại hết sức thán thƣởng cho rằng đó là đã quát tận thâm ý của Darwin. Kỳ thật sô cẩu là một thứ đồ cúng làm bằng rơm, bóng hình chó. Khi chƣa cúng thì ngƣời ta trọng nó lắm, nhƣng sau khi cúng xong thì lại đem vứt nó ra ngoài đƣờng. Trang Tử ở thiên Thiên Vận 天運 có viết: Ôi sô cẩu, lúc chưa dùng thì đựng trong giỏ, đội cho nó bằng gấm vóc, lại 58 Tam thập phúc, cộng nhất cốc, đƣơng kỳ vô, hữu xa chi dụng. Duyên thực dĩ vi khí, đƣơng kỳ vô, hữu khí chi dụng. Tạc hộ dũ dĩ vi thất, đƣơng kỳ vô, hữu thất chi dụng. Cố hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng (Chƣơng 11). 59 Vie de Vivekanada (Tome II. P. 207). Quand Lao-Tsé écrit cette pensée profonde que une roue est faite de trente rais sensibles, mais que c est grâce au Vide central non-sensible du moyeu, qu elle tourne je pense aux récentes hypothèses où vient de se hisser la science astronomique, découvrant, comme foyers de nombreux univers, des gouffres de vide cosmique ( ) Hypothèses, direz-vous! Ni plus si moins que vos plus sûres et fécondes hypothèses de la science. Et logiquement vraisemblable ; car elle satisfait la strite économie des lois de l Univers et rentre dans leur naturelle harmonie.

41 còn phải trai giới mà xem nó. Đến khi đã dùng xong, thì kẻ đi đường đạp lên xương sống nó mà đi, kẻ kiếm củi, lượm nó về mà nhúm lửa. Nhƣ vậy, thì nói đến sô cẩu là muốn ám chỉ vật thay nhau mà tàn tạ giống nhƣ bông hoa của loài thảo mộc, xuân thì nở, thu thì rụng, rồi đến mùa xuân tới, lại trổ hoa, nhƣng không còn phải là cái bông ngày hôm nay nữa. Cũng nhƣ cái hay cái phải của ngày trƣớc, nay không còn dùng đƣợc nữa, thì bỏ đi... để cho theo kịp với cuộc sống đang chuyển của tạo hóa. Trong cái khoảng thời gian biến chuyển giữa cái sinh cái tử kia của sự vật, thì Trời Đất vốn cũng không ân gì cho riêng ai, cũng không dụng tâm mà làm gì cả ( 無思無為 ) 60, đó chính là chỗ mà ông bảo thiên địa bất nhân, tức là cái luật biến hóa vô thƣờng và lạnh lùng của Tạo hoá vậy. Chỗ mà Lão Tử cho rằng Vạn vật sinh ra là vô ý chí, lại càng rõ rệt hơn nữa ở chƣơng 34: Đạo lớn tràn lấp, bên phải bên trái. Vạn vật nhờ nó mà sinh ra, mà không một vật nào bị nó khước từ. Xong việc rồi, không để lại tên. Che chở, nuôi nấng muôn loài, mà không làm chủ. Thường không ham muốn, nên có thể gọi tên là Nhỏ, nhưng, được muôn vật theo về mà không tự xem là chủ, nên có thể gọi tên là Lớn ( 大道氾兮, 其可左右. 萬物恃之而生而不辭, 功成而不有. 衣養萬物而不主. 常無欲, 可名於小 ; 萬物歸焉而不主, 可名為大. 以其終不自為大, 故能成其大 ) 61. Tóm lại, cái học của Lão Tử đều gồm vào một chữ Vô 無, ở Vũ trụ thì gọi là Vô danh 無名 ; ở Chánh trị và xử thế thì gọi là Vô vi 無為. Nhất thiết đều không ngoài chữ Vô. TỰ NHIÊN 自然 Chƣơng 17: Công thành sự toại, bách tánh giai vị ngã Tự Nhiên ( 功成事遂, 百姓皆謂我自然 ) Làm xong công việc cho dân, mà dân cứ tƣởng tự nhiên tự mình làm. Chƣơng 23: Hi ngôn Tự Nhiên ( 希言自然 ) Ít nói, để tự nhiên. Chƣơng 25: Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên ( 人法地, 地法天, 天法道, 道法自然 ) Ngƣời bắt chƣớc đất, đất bắt chƣớc Trời, Trời bắt chƣớc Đạo, Đạo bắt chƣớc Tự Nhiên. 60 Vô tƣ vô tâm. (Goldfish). 61 Đại đạo phạm hề, kỳ khả tả hữu. Vạn vật thị chi nhi sinh chi bất từ. Công thành danh bất hữu. Y dƣỡng vạn vật nhi vi bất chủ. Thƣờng vô dục, khả danh ƣ tiểu. Vạn vật qui yên nhi bất vi chủ, khả danh vi đại. [Chữ 氾, Thiều Chửu phiên âm là phiếm. (Goldfish)].

42 Chƣơng 64: Học bất học, phục chúng nhân chi sở quá, dĩ phụ vạn vật chi Tự Nhiên, nhi bất cảm vi ( 學不學, 復眾人之所過, 以輔萬物之自然, 而不敢為 ) Học cái không học, giúp chúng nhơn hối mà trở về. Giúp vạn vật sống theo Tự nhiên, mà không dám mó tay vào. Bất học ở đây đồng nghĩa với chữ Tự nhiên, tức là Đạo. Trở lên bốn khoản bàn về hai chữ tự nhiên. Nhƣng chƣơng 25 và 64 là nói về Tự Nhiên thuộc bản thể chi đạo ( 本體之道 ). Còn chƣơng 17 và 23 thì bàn về nhân sự chi đạo ( 人事之道 ). Hay nói một cách khác, chữ Tự Nhiên dùng nơi hai chƣơng 17 và 23 là dùng theo nghĩa thông thƣờng. - trái lại Tự Nhiên dùng ở chƣơng 25 và 64 là ám chỉ về đạo. Đạo pháp Tự Thiên, chữ Tự Nhiên ở đây đồng một nghĩa với Bản Thể của Đạo, thƣờng đƣợc gọi là Đạo Thể ( 道體 ). Hùng Lý Liêm 熊李廉 nói: Pháp giả hữu sở phạm vi nhi bất khả quá chi vị ( 法者有所範圍而不可過之謂 ). Bắt chƣớc, tức là có chỗ ranh hạn không thể vƣợt qua đƣợc. Theo đó, ta thấy rằng Trời không thể vƣợt ra khỏi Đạo. Đạo không thể vƣợt ra ngoài Tự Nhiên. Hay nói một cách khác: Tự Nhiên sinh ra Đạo, Đạo sinh vũ trụ. Nhƣ thế ta thấy rằng bàn về nguyên lai của Vũ Trụ, Lão Tử chủ trƣơng Vô Thần luận ( 無神論 ). Câu pháp Tự Nhiên ( 法自然 ) ngƣời đời thƣờng hiểu rất là sai lạc: cho rằng không làm gì, để mặc tới đâu hay đó và cho đó là bắt chƣớc Tự Nhiên. Theo Lão Tử, Tự nhiên cũng đƣợc tƣợng trƣng trong những cái mà ta gọi là luật tự nhiên của sự sống mà bất cứ một vật nào trên đời không thể vƣợt qua, mà sống đặng. Có sanh rồi có tử, đó là Tự nhiên. Đói thì ăn, khát thì uống, đó là Tự nhiên. Nhƣng ăn uống có chừng, uống cũng có mực. Vƣợt qua chừng mực, là vƣợt quá Tự nhiên, không thể còn gọi là Tự nhiên đƣợc nữa. Bất cập hay thái quá trong việc uống ăn, cũng nhƣ trong tất cả mọi hành vi đều là sái với Tự nhiên cả. Đang cần ăn mà không ăn, đang cần không nên ăn mà ăn, đang cần phải ngủ mà không ngủ, đang cần không nên ngủ mà ngủ. Tất cả những gì sái thời lỗi tiết đều là trái với Tự nhiên, đều là những nguyên nhân làm cho thƣơng sinh đau khổ cả. Ngƣời đời thƣờng hiểu Tự Nhiên là cứ để y nguyên sự việc muốn xẩy ra thế nào thì hay thế đấy, phải cũng nhƣ quấy, lành cũng nhƣ dữ, tự do bành trƣớng ra sao cũng mặc, không cần can thiệp đến, sống mai danh ẩn tích, nghêu ngao vui thú yên hà... nghĩa là họ hiểu tự nhiên tức là không làm gì cả... Phải chăng đó là vu oan cho Lão Tử, ngƣời đã chủ trƣơng khứ thậm, khứ xa, khứ thái, nghĩa là trừ khử những gí thái quá, đồng thời nâng đỡ những gì bất cập, để lập lại thế quân bình của Đạo, vì Tự Nhiên, đồng với luật quân bình... Bắt chƣớc nó, thì phải lập lại quân bình tức là tổn hữu dư, bổ bất túc, đó há không phải là những việc làm của những nhà Đại Cách Mạng từ xƣa đến nay trong lịch sử để lập lại công bình, hay nói đúng hơn, lập lại quân bình trong xã hội sao!

43 Hành động Tự Nhiên theo Lão Tử lại cũng có nghĩa là hốt nhiên mà làm, không cố gắng, không miễn cƣỡng, không cân nhắc, nghĩa là hành động đã đến mức vô tâm... không còn lệ thuộc đến một nguyên tắc hay phạm vi nhất định nào của luân lý đạo đức hay giáo lý nào bên ngoài nữa cả. Tự nhiên đây, tóm lại, là vô tâm, vô vi: làm mà không cần để ý đến việc mình làm nữa, nhƣ ngƣời lội mà không cần để ý tranh đấu với nƣớc, không còn để ý đến việc lội của mình nữa. Đó là hành động đến mức hoàn thiện rồi vậy. Ngƣời đời khi hành động bao giờ cũng kể đến lợi hại, phải quấy, cố gắng theo một quy củ nào, miễn cƣỡng tránh những nguyên tắc nào, để cho đúng theo một khuôn mẫu bắt buộc nào... Họ là ngƣời làm mà còn để ý đến việc làm của mình. Làm cho ngƣời mà làm vì cân nhắc lợi hại, vì thƣơng riêng, vì nhân đạo, vì tôn giáo bắt buộc, giáo lý cƣỡng ép, làm để đƣợc tiếng khen, tránh tiếng chê... thì không còn phải là tự nhiên nữa. Hành động tự nhiên theo Đạo không phải thế, là hành động Vô Vi của cành hoa nở vì nở, và không thể không nở đặng, bởi đã đến thời kỳ phải nở. Tự Nhiên đây, là bất đắc bất nhiên (không vậy không đặng). Mọi vật đều có cái đức của nó. Cái đức của mỗi vật tức là cái tánh tự nhiên của nó, cái bất đắc dĩ mà nó phải làm vì không thể không làm cho đặng.vì vậy, Lão Tử cực lực phản đối những gì trở ngại sự phát triển tự nhiên ấy dù là luân lý, chế độ, tôn giáo hay giáo dục, không hợp với bản tánh tự nhiên của con ngƣời, nghĩa là Lão Tử đề cao vấn đề tự do của cá nhân.và cũng vì thế mà có ngƣời cho chủ nghĩa Lão Trang là chủ nghĩa cá nhân ích kỷ! Trang Tử trong Nam Hoa Kinh, có dành riêng một chƣơng Tiêu Diêu Du để giải thích cái nghĩa của Tự nhiên tức là Tự Do sống theo bản tính hết sức rõ ràng 62. Vạn vật dƣới trời, vật nào cũng có cái tính tự nhiên của nó. Phải biết chịu chỗ đó, tức là ta phải nhận sự bất đồng đẳng tự nhiên ấy của sự vật. Biết nhận sự bất đồng đẳng giữa vạn vật, thì ta phải biết kính trọng cái chỗ riêng biệt của mỗi vật, tức là cái tính tự nhiên của mỗi vật mà không xen vào làm trở ngại hay hƣ hoại sự phát triển tự nhiên của nó. Không xen vào làm trở ngại hay hƣ hoại cái tính tự nhiên của mỗi vật là để cho mỗi vật đƣợc sống tự do cái sống của nó, nghĩa là đƣợc tự do phát triển cái tính của nó. Cái mà ta gọi là văn minh, phần nhiều phải chăng là những khuôn khổ cần thiết đặt ra để hạn chế ngăn ngừa những hành động cá nhân ích kỷ quá khích của con ngƣời. Dĩ nhiên, tới mực nào, nó có chỗ hay của nó, là tránh cho con ngƣời những sự dẫm lên tự do cá nhân của kẻ khác, nhƣng nếu quá mức, nó sẽ trở thành những cƣỡng ép bó buộc làm đau khổ cho con ngƣời. Một nhà văn Tây Phƣơng ngày nay có nói: Une même loi pour le lion et pour le boeuf, c est l oppression (W. Blake) (Một cái luật thiết lập chung cho cả loài sư tử và trâu bò, đó là áp chế). 62 Xem quyển Trang Tử Tinh Hoa (trang ) và Nam Hoa Kinh (trang ( ).

44 Chƣơng 19 Lão Tử nói: Kiến Tố, bảo Phác, thiểu tư quả dục 63 ( 見素, 抱樸, 少思寡欲 ) (Tỏ lòng đơn giản, giữ tính tự nhiên, ít riêng tây, ít tham dục). Đó cũng là bảo phải trở về với Tự nhiên. Kiến Tố, bảo Phác là gì? Phác 樸, là gỗ mà còn tự nhiên, chƣa đẽo gọt, chƣa cƣa dùng. Theo Lão Tử, thì chữ Phác dùng để ám chỉ Đạo, cái thể thuần phác lúc ban đầu, cái trạng thái bản nguyên của tâm hồn (état primordial), chƣa bị ảnh hƣởng của xã hội làm sai lệch. Hay nói một cách khác, chƣa bị luân lý, học thuyết, tập quán mà ta gọi chung là văn hóa hay văn minh làm sai lạc... bản tính. Phác 樸 ở đây cũng đồng nghĩa với Tự nhiên... Nhận thức đƣợc cái Bản tính đơn thuần (Tố) rồi, và mãi ôm giữ cái Bản tính tự nhiên ấy... đó là mục đích cuối cùng của ngƣới học Đạo; và nhờ vậy mà lòng trở nên ít riêng tây, ít tham dục, mới bảo phác (mới giữ đƣợc cái tính thuấn phác tự nhiên), mới kiến tố, nghĩa là mới nhận thấy đƣợc tấm lòng trong trắng đơn thuần chƣa bị ngoại giới nhuộm thêm màu sắc, hay sửa đổi thể chất, tức là Bản tính. Chữ Tố 素 đây, nghĩa đen là một thứ tơ thuần chất trong trắng, dùng để ám chỉ lòng đơn thuần chƣa bị ngoại cảnh tập nhiễm. Bởi vậy mới nói: Tuyệt thánh khí trí... Tuyệt nhân khí nghĩa Tuyệt xảo khí lợi... Thử tam giả dĩ vi văn bất túc (XXI) ( 絕聖棄智 絕仁棄義 絕巧棄利 此三者以為文不足 ). Tại sao gọi rằng tuyệt ba điều đó là chƣa đủ? Là vì làm đƣợc ba điều đó, bất quá là những hành động tiêu cực, chỉ trị đƣợc cái ngọn mà không trị đƣợc cái gốc, tức là dứt đƣợc cái nguồn khêu gợi mà chƣa dứt đƣợc cái lòng tham dục do sự mê chấp nhị nguyên gây nên. Tóm lại, cố ôm giữ đƣợc Đạo thì mới nhận thấy đƣợc lòng trong trắng đơn thuần và nhân thế mới bớt đƣợc sự riêng tây, bớt lòng tham dục. Xã hội Trung Hoa cổ đƣợc xây dựng trên hai hệ thống tƣ tƣởng truyền thống nghịch nhau, nhưng bổ túc nhau, là những hệ thống tƣ tƣởng của Khổng học và Lão học. Khổng học thì gồm nắm tất cả mọi ƣớc lệ xã hội, hay nói một cách khác, Khổng học chuyên về sự đào tạo mọi trí thức ƣớc lệ giả tạo. Từ trẻ đến già đều đƣợc giáo dục theo một khuôn khổ luân lý nhất định với mục đích là ức chế những khuynh hƣớng ngông cuồng và lãng mạn, phóng túng và ích kỷ cá nhân để thích nghi với cái giƣờng của chàng Procuste, tức là chế độ xã hội và chánh trị. Giá trị của cá nhân là ở nơi vai trò của các nhân ấy đối với xã hội ấy. Trái lại, Lão học là cái học của những kẻ đã rời bỏ cái sống giả tạo ƣớc lệ của xã hội để trở về với đời sống thành thực của nội tâm. Sự từ bỏ những hoạt động xã hội là một cách giải thoát nội tâm khỏi những gông cùm của những ƣớc lệ giả tạo của chế độ và xã hội, của những lề lối suy tƣ miễn cƣỡng và cƣ xử không tự nhiên. Lão học vì vậy, là một cái 63 Nhập vào đƣợc chỗ đơn thuần, giữ đƣợc lòng mộc mạc, ở riêng tây, ít tham dục. Chữ Kiến Tố đây, đồng một nghĩa với chữ Tính Tánh của Nhà Phật.

45 học đeo đuổi theo Tự nhiên, chống với nhân tạo, căn cứ trên sự hiểu biết trực chỉ vào lòng mình ( 直止人心 ) 64. Trực tiếp với cái sống mà không cần phải trải qua một môi giới nào, hay phải theo một học thuyết hay giáo lý nào của con ngƣời bày ra cả. Chƣơng 22 Lão Tử nói: Hi ngôn, tự nhiên ( 希言, 自然 ) (Ít nói, để cho tự nhiên). Nói lên câu ấy, có lẽ Lão Tử muốn khuyên ta đừng dụng tâm giáo thuyết, nhồi sọ con ngƣời với những ý tƣởng cá nhân, mà bắt buộc mọi ngƣời cùng theo. Đó là cách giúp con ngƣời trở về với tính thuần phác tự nhiên của mình. Khổng học nhắm vào việc uốn nắn con ngƣời theo một thể thức nhất định, theo những quy tắc hẹp hòi và cứng rắn của xã hội, và công việc ấy dĩ nhiên không sao tránh khỏi những va chạm vào đời sống cá nhân, gây tranh chấp và đau khổ cho cá nhân, gây nơi tâm hồn họ nhiều mặc cảm tai hại, làm cho con ngƣời sống trong những xã hội văn minh giả tạo ấy mất cả tính thành thực hồn nhiên và ngây thơ của con trẻ ( 亦子人心 ) 65 mà chỉ có những bậc thánh, bậc hiền mới tìm lại đƣợc mà thôi. Vai trò của Lão học, trái lại, là tìm cách để phục hồi cái tâm trạng hồn nhiên kiến tố bảo phác ấy của con ngƣời, chẳng những bằng sự chữa trị những thái quá của sự buộc ràng về lễ giáo gây thành những mặc cảm tội lỗi có khi làm tăm tối cả cuộc đời, nó lại còn có sứ mạng phát huy cái đức hồn nhiên, thực thà thƣờng gọi là tự nhiên, nghĩa là trở lại với cái ngƣời thật của mình. Nhiều tâm hồn quá nhạy cảm không sao chịu nổi sự đàn áp của chế độ quá khắt khe của luân lý và xã hội nên khi gặp phải những dồn ép quá nặng nề mãnh liệt biến thành những tình trạng thác loạn gây nên nhiều tội ác hết sức đau thƣơng. Phải chăng đó là một hậu quả mà ta phải trả để bù vào những lợi ích không thể chối cãi của những xã hội có tổ chức rất quy mô theo Khổng học? Âu đó cũng là một chân lý mà Lão Tử thƣờng nhắc nhở: không có một cái hay nào mà không có cái dở của nó kèm bên. Tóm lại, muốn thực hiện cái Đạo nơi ta, đầu tiên phải hết sức thành thực đối với mình và đối với ngƣời. Điều trở ngại lớn nhất trên con đƣờng giải thoát là cái sống giả dối, sống theo ngƣời mà không dám sống theo mình: phải có can đảm trở về với con ngƣời thật của mình, con ngƣời tự nhiên của mình, đừng có vì một lẽ gì mà che giấu sự thật. Nghĩa là bất cứ gặp trƣờng hợp nào đừng ham khen, đừng sợ chê, đừng để dƣ luận chi phối đến đỗi không bao giờ dám sống thành thật với mình.trong khi giao thiệp với đời, cần phải dứt tuyệt cái thói mang những mặt nạ của kẻ khác, của học thuyết này, học thuyết nọ, của giáo lý này, giáo lý kia... để mà đối xử với ngƣời. Nên nhớ: bảo cần phải trở về với Con Người Thật của mình, là bảo phải kiến Tố, bảo Phác nghĩa là trở về với con ngƣời vô kỷ, trở về với Chân Tánh, chứ không phải trở về sống theo cái con ngƣời ích kỷ của mình, tức là cái con thú hết sức vị thân vị kỷ và tham dục không bờ bến của mình (bản ngã). Ngƣời đời thƣờng cho kẻ sống trong giả dối là ngƣời khéo ở, dễ đƣợc lòng ngƣời và thành công trên con đƣờng xử thế 66. Trái lại, ngƣời theo con đƣờng Giải thoát cần phải 64 Trực chỉ nhân tâm. (Goldfish). 65 Diệc tử chi tâm. (Goldfish). 66 Đọc quyển Comment se faire des amis của D. Carnegie.

46 lánh xa cái thuật xử thế theo lối ấy, mà phải dám sống thành thật và hết sức giản dị, không cần cân nhắc lợi hại, không vụ thành công, không sợ thất bại, thản nhiên ở, thản nhiên đi, nghĩa là ngƣời không tham danh, không tham lợi (vô kỷ, vô công, vô danh). Tóm lại, muốn thực hiện đƣợc Con Người Thật của mình, phải dám sống thành thật xem thƣờng khen chê của dƣ luận, phải có một tinh thần bất úy 67, nghĩa là không còn biết Sợ bất cứ một cái gì cả trên đời. ----Bất khả đắc nhi thân, ----Bất khả đắc nhi sơ, ----Bất khả đắc nhi lợi, ----Bất khả đắc nhi hại, ----Bất khả đắc nhi quý, ----Bất khả đắc nhi tiện (chƣơng 56) 68 Ngƣời Giải thoát là ngƣời đã đạt đến trạng thái điềm đạm chi cực, nghĩa là không còn có thể lấy sự thân, sơ, lợi, hại, quý, tiện... mà dụ dỗ hay dọa nạt đƣợc nữa, tức là ngƣời không còn có một thế lực ngoại giới nào làm chuyển động tâm hồn đƣợc nữa 69. Tuy nhiên, ta không nên xem Lão học là cái học chống báng xã hội, phá rối trật tự đã an bài của xã hội, xúi giục những cuộc cách mạng bạo động, mà phải hiểu rằng nó là một phƣơng pháp giải thoát tinh thần cá nhân trƣớc hết, một phƣơng pháp cách mạng nhãn quan về vấn đề Vũ trụ và Nhân sinh. Ta cũng nên biết rằng cách mạng xã hội mà dùng đến bạo động là sái rất xa vời chủ trƣơng bất tranh dùng nhu nhược thắng cương cường của Lão Tử, vì theo ông, cường lương giả, bất đắc kỳ tử (Ch.42): dùng bạo động, chết bạo tàn. Cách mạng bạo động để chống độc tài và lắm khi còn đem lại cho nhân dân một thứ độc tài tàn nhẫn hơn cái chế độ độc tài mà mình mong muốn hủy diệt nữa. Giải thoát con ngƣời khỏi những gông cùm của ƣớc lệ giả tạo xã hội đâu có nghĩa là khinh thƣờng hay bất chấp những ƣớc lệ ấy, mà thực sự, là không để cho mình bị lụy vì nó mà làm sai Thiên Chân, mất Thiên Tánh, mà biết dùng nó làm phƣơng tiện, chứ không vô tâm để nó sai sử nhƣ một con cờ, bị nó xem mình nhƣ một món đồ chơi 70. Vì khuynh hƣớng của Lão học là thiên về Tự Nhiên, cho nên ngƣời ta thấy phần đông các nhà Đạo học đều là những ngƣời thích sống trong cảnh Thiên Nhiên hơn là sống giữa đời sống giả tạo của con ngƣời và tránh xa phiền lụy của những buộc ràng của Nghi Lễ... Giữa tạo vật thiên nhiên ngƣời ta cảm thấy tâm hồn thƣ thái, cởi mở... Dù văn minh nhân tạo có hùng vĩ đến đâu cũng không sao hùng vĩ bằng cái hùng vĩ của Thiên Nhiên, và 67 Xem quyển Cái dũng của Thánh Nhân (cùng một tác giả) 68 Xem quyển Đạo Đức kinh (Bản dịch của Thu Giang). 69 Câu này của Đ.Đ.K. có phần nhƣ giống với câu Phú quý bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất của Nho gia, nhƣng sự thật có khác xa là vì ngƣời theo Lão không giống với ngƣời theo Khổng ở chỗ một đàng thì không nô lệ một bản giá trị về đạo đức hay luân lý nào cả, một đàng thì còn nô lệ theo một bảng giá trị về điều Thiện lẽ Ác theo một hệ thống luân lý mẫu nực nào. 70 Thuyết Tự Nhiên, dĩ nhiên đƣa đến thuyết Vô Vi, nghĩa là không dùng đến tƣ tâm mà xen vào sự phát huy Bản tánh của vạn vật.

47 những ngƣời gần với cái học của Lão-Trang phần nhiều là những thi sĩ và nghệ sĩ có một tâm trạng Huyền Đồng cùng tạo vật. NHÂN NGHĨA THÁNH TRÍ 仁義聖智 Chƣơng 19 Lão Tử viết: Tuyệt Thánh, khí Trí, dân lợi bách bội; Tuyệt Nhân, khí Nghĩa, dân phục hiếu từ ( 絕聖棄智, 民利百倍 ; 絕仁棄義, 民復孝慈 ) Dứt Thánh bỏ Trí, dân lợi trăm phần; dứt Nhân bỏ Nghĩa, dân lại thảo lành. Chƣơng 38 ông lại nói: Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức. Hạ đức bất thất đức, thị dĩ vô đức... Cố thất Đạo nhi hậu Đức, thất Đức nhi hậu Nhân, thất Nhân nhi hậu Nghĩa, thất Nghĩa nhi hậu Lễ. Phù Lễ giả, trung tín chi bạc, nhi loạn chi thủ 上德不德, 是以有德. 下德不失德, 是以無德 故失道而後德, 失德而後仁, 失仁而後義, 失義而後禮. 夫禮者, 忠信之薄, 而亂之首. Đức mà cao là không có đức, bởi vậy mới có Đức. Đức mà thấp là không mất đức, nên không có Đức... Vì vậy mất Đạo rồi mới có Đức, mất Đức rồi mới có Nhân, mất Nhân rồi mới có Nghĩa, mất Nghĩa rồi mới có Lễ. Lễ chỉ là cái vỏ mỏng của lòng trung tín, mà cũng là đầu mối của hỗn loạn... Tại sao Lão Tử bảo phải dứt Thánh bỏ Trí, dứt Nhân bỏ Nghĩa? Ông sở dĩ khinh Nhân Nghĩa, là vì ông trọng Đạo Đức, nên mới xem Nhân Nghĩa Thánh Trí là không đủ để thực hiện cái Đạo nơi lòng. Theo ông, Đại Đạo phế, hữu Nhân Nghĩa, Huệ Trí xuất, hữu Đại Ngụy. Lục thân bất hòa hữu hiếu từ. Quốc gia hôn loạn hữu trung thần (Ch.18) ( 大道廢, 有仁義 ; 慧智出, 有大僞 ; 六親不和, 有孝慈 ; 國家昏亂, 有忠臣 ) Đạo lớn mất mới có Nhân Nghĩa, Trí Huệ sanh, mới có dối trá, lục thân chẳng hòa, mới có hiếu từ, nƣớc nhà rối loạn, mới có tôi ngay. Dùng đến Nhân Nghĩa là khi Đạo nơi ngƣời đã mất, con ngƣời đã sống trong chia rẽ của nội tâm và ngoại giới. Bấy giớ mới có dùng đến Nhân Nghĩa để mà vá víu những cái sống riêng tƣ lầm lạc của tƣ ngã. Bấy giờ mới dùng đến trí mƣu mà trị nƣớc: Dĩ Trí trị quốc, quốc chi tặc; bất dĩ trí trị quốc, quốc chi phúc (Ch.65) ( 以智治國, 國之賊, 不以智治國, 國之福 ) Lấy trí mà trị nƣớc, là cái vạ của nƣớc, không lấy trí mà trị nƣớc, là cái phúc của nƣớc. Chữ Trí 智 ở đây, là do câu dân chi nan trị, dĩ kỳ trí đa (Ch.65) dùng làm đối chứng, và có nghĩa là đa mưu túc trí, mƣu mẹo khôn xảo, chứ không phải là ám chỉ sự sáng suốt thực thà theo nghĩa thông thƣờng.

48 Những cái mà ta thƣờng gọi là Nhân, Nghĩa,Thánh, Trí... đều là những đức tính của kẻ đã làm mất Đạo nên Lão Tử chê nó là không đủ cho bậc Chí Nhân ( 至仁 ), vì bậc Chí Nhân là kẻ pháp Thiên, pháp Đạo, pháp Tự nhiên. Tức là kẻ sống theo Đạo, theo Tự nhiên 71. Hơn nữa, Đạo là cái Sống Một, ngƣời bắt chước theo Đạo ( 法道 ) sẽ không còn phân nhĩ ngã, nội ngoại cho nên không còn thấy có Ta có Ngƣời, mà thấy Ta là Ngƣời, Ngƣời là Ta. Còn lấy Nhân lấy Nghĩa mà xử với nhau, là vì còn thấy Đó không phải Đây, Đây không phải Đó, nghĩa là còn thấy chia lìa nhau, đó là nhãn kiến nhị nguyên, chƣa phải nhận thức của con ngƣời hòa hợp cùng với Đạo Thể ( 本體之道 ). Ngƣời mà còn dùng đến Nhân Nghĩa là ngƣời đã sống xa lìa với Đạo rồi vậy: Thất Đạo nhi hậu Đức, thất Đức nhi hậu Nhân, thất Nhân nhi hậu Nghĩa, thất Nghĩa nhi hậu lễ... (Ch.38) 失道而後德, 失德而後仁, 失仁而後義, 失義而後禮 Ở chƣơng 5, Lão Tử bảo: Thiên Địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu; Thánh Nhân bất Nhân, dĩ bách tánh vi số cẩu ( 天地不仁, 以萬物為芻狗 ; 聖人不仁, 以百姓為芻狗 ) Trời đất không có Nhân, coi vạn vật nhƣ loài chó rơm. Thánh Nhân không có Nhân, coi trăm họ nhƣ loài chó rơm. Chữ bất Nhân ở đây là ám chỉ lòng vô tƣ, không thiên vị của Trời đất; luật của Tự nhiên, không riêng cho vật nào cả, không vì kẻ rét mà dẹp mùa đông. Luận về Sô Cẩu, Trang Tử viết: Con chó rơm lúc chƣa bày ra để cúng tế, thì đƣợc cất kỹ trong rƣơng bọc bằng gấm vóc; thầy cúng chay tịnh rồi mới dám đem nó ra. Kịp khi bày ra và cúng tế xong thì lại đem quăng nó ra ngoài đƣờng cho kẻ đi đƣờng đạp lên trên lƣng nó, kẻ lƣợm củi hốt về mà chụm, thế thôi! Nếu lại còn lƣợm nó mà đem cất giữ trong rƣơng, mặc cho gấm vóc, thì nếu nó không làm cho ta bị chiêm bao, cũng đến làm cho ta bị bóng đè (...) cho nên pháp độ, lễ chế của Tam Hoàng, Ngũ Đế không cần ở chỗ giống nhau mà cần ở chỗ trị đƣợc thiên hạ, nhƣ cam, lê, bƣởi, quít, tuy mùi vị khác nhau, nhƣng đều ăn ngon cả. Bởi vậy, Lễ Nghĩa pháp độ là cái mà ta phải biết tùy thời mà thay đổi cho thích hợp. Nay lấy ngay nhƣ vƣợn khỉ mà cho mặc áo của ông Châu ắt nó cắn rứt, cào xé, vứt bỏ hết, thế mới vừa lòng cho. Xã hội chế độ xƣa và nay khác nhau xa (cố mà đem cái xƣa tròng vào cái nay) thì cũng nhƣ khỉ vƣợn mặc áo ông Châu vậy. Cho nên Tây Thi đau tim, nhăn mặt mà thiên hạ cho là đẹp. Có ngƣời đàn bà rất xấu kia, thấy thế, về bắt chƣớc ôm tim mà nhăn mặt, những kẻ giàu trong làng thì đóng chặt cửa không dám ra, kẻ nghèo thấy nó dẫn vợ con bỏ chạy... (Thiên Vận) Bình giảng câu Thiên Địa bất nhân, Trần Trụ viết: Trời đất sinh vạn vật, như sinh cây cỏ. Xuân thì đâm chồi, thu thì rụng lá. Đang sinh thì quý, đang rụng thì bỏ đi. Xuân tới sinh lại, nhưng không còn là cây cỏ ngày xưa. Thánh nhân đối với trăm họ cũng thế. Trăm họ, tức là trăm quan lãnh phần thi hành chánh giáo. Trăm quan ngày nay không 71 Xem bài Chí Nhân trong Trang Tử Nam Hoa Kinh.

49 còn là trăm quan ngày xưa thì chánh giáo ngày xưa cũng không dùng cho ngày nay được nữa... Như thế, ta thấy Lão Tử phản đối thuyết phục cổ, như Trang Tử thường bài bác Nho Gia nói Nhân Nghĩa để tâng bốc tiên vương.... HỌC 學 Cũng nhƣ về Nhân, Nghĩa, Thánh, Trí, Lão Tử chủ trƣơng 絕學無憂 Tuyệt học vô ƣu (dứt học, không lo) là tại sao? Có kẻ cho rằng Lão Tử chủ trƣơng ngu dân... thực sự thì nhƣ thế nào? Cái học mà ông bảo nên dứt đi, tức là cái học nhị nguyên, cái học chi ly vụn vặt theo đuổi sự vật bên ngoài mà không biết trở về gốc, tức là cái Đạo nơi lòng mình. Cái học của con ngƣời thƣờng thiên về hƣớng ngoại, biện phân Thiện Ác, Thị Phi, Vinh Nhục... đó là cái học xa với Đạo. Bởi vậy ông mới nói: Dứt học, không lo; dạ với ơi, khác nhau chỗ nào? Lành với dữ, khác nhau ở đâu? ( 絕學無憂. 唯之與阿, 相去幾何? 善之與惡, 相去若何?) 72 (Tuyệt học vô ƣu, duy chi dữ a, tƣơng khứ kỷ hà? Thiện chi dữ ác, tƣơng khứ nhƣợc hà?). Đƣợc ngƣời ta dạ đâu phải là vinh, bị ngƣời ta ơi đâu phải là nhục... Thực ra hai chữ dạ và ơi đủ đâu phân vinh nhục. Cũng nhƣ thiện và ác, khác nhau chỗ nào? Chẳng qua là bề mặt bề trái của bất cứ mọi sự vật nào trên đời... Còn chia phân Thiện Ác, Vinh Nhục... là còn sống trong cái sống chia lìa của tƣ ngã xa lìa với cái Sống Một, thì tránh sao khỏi lo lự viển vông. Bởi vậy, ở chƣơng 48 ông lại nói thêm: Vi học nhật ích, vi Đạo nhật tổn ( 為學日益, 為道日損 ) Theo học càng ngày càng tăng, theo Đạo càng ngày càng giảm. Tăng cái gì, tăng sự phiền phức rƣờm rà chi li vụn vặt. Trái lại, kẻ theo cái học về Đạo, thì trở về nguồn gốc, nên càng ngày càng tiết giảm những cái vụn vặt chi li vô cùng phiền phức, và đồng thời dục vọng càng ngày càng giảm thêm... đến mức Vô Vi... Đó là cái học cần phải dứt đi, để trở về với Đạo Một, và cái học cần thiết cho ngƣời là cái học trở về nguồn, tức là phải học bất học. Chƣơng 64 ông nói: Học bất học, phục chúng nhân chi sở quá ( 學不學, 復眾人之所過 ) Học cái không thể học đƣợc, giúp cho chúng nhân hối mà trở về. Chữ học là chỉ sự học hành theo nghĩa thƣờng, chữ bất học là ám chỉ cái không thể học, vì Đạo là cái bất khả ngôn luận, bất khả tƣ nghị... Đạo khả đạo phi thường Đạo. Cho nên mới nói: Bực Thánh nhân mà biết học về Đạo, thì khiến đƣợc lòng dân hối trở về với nguồn gốc. Câu: Thị dĩ Thánh nhân, dục bất dục, 72 Chƣơng 20. (Goldfish).

50 bất quý nan đắc chi hóa, học bất học, phục chúng nhân chi sở quá, cần phải dịch nhƣ thế này mới nhất trí hơn: Bởi vậy bậc Thánh nhân, muốn cái không thể muốn, không quý của khó được, học cái không thể học, giúp chúng nhân hối mà trở về. Tóm lại, về chữ Học, Lão Tử chủ trƣơng: 1) Không nên theo đuổi cái học la tập của Nhị Nguyên, chia lìa cái Sống Một làm hai, tức là cái học biện phân Nhĩ Ngã, Nội Ngoại, Thị Phi, Vinh Nhục, Thiện Ác v.v 2) Mà cần phải học cái không thể học, tức là học cái bất khả tri, bất khả đạo, bất khả danh, nghĩa là học về cái trở về nguồn gốc, tức là Đạo. PHẢN VÀ PHỤC 反復 Hai chữ Phản và Phục có thể xem là nòng cốt của học thuyết Lão Tử. Chƣơng 40 ông nói: Phản giả, Đạo chi động ( 反者道之動 ) Cái động của Đạo là trở ngược lại. Nhƣng từ cái Một biến qua Vạn hữu, từ Vạn hữu trở lại cái Một, Lão Tử quan niệm nhƣ thế nào? Chƣơng 42 ông nói: Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị, Nhị sinh Tam, Tam sinh Vạn Vật. Vạn Vật phụ Âm nhi bảo Dƣơng, Xung khí dĩ vi hòa ( 道生一, 一生二, 二生三, 三生萬物. 萬物負陰而抱陽, 沖氣以為和 ) (Đạo sinh Một, Một sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinh Vạn Vật. Trong Vạn Vật không vật nào mà không cõng Âm và bồng Dương. Nhân chỗ xung nhau mà hòa với nhau). Nhất đây là nói về Bản Thể của Đạo; Nhị là trỏ vào Âm và Dương; tức là hai nguyên lý mâu thuẫn đồng có trong mọi vật, vì trong Vạn Vật, không vật nào là không cõng Âm và bồng Dƣơng. Giữa sự xô xát, xung đột của hai nguyên lý ấy, có một cái gì nắm giềng mối và làm cho chúng dung hòa nhau: đó là nguyên lý thứ Ba, cái Dụng của Đạo, chỗ mà Lão Tử gọi xung khí dĩ vi hòa. Điều mà ta nên để ý là xung nhau để mà hòa nhau, chứ không phải xung nhau để mà thủ tiêu lẫn nhau. Nếu không có sự đun đẩy của hai nguyên lý Âm Dƣơng thì không có Động, mà nếu không có sự có mặt cái thứ ba kia, mà Lão Tử gọi là xung khí dĩ vi hòa thì không có một sự vật nào thành đƣợc. Cho nên mới nói: Tam sinh Vạn Vật.

51 Có ngƣời bảo rằng cái học của Lão Tử thoát thai nơi Kinh Dịch. Lời nói ấy không phải là không có lý do. Xét kỹ thì sách của Lão Tử có sau Kinh Dịch, mà xét rõ triết lý của Kinh Dịch, nhất là ở quẻ Phục 復, thì lại thấy rõ ràng có nhiều chỗ tƣơng đồng. Theo Dịch Kinh thì Dƣơng Âm là hai nguyên lý mâu thuẫn, có những đặc tính riêng khác biệt nhau, nhƣ cƣơng nhu, nóng lạnh, sáng tối... Tuy nghịch nhau, nhƣng để mà bổ túc nhau 73, chứ không phải để mà thủ tiêu lẫn nhau. Hễ Âm cực thì Dƣơng sinh, Dƣơng cực thì Âm sinh, vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản, nhƣng khi phản biến, thì lại biến thành đối đích của nó. Lạnh biến ra nóng, nóng biến ra lạnh, tối biến ra sáng, sáng biến ra tối. Tại sao Âm lại biến ra Dƣơng, Dƣơng lại biến ra Âm, lật qua lật lại ( 反復 ) nhƣ thế? Là vì trong Âm có ẩn phần Dƣơng, trong Dƣơng có ẩn phần Âm, chứ thực ra không bao giờ có một cái gì thuần Âm hay thuần Dƣơng cả: âm trung chi dương, dương trung chi âm. Luật mâu thuẫn là luật đầu tiên của Kinh Dịch. Nhƣng chỉ đợi lúc nào Âm hay Dƣơng phát triển đến mức cùng cực của nó thì phần đối đích, mâu thuẫn chứa trong lòng nó mới phát sinh ra đƣợc mà thôi. Đó cũng là nhận xét chung của các nhà tƣ tƣởng biện chứng Âu Tây nhƣ Heraclite và Hégel: Mỗi vật đều có chứa mâu thuẫn của nó. Nho gia là Trình Di bàn về quẻ Phục, cò những nhận xét sau đây là xác đáng: Vật bất khả dĩ chung tận... Vật vô bác tận chi lý... Âm cực tắc dương sinh; dương bác cực ư thượng nhi phục ư hạ, cùng thượng nhi phản hạ dã (Vật, không thể đến mức cùng tận đƣợc Vật mà bị tiêu hủy đến cùng tận là điều phi lý vậy. Âm mà lên đến cực điểm thì là dọn đƣờng cho dƣơng sinh. Dƣơng mà bị đẽo ở trên cùng tột, thì lại phản sanh ra ở dƣới). Quẻ Phục ở liền tiếp với quẻ Bác 74. Quẻ Bác tƣợng trƣng năm hào âm ở dƣới và một hào dƣơng trên cùng tột (hào thƣợng cửu). Dƣơng hào ở hào thƣợng cửu, nơi quẻ Kiền có 73 Nói rằng hai nguyên lý Âm Dƣơng ấy bổ túc nhau, thực sự cũng không thật đúng, là vì nói thế, lại mặc nhiên nhận rằng hai nguyên lý ấy có chỗ khác nhau... Mà phải nói rằng: Âm là Dƣơng, Dƣơng là Âm, Lành là Dữ, Dữ là Lành, Phải là Quấy, Quấy là Phải... Nóng là Lạnh, Lạnh là Nóng... nghĩa là cả hai đều là Một, nhƣng khác độ. Hai chữ bổ túc là danh từ cƣỡng dụng để tạm miêu tả trạng thái lúc độ và lượng của chúng cách xa nhau. 74 Quẻ Bác và quẻ Phục (Goldfish).

52 nói: thượng cửu, kháng long hữu hối ( 上九亢龍有悔 ). Dƣơng mà lên đến cực độ, thì sẽ bị biến dịch, cho nên mới nói: có ăn năn (hữu hối). Trình Di bàn về quẻ Phục có câu: vật, không trọn hết sự đẽo (bác) mà đến chỗ cùng tận của nó ở trên quẻ Bác, thì quay trở về dƣới... Vật, không vật nào có thể đẽo hết đƣợc, cho nên sự đẽo mà đến cùng cực thì phải trở lại (phục). Nghiên cứu tƣờng tận quẻ Phục ở Kinh Dịch, ta có thể nhận thấy rõ Lẽ Trời: Phục kỳ kiến thiên địa chi tâm hồ (Do quẻ Phục mà ta có thể thấy được cái Tâm của Trời Đất) (Hệ từ truyện hạ). Rất có thể Lão Tử nhân đó mà nghĩ ra học thuyết của ông lấy chữ Vô 無, tức là lấy Âm cực làm căn bản: Trí hư cực, thủ tịnh đốc ( 致虛極, 守靜篤 ). Kẻ nào đạt đến chỗ cùng cực của Hƣ Không (Chân Không) là kẻ đã đứng vững trong cái Tịnh. Hễ Âm cực thì Dƣơng sinh, Tịnh cực thì Động sinh. Vạn sự vạn vật đều hễ phát đạt đến cực độ thì lại phản phúc biến thiên, chuyển thành đối đích của nó. Bởi vậy, ta không lạ gì chủ trƣơng xử thế của ông luôn luôn giữ phần tiêu cực. Hào Dƣơng của quẻ Chấn, mới thật là Dƣơng trƣởng (Trƣởng nam), còn hào Dƣơng ở quẻ Cấn, là Dƣơng tiêu 75, nghĩa là hào Dƣơng đã suy nhƣợc đến cùng. Sự cƣơng cƣờng của hào Dƣơng ở quẻ Chấn, là nguồn gốc sinh ra Vạn Vật, nên mới nói: Vạn Vật xuất hồ Chấn ( 萬物出乎震 ) (Quái truyện). Lấy đấy mà suy, ta thấy dụng ý Lão Tử toàn dùng phép tiêu cực là để gây đƣợc nguồn Động cƣờng tráng nhất, cho nên ở quẻ Phục mới nói: Phục hanh, cương phản, động nhi dĩ thuận hành... ( 復亨, 剛反, 動而以順行 ) (Hanh là hanh thông, Phục là cƣơng đã trở lại cƣờng Kiện nên Phục đƣợc gọi là hanh thông, vì cái động của hào Dƣơng này là con đƣờng thuận của Trời Đất. Phản phục kỳ Đạo, thất nhật lai Phục, thiên hành dã ( 反復其道, 七日來復天行也 ). Con đƣờng thuận, là con đƣờng từ dƣới lên trên. Dƣơng hào ở hào đầu tức là thuận đạo, càng ngày càng lớn lên. Nho gia là Chu Hy cũng nhận thấy: Nội Chấn, ngoại Khôn, đó là cái tƣợng Dƣơng động ở dƣới mà theo đƣờng thuận đi lên (...) Phục là Dƣơng phục sinh ở dƣới, Dƣơng khí đã bị đẽo hết thì là quẻ thuần Khôn, tức là quẻ thuộc về tháng 10, mà khí Dƣơng đã sinh ở dƣới hàm chƣa hơn tháng thì cái thể của một phần dƣơng khí mới thành mà trở lại, cho nên tháng 11 thuộc về quẻ Phục. Khí dƣơng đã trở lại, nên có Đạo hanh thông. Tại sao lại gọi thất nhật lai phục? Là vì qua tháng 5 là quẻ Cấn, một phần Âm mới sinh, và sinh sinh đến quẻ Phục là 7 hào. Hiểu đƣợc cái cƣơng cƣờng của quẻ Phục, mới rõ đƣợc thâm ý dùng phƣơng pháp thuần tiêu cực của Lão, mới hiểu đƣợc những chủ thuyết nhu nhược thắng cương cường, 75 Dƣơng tiêu 昜消 : là Dƣơng lần lần suy yếu. Quẻ Chấn thì dƣơng ở hào đầu, tức là chỗ trƣớc nhất của sự phục hồi dƣơng khí. Dƣơng này là dƣơng trƣởng. Quẻ Cấn thì dƣơng ở hào 3 là hào cùng cực, gọi là dƣơng tiêu. Hào dƣơng ấy đã đến chỗ Vật cùng tắc biến).

53 bất tranh nhi thiện thắng, vô vi nhi vô bất vi, tuy Tịnh mà Động, nghĩa là mới hiểu rằng Vô Vi của Lão Tử đâu phải là im lìm bất động, mà là cốt dùng Tịnh cực để cho Động sinh, một cái Động cƣơng cƣờng của hào Dƣơng của quẻ Chấn. Quẻ nội Chấn, nhất dƣơng sinh, tức là tiếng sấm do âm dƣơng xô xát nhau mà thành, nhƣng đƣơng lúc khí Dƣơng còn nhỏ, chƣa thể phát ra. Quẻ Phục, trên là Khôn, dƣới là Chấn, gọi là quẻ Địa Lôi Phục, nghĩa là sấm ở trong lòng đất. Khí Dƣơng mới sinh ở dƣới mà còn rất nhỏ, nên cần yên lặng mà sau nó mới lớn lên đƣợc... Ở bản thân, sau khi: trí hư cực, thủ tịnh đốc, thì cũng nên yên lặng để mà nuôi dƣỡng khí Dƣơng. Bởi vậy ta mới thấy chủ trƣơng của Lão Tử là thanh tĩnh Vô vi. Thanh tĩnh Vô vi là điều kiện cần thiết để phục hồi khí Dƣơng và cũng là để nuôi khí Dƣơng sắp sửa phát huy dƣơng lực, chứ không phải ẩn dật để mà hƣởng thú an nhàn cực lạc trong sự lƣời biếng ích kỷ. Trong trời đất, bất cứ một cuộc biến động lớn lao nào đều đi sau một sự cực kỳ yên lặng. Các bậc vĩ nhân trƣớc khi khởi công làm một đại sự gì luôn luôn lẫn trốn một thời gian trong cô tịch. Đó là yên lặng để nuôi khí Dƣơng nhƣ Thích ca, Jésus chẳng hạn... Xem đó, ta có thể nhận rằng Lão Tử rất có thể nhân quẻ Phục ở Dịch Kinh mà suy ra cái thuyết Vô Vi của ông, thể theo cái đầu mối của sự sinh hóa trong Trời đất bắt đầu ở chỗ cực âm, động thành quẻ Phục, sinh lực bắt đầu manh nha trong lòng Đất. Để giải nghĩa câu Phản Phục kỳ Đạo... thiên hành dã ( 反復其道 天行也 ), ở Hệ từ truyện hạ có câu: Nhật vãng tắc nguyệt lai, nguyệt vãng tắc nhật lai, nhật nguyệt tương thôi nhi minh sanh yên. Hàn vãng tắc thử lai, thử vãng tắc hàn lai, hàn thử tương thôi nhi tuế thành yên ( 日往則月來, 月往則日來, 日月相推而明生焉. 寒往則暑來, 暑往則寒來, 寒暑相推而歲成焉 ) (Mặt trời qua thì mặt trăng lại, mặt trăng qua thì mặt trời lại, mặt trời mặt trăng cùng xô đẩy nhau mà có sáng. Lạnh qua thì nóng lại, nóng qua thì lạnh lai, lạnh nóng cùng xô đẩy nhau mà năm mới thành vậy). Vật dƣới trời đều phản phục bất thƣờng... Ở quẻ Phục trong Kinh Dịch, Nho gia là Chu Hy cũng nói: Hễ Tĩnh cực thì Động sinh, Ác cực thì Thiện sinh. Hễ có sanh, thì có tử, mà có tử mới có sanh, lên rồi xuống, xuống rồi lên, phản phúc biến động không ngừng. Và, để phòng sự phản phúc biến thiên vì đã để cho sự vật phát đạt đến cực điểm, mà Lão Tử khuyên ta: Biết đủ (tri túc), biết dừng (tri chỉ), biết để thân ra sau (hậu kỳ thân), biết để thân ra ngoài (ngoại kỳ thân), biết lấy cái tiện làm gốc, lấy cái thấp làm nền (dĩ tiện vi bổn, dĩ hạ vi cơ)... Cũng để biểu diễn cái luật cốt yếu của cái đạo biến hóa ấy, ở chƣơng 25 ông nói: Đại viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản ( 大曰逝, 逝曰遠, 遠曰反 ) Lớn là tràn phắp, tràn khắp là đi xa, đi xa là trở về. Câu này có nghĩa là bất cứ sự vật nào trên đời, hễ phát đạt bành trƣớng đến cực điểm sẽ bị đại biến: Vật cùng tắc biến, nghĩa là biến trở lại cái mâu thuẫn trƣớc kia của nó. Nó là một luật thường của tạo hóa. Vì vậy, ông mới nói: Họa hề phúc chi sở ỷ, phúc hề họa chi sở phục, thục tri kỳ cực ( 禍兮福之所倚, 福兮禍之所伏. 孰知其極 ) Họa là chỗ dựa

54 của Phúc, Phúc là chỗ núp của Họa. Ai biết được đâu là chỗ cùng cực của nó? Biết đâu Phúc đó mà Họa đó, mà Họa đó lại Phúc đó? Phúc rồi Họa, Họa rồi Phúc xen lẫn tiếp tục nhau không biết đâu là dứt. Hay nói một cách khác, không bao giờ có Phúc mà không có một cái Họa ẩn trong, cũng nhƣ không bao giờ có Họa mà lại không có cái Phúc ẩn trong. Đó là bề mặt bề trái của sự đời, cũng nhƣ có Thiện thì có Ác, có Thị ắt có Phi, có Vinh ắt có Nhục... Bởi vậy gặp May, phải phòng cái Rủi do cái May ấy đƣa đến! Và gặp Rủi, biết đâu nó lại không phải là cái May sắp đến cho mình! Chƣơng 22, Lão Tử viết: Khúc tắc toàn, uổng tắc trực, oa tắc doanh, tệ tắc tân, thiểu tắc đắc, đa tắc hoặc. Thị dĩ Thánh nhân bảo Nhất... ( 曲則全, 枉則直, 窪則盈, 敝則新, 少則得, 多則惑 是以聖人抱一 ) Đạo là quân bình, không cho có cái gì thái quá. Thái quá ở đây, thì bất cập ở kia. Bất cập ở đây, thì thái quá ở kia. Cho nên cái gì khuyết, thì Đạo sẽ bù vào cho đủ lại, vẹn toàn lại... Cái gì cong, thì Đạo sẽ làm cho ngay lại. Cái gì sâu, thì Đạo sẽ lấp lại cho đầy. Cái gì cũ, thì Đạo sẽ làm cho mới lại... Ít thì lại đƣợc, nhiều thì lại mê Chƣơng 23, ông nói thêm: Phiêu phong bất chung triêu, sậu vũ bất chung nhật ( 飄風不終朝, 驟雨不終日 ) Gió lốc không thổi suốt một buổi mai, mƣa dào không mƣa suốt một ngày trƣờng. Đạo rất ghét những gì thái quá, cho nên ông khuyên ta, nếu cần phải làm thì hãy khứ thậm, khứ xa, khứ thái ( 去甚, 去奢, 去泰 ), nghĩa là hãy trừ khử những gì thái quá, vì Xí giả bất lập, khóa giả bất hành 企者不立, 跨者不行 (Ch.24) (Nhón gót lên thì không đứng vững, xoạc chân ra thì không bƣớc đƣợc): cái thái quá sẽ làm mất thăng bằng. Để minh chứng cái định luật phản phục, không chƣơng nào nói rõ ràng bằng chƣơng 36: Tương dục hấp chi, tất cố trương chi. Tương dục nhược chi, tất cố cường chi. Tương dục phế chi, tất cố hưng chi. Tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi ( 將欲歙之, 必固張之. 將欲弱之. 必固强之. 將欲廢之, 必固舉之. 將欲奪之, 必固與之 ) Hễ hòng muốn thu hút đó lại, là sắp mở rộng cho đó ra. Hòng muốn làm yếu đó, là sắp làm đó mạnh lên. Hòng muốn vứt bỏ đó, là sắp làm hƣng khởi đó. Hòng muốn cƣớp đoạt đó, là sắp ban thêm cho đó. Tóm lại, hễ làm cho Âm cực, là dọn đƣờng cho Dƣơng sinh. Chứ không bao giờ dùng Âm mà thủ tiêu Dƣơng, hay dùng Dƣơng mà thủ tiêu Âm. Cho nên kẻ sáng suốt, bao giờ cũng chịu đứng sau để đƣợc đứng trƣớc, đứng dƣới thấp để đƣợc ngôi cao, và lâu dài... Cũng cùng một ý đó, nơi chƣơng 42 ông nói: tổn chi nhi ích, ích chi nhi tổn (bớt là thêm, thêm là bớt) ( 損之而益, 或益之而損 ). Tại sao vậy? Cái nhìn của ngƣời theo Đạo là cái nhìn bao trùm, thấy nhân loại nhƣ một cơ thể chung, thấy mỗi sự mỗi vật là một cái Toàn thể (un Tout). Và xem mọi sự mọi vật là những phần tử của một cái Sống chung cũng nhƣ trong nhân loại ngƣời theo Đạo không phân chia màu da, dân tộc. Vì vậy ông không có những quan niệm rời rạc cá nhân, hay quốc gia, dân tộc. Ai có trồng cây mới thấy rõ cái nghĩa thâm sâu của câu bớt là thêm, thêm là bớt. Nếu đứng về phƣơng diện rời rạc của từng bộ phận của cái cây, thì ta thấy bớt là bớt, cũng nhƣ mất là mất, chứ không thấy đƣợc cái chỗ bớt là thêm, thêm là bớt. Nhƣng nếu đứng trong phƣơng diện toàn diện của cái cây mà xem thì bớt là thêm, thêm là bớt có thể quan niệm dễ dàng đƣợc. Những công việc tỉa nhánh bẻ lá của nhà

55 trồng nho không phải là công việc bớt là thêm hay sao? Những cây nho đƣợc ngƣời ta tỉa nhánh sẽ là những cây nho có trái sai; sinh lực của nó ở các lá nhánh bị tỉa bớt kia sẽ đổ dồn vào thân cây để giúp sức cho hoa trái. Tổn chi nhi ích, ích chi nhi tổn nhƣ câu tương dục hấp chi, tất cố trương chi, đều là công dụng của luật Quân Bình của Đạo. Bớt là bớt cái có dƣ để thêm vào chỗ bất cập, theo cái nghĩa Thiên chi Đạo tổn hữu dư nhi bổ bất túc ở chƣơng 77 ( 天之道損有餘而補不足 ). Đoạn văn trên đây: tương dục hấp chi, tất cố trương chi.. có một giá trị hết sức quan trọng trong thuyết Phản và Phục của Lão Tử. Đại ý của đoạn này là muốn bảo rằng: phàm muốn một việc gì thái quá, trái lại phải gặt lấy những kết quả ngƣợc với lòng mong muốn của ta. Lão Tử cũng có nói: không có cái lầm lẫn to tát nào bằng lòng ham muốn đạt cho kỳ đƣợc cái kết quả tích cực của một việc mà mình quá mong ƣớc (Cữu mạc đại ư dục đắc) 咎莫大於欲得 (Ch.46). Bất cứ một tình dục nào cũng đều có ba giai đoạn: khao khát, chiếm đoạt và chê chán. Không đâu biểu diễn luật Quân Bình của đạo rõ ràng bằng ở đoạn văn trên đây. Những cặp mâu thuẫn hấp trương, cường nhược, hưng phế, luôn đi đôi với nhau. Xin nhắc lại: Ngƣời ta quên rằng hễ âm cực là dọn đƣờng cho dương sinh, và trái ngƣợc lại hay sao? Cho nên đối với bản thân, cũng nhƣ đối với kẻ khác, ngƣời thông hiểu Đạo một cách sâu xa, không bao giờ chịu để cho một việc thái quá nào có thể xẩy ra: vật bất chí giả, tắc bất phản 76 ( 物不至者則不反 ). Đối với bản thân, không bao giờ nên để có sự dư thừa mà lại cần phải có sự bớt đi. Tự mình phế bỏ, để mà tự mình đƣợc hưng lên. Trái lại nếu muốn quá tự hưng tức lại là mình tự phế đấy! Ngƣời trị nƣớc cần phải có một nếp sống khắc khổ để tinh thần đƣợc lên cao. Cái công dụng của sự thiếu thốn trong đời ngƣời, làm cho con ngƣời trở nên thanh cao hơn là sự quá đủ, quá thừa. Kỳ tại Đạo dã, viết dư thực chuế hành, vật hoặc ố chi (Theo Đạo mà nói, thì: đồ ăn dƣ, việc làm thừa, ai cũng oán ghét) (Ch.24). Áp dụng nguyên lý trên đây trong phép xử kỷ tiếp vật, trong việc quốc gia xã hội, tâm lý hay xã hội, đều thấy ứng nghiệm. Đối với việc tu thân thì tiết chế tƣ dục hay hơn là thỏa mãn tƣ dục. Nếp sống khắc khổ của các vị tu sĩ đâu phải là không có lý do sâu sắc. Kẻ tự phụ kiêu căng thì tự mình làm hạ nhân cách và mất nhân tâm. Kẻ biết khiêm cung từ tốn lại là kẻ khéo nuôi dƣỡng và làm hƣng khởi lòng đạo đức của mình và đƣợc ngƣời đời mến chuộng. Cho nên mới nói đứng sau mà thành ra đứng trƣớc, ở dƣới thấp mà đƣợc ngồi trên cao. Về phƣơng diện tâm lý thì phàm sự nan cầu giai tuyệt mỹ, cập năng như nguyện hựu thường tình. Phàm sự khó cầu mong đƣợc thì bao giờ cũng tốt đẹp, đến khi chiếm đƣợc rồi thì việc ấy lại trở thành tầm thƣờng. Là tại sao? Đói khát thì ăn uống ngon lành, ăn no thì hết ngon, no quá sẽ sinh ra chán ghét. Có đau yếu mới nếm đƣợc cái thú 76 Chƣơng 4 sách Liệt Tử. Vật mà không đi đến chỗ cùng cực của nó, thì không phản biến lại đƣợc. - Đạo trị nƣớc cần phải thận trọng để ý đến câu nguyên tắc này mà đừng bao giờ dồn ép cái gì đến mức cùng độ. Nhà văn hiện đại Tây Phƣơng Maurice Maeterlinck cũng nhận xét rằng: parfois la pensée poursuivie vous conduit à opposé de ce qu on avait espère. On était partie pour chercher Oui, et l on rencontre Non. Il faut le dire. Il faut tout dire. (Le Sablier).

56 của sự khang kiện. Vợ chƣa cƣới quý hơn ngƣời vợ đã cƣới; vợ ngƣời đẹp hơn vợ mình: đó là thông bệnh của con ngƣời: thiếu thì mong, được thì chán. Ngƣời bị nhục dễ đƣợc vinh quang, nƣớc bị nhục dễ vƣợt lên địa vị cƣờng thịnh. Cho nên có thể nói: Nhục là điều kiện của Vinh, Nghèo là điều kiện của Giàu, Tối là điều kiện của Sáng, Quấy là điều kiện của Phải, Hư là điều kiện của Nên, thất bại là mẹ của thành công, và Đau khổ là điều kiện của Hạnh Phúc. Biết rõ định luật ấy, phần đông các nhà quyền mƣu thời Chiến Quốc áp dụng câu nói trên đây của Lão Tử để làm chính trị và tôn ông làm bậc Thầy, và nhân đó bị hậu thế gán cho ông là nhà mƣu thuật, há không phải là oan lắm hay sao? Heraclite cũng đồng một ý nghĩ nhƣ Lão Tử khi ông nói: Những trận đại thắng là những trận đại bại (Les plus grandes victoires sont les plus grandes défaites). Những nƣớc cƣờng thịnh là những nƣớc bắt đầu đi xuống, những văn minh cực thịnh là những văn minh bắt đầu suy vi. Những suy tàn đều nằm sẵn trong cái thịnh vƣợng. Cho nên phép xử thế hay nhất trong đời là phải biết: tri kỳ vinh, thủ kỳ nhục để mà tránh cái họa nằm trong cái phúc. Tóm lại, hễ Âm cực là dọn đƣờng cho Dƣơng sinh chứ không bao giờ có sự thủ tiêu lẫn nhau giữa hai nguyên lý mâu thuẫn ấy. Vì vậy, kẻ sáng suốt bao giờ cũng chịu đứng sau để đƣợc đứng trƣớc, chịu ngồi dƣới thấp để đƣợc nâng lên cao. Tiêu cực là điều kiện của tích cực, nên mới nói hòng thu rút lại là sắp mở rộng cho đó ra, hòng muốn làm yếu đó là sắp làm cho đó mạnh lên; hòng muốn vứt bỏ đó là sắp làm hƣng khởi đó; hòng muốn cƣớp đoạt đó là sắp ban thêm cho đó. Cùng một ý nhƣ trên, Lão Tử nói: Thiên hạ chi chí nhu... trì sính thiên hạ chi chí kiên ( 天下之至柔馳騁天下之至堅 ) Cái rất mềm trong thiên hạ, thắng cái rất cứng trong thiên hạ. Những lý thuyết mâu thuẫn trên đây, sẽ không thấy gì là mâu thuẫn nữa cả nếu ta nhận thấy rõ cái luật phản, phục của Tạo hóa. Nhƣng, trái lại, đối với kẻ tầm thƣờng chƣa thông hiểu đƣợc cái định luật quan trọng này, họ sẽ thấy toàn là mâu thuẫn. Vì vậy, ông mới nói: Chánh ngôn nhược phản ( 正言若反 ) (Ch.78) Lời nói đúng với chánh lý thì dƣờng nhƣ những lời trái ngƣợc với í thức thông thƣờng. Và, kẻ sĩ bậc thấp, nghe nói đến Đạo thì cười to lên. Không cười, sao đủ gọi đó là Đạo (Ch.41). Đạo là bao trùm, kẻ hạ sĩ làm gì thấy đƣợc hiểu đƣợc mà không cƣời nhạo! Bởi ngƣời ta phần đông không biết suy tƣ theo biện chứng, nên không nhận rõ luật mâu thuẫn, luật Phản phục nhƣ đã nói trên, nên không sao hiểu đƣợc những lời nói mà ông gọi là chánh ngôn nhược phản ấy.

57 Trong quyển La Revolution Mondiale, danh sĩ Hermann de Keyserling có đƣa cái định luật Phản phục trên đây ra làm đề tài chứng minh cho quyển sách của ông rất là rõ ràng: Chaque mouvement donné suscite automatiquement sont contre mouvement, de sorte que le radicalisme donne naissance au convervatisme, la douceur à la dureté, et bien au mal et vie versa. Mais, à la fin de chaque processus de ce gence, un rythme qui embrasse tout se trouve consitué où les oppositions précédentes ne sont pas supprimées, mais harmonisées en contrepoint. Il en est ainsi dans la nature. Il devrait en être de même dans l histoire humain ( ) Plus un mouvement unilatéral est puissant, plus il renforce par ce fait même le forces opposées (p ). (Mỗi một cái động đều tự nhiên gây thành một cái động nghịch lại, vì thế mà cấp tiến sanh ra bảo thủ, dịu hiền sanh ra tàn bạo, thiện sanh ra ác, hoặc trái ngược lại... Nhưng rồi sau cùng, sau một cuộc xô đẩy cọ sát nhau, những cặp mâu thuẫn trước đây, không bị thủ tiêu, vứt bỏ lẫn nhau, mà lại được hợp thành một nhịp điệu điều hòa từng điểm một. Trong giới thiên nhiên là như thế, mà trong lịch sử loài người cũng một thế. Một hành động một chiều mà càng mạnh bao nhiêu, lại chỉ càng làm cho những lực lượng đối phương càng mạnh thêm bấy nhiêu). Ngƣời đời phần đông không cho thế là đúng, nên thƣờng có cái ảo vọng là nhiệt liệt đem một cái Phải nào để trừ tuyệt một cái Quấy nào... Họ suy tƣởng theo luận lý hình thức (logique formelle), nên cho rằng có là có. không là không, phải là phải, quấy là quấy... và luôn luôn nhƣ vậy. Họ chỉ nhìn thấy cái tịnh của sự vật mà không để ý đến cái động của nó. Thời gian diễn biến từ Có qua Không, từ Không qua Có, từ Phải qua Quấy, từ Quấy qua Phải. Hoặc mau lẹ nhƣ một cái nháy, một cái chớp... hoặc trì trệ từ giờ, từ ngày, từ tháng, từ năm hay từ thế kỷ, trƣớc sau gì cũng phải có. Nhƣng khi biến thể thì đột ngột lắm, nhƣ nƣớc biến ra hơi, thì lúc biến không thể nhận thấy kịp... Bởi vậy mới có những câu rất mâu thuẫn nhƣ có là không, sống là chết, phải là quấy, động là tịnh v.v Luật phản, phục là những định luật bất di bất dịch chi phối tất cả mọi biến thiên trên đời. Lão Tử gọi nó là Thường, nghĩa là những cái gì không bao giờ biến đổi. Chữ Phản và Phục, cũng có nghĩa là trở về Bản Tính, trở về cái Đạo nơi mình. Chƣơng 16 có viết: Đến chỗ cùng cực hư không là giữ vững được trong cái Tịnh Vạn vật cùng đều sinh ra. Ta lại thấy nó trở về gốc. Ôi! Mọi vật trùng trùng, đều trở về cội rễ của nó. Trở về cội rễ gọi là Tịnh. Ấy gọi là Phục Mạng. Phục mạng gọi là Thường ( 致虛極, 守靜篤, 萬物並作, 吾以觀復. 夫物芸芸, 各復歸其根. 歸根曰靜, 是謂復命. 復命曰常 ) (Trí hƣ cực, thủ tĩnh đốc, vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân, các phục quy kỳ căn. Quy căn viết Tịnh, thị vị viết Phục Mạng. Phục Mạng viết Thƣờng).

58 Cội rễ của Vạn Vật, tức là Đạo thì Tịnh. Nhƣng tịnh cực thì dƣơng sinh, đó là đầu mối của Đạo vậy. Các vật sau khi phóng ra... đều rồi trở về nguồn gốc của nó cả, đó là cái Động của Đạo ( 反者道之動 ). Trở về (Phục) là trở về cội rễ. Chữ Mạng 命 trong Phục Mạng có nghĩa là cái mà ta không thể cãi được tức là Đạo. Chữ Thường ở đây có nghĩa là Đạo Thường, tức là những nguyên lý bất di bất dịch mà bất cứ vật nào, ngƣời nào làm sai với con đƣờng thiên diễn của nó sẽ đem tai họa lại cho mình và cho cả xã hội chung quanh mình. Tóm lại, biết rõ cái luật phản, phục ấy, thì không ai dám đi làm cái việc triệt để theo một cái Phải nào để trừ tuyệt cái Quấy tƣơng đƣơng của nó. Mà phải để ý coi chừng cái luật quân bình, luật phản, phục nó không tha thứ một cái gì thái quá. Huống chi là mong mỏi thủ tiêu luôn cả phần đối đích của các cặp mâu thuẫn ấy. Bởi vậy, bậc trị nƣớc mà không hiểu hoặc không đếm xỉa đến cái luật phản, phục trên đây, thƣờng phải gặt lấy những kết quả tai hại trái với lòng mong ƣớc của mình. Đừng mong đem cái Âm mà trừ tuyệt cái Dƣơng, hay đem cái Dƣơng mà trừ tuyệt cái Âm, dồn sự vật vào tình trạng âm cô dương tuyệt hay dương cô âm tuyệt mà gây tai họa cho con ngƣời. Nếu khinh thƣờng luật phản, phục tức là luật quân bình, thì không khéo ta lại vô tình cố mà đè nén một việc gì lại sắp làm cho việc ấy chổi dậy mạnh hơn, cố mà làm cho một việc gì yếu đi, lại sắp làm cho việc ấy hưng lên... nhƣ Lão Tử đã nói trƣớc đây ở chƣơng 36. Và phải chăng, ta thƣờng thấy ở những nơi đã mất tự do là những chỗ mà lòng ngƣời tha thiết ham muốn tự do hơn đâu tất cả. Nhƣ ta đã thấy sức dồn ép càng mạnh theo một chiều nào, là xui cho sức chống cự đối phƣơng càng thêm mãnh liệt: Vật cực tắc phản ( 物極則反 ). Nhà tâm lý học Carl G. Jung cho rằng: ( ) ces opposée ne sont rien d autre que les conflits humains Ceci correspond à l expérience psychologique, formulée aussi dans le Tao-Te King de Lao-Tseu, qu il n existe aucune position sans sa négation. Là où il y a la foi, il y a de doute. Là où il y a la doute, il y a la crédulité; là où il y a moralité, il y a tentation seuls les saints ont des visions diaboliques, et les tyrans sont les esclaves de leurs valets de chambre. En examinant avec soin notre propre caractère nous trouverons inévitablement ce que Lao-Tseu dit: le haut repose sur le bas ce qui signifie que les opposés se conditionment l un l autre, qu ils sont réellement une seul et même chose. Ceci se voit aisément chez les personnes ayant un complexe d infériorité ( ) La philosophie chinoise les proclame donc principes cosmiques et les appelle yang et yin. Leur pouvoir s accroit d autant plus que l on essaie de les séparer. Lorqu un arbre pousse jusqu au ciel, dit Nietzche, ses racines atteignent l enfer Cependant, au-dessus comme au-dessous, c est le même arbre 77. (Những cặp mâu thuẫn ấy chỉ ròng là những cuộc tranh chấp trong vòng nhân thế mà thôi... Nó ăn khớp với một cuộc thực nghiệm tâm linh đã nêu trong quyển Đạo Đức Kinh của Lão Tử rằng không có một cái Phải nào mà không có cái Quấy của nó. Hễ đâu có tín ngƣỡng là có hoài nghi, mà hễ có hoài nghi 77 Commentaires pychologiques, par C.G. Jung. Différence entre la Pensée Orientale et la Pensée Occidentale (p.36). Le Livre Tibétain de la Libération.

59 là có tín ngƣỡng; hễ đâu có đạo đức luân lý thì có sự cám dỗ sa ngã. Riêng chỉ có những bậc Thánh mới có những cái nhìn đời quỷ quái tinh ma, và chỉ có những kẻ độc tài mới là những tên nô lệ của những tên bồi phòng của họ. Khi xem xét kỹ tánh tình của chính ta đây, ta sẽ thấy không sao tránh khỏi đƣợc điều mà Lão Tử đã nói: cao dĩ hạ vi cơ, nghĩa là những cặp mâu thuẫn hạn chế lẫn nhau, và thật sự chúng chỉ là Một. Ta rất dễ thấy sự kiện này nơi những kẻ bị mặc cảm tự ti (...) Triết học Trung Hoa có đƣa những cặp mâu thuẫn ấy lên hàng những nguyên lý Vũ trụ và gọi chúng là Âm và Dƣơng. Hễ cố mà chia rẽ chúng ra chừng nào thì thế lực của chúng lại càng tăng thêm lên chừng ấy. Nietzche nói: Khi mà một cội cây mọc cao đụng đến thiên đình, thì gốc nó cũng ăn luồng đến địa phủ. Thế nhƣng, dù ở trên hay ở dƣới, cũng đều cùng ở một cội cây). TỔN HỮU DƯ BỔ BẤT TÚC 損有餘 - 補不足 Dịch Kinh bàn về quẻ Khiêm 謙, nơi lời Thoán 彖 có nói: Khiêm hanh, thiên đạo hạ tế nhi quang minh, địa đạo ty nhi thượng hành, thiên đạo khuy doanh nhi ích Khiêm. Địa Đạo biến doanh nhi lưu Khiêm. Quỉ thần hại doanh nhi phúc Khiêm. Nhân đạo ố doanh nhi hiếu Khiêm. Khiêm tốn nhi quang, ty nhi bất khả du, quân tử chi chung dã ( 彖曰謙亨, 天道下濟而光明, 地道卑而上行, 天道虧盈而益謙. 地道變盈而流謙, 鬼神害盈而福謙. 人道惡盈而好謙. 謙尊而光, 卑而不可踰, 君子之終也 ) (Khiêm thì hanh thông, đạo Trời giúp xuống mà làm cho sáng sủa, đạo Đất thấp mà lên cao, đạo Trời làm vơi chỗ đầy mà thêm chỗ khiêm, đạo Đất làm nghiêng đổ chỗ đầy mà tụ vào chỗ khiêm, quủ thần làm hại chỗ đầy mà làm ƣa thích chỗ khiêm. Khiêm thì cao mà sáng, thấp nhƣng không thể vƣợt qua, đó là chỗ sau chót của ngƣời quân tử.) Khiêm, có nghĩa là nhún nhƣờng, từ tốn, tự hạ mình, thấy mình thấp kém, thiếu thốn v.v Dù là Thiên đạo, Địa đạo, Nhân đạo hay Quỷ Thần... cũng đều ghét đầy (doanh) và ƣa thích cái vơi cái thiếu (khiêm). Cho nên lời Tƣợng 象 cũng nói: Địa trung hữu sơn, Khiêm: quân tử dĩ suy đa ích quả, xứng vật bình thi ( 地中有山, 謙君子以裒多益寡. 稱物平施 ) (Trong đất có núi là quẻ Khiêm: ngƣời quân tử coi đó mà rút bớt chỗ nhiều, thêm vào chỗ ít, cân lƣờng các vật, làm cho sự ban bố đƣợc thăng bằng). Trình Tử giải nhƣ thế này:... núi mà lại ở dƣới thấp, đó là cao thì hạ xuống, thấp thì nâng lên, thấy rõ cái nghĩa nén chỗ cao, bù chỗ thấp, bớt chỗ thái quá, thêm vào chỗ bất cập. Đem ra mà thi thố công việc, thì bớt của chỗ nhiều, tăng thêm cho chỗ ít, cân nhắc sự nhiều ít của các vật mà làm cho sự ban bố cho đƣợc đồng đều, khiến cho mọi việc đƣợc thăng bằng.

60 Nhƣ thế, ta thấy rằng quẻ Khiêm dùng để diễn đạt luật quân bình của Trời Đất 78. Chƣơng 77, Đạo Đức Kinh Lão Tử cũng nói: Thiên chi đạo, kỳ du trƣơng cung dƣ? Cao giả ức chi, hạ giả cử chi; hữu dƣ giả tổn chi; bất túc giả bổ chi. Thiên chi Đạo: Tổn hữu dƣ bổ bất túc. Nhơn chi đạo, tắc bất nhiên: tổn bất túc dĩ phụng hữu dƣ... ( 天之道其猶張弓與? 高者抑之, 下者擧之 ; 有餘者損之 ; 不足者補之. 天之道 : 損有餘而補不足. 人之道則不然 : 損不足以奉有餘 ) (Đạo Trời ƣ? Khác nào cây cung giƣơng lên: chỗ cao thì ép xuống, chỗ thấp thì nâng lên. Có dƣ thì bớt đi, hụt thì bù vào. Đạo của Trời: bớt chỗ dƣ, bù chỗ thiếu.đạo của ngƣời thì không vậy: bớt chỗ thiếu, bù chỗ dƣ...). Nhìn kỹ hiện tƣợng tự nhiên trong Trời Đất sẽ thấy rõ ràng luật ấy. Do cái luật bớt đi bù lại giữa cái dƣ cái thiếu để lập lại quân bình mới có sự động biến trong Vũ Trụ, bằng không vạn vật sẽ rơi vào chỗ tịch nhiên yên lặng. Khoa học ngày nay cũng không nói khác hơn: Il y a, dans l univers, des corps chauds et des corps froids ( ) Les étoiles se refroidissent sans cesse, c est-à-dire qu elles cèdent deà la chaleur aux particules claisemées qui peuplent çà et là les espaces célestes. Par conséquent, à mesure que les astres se refroidissent, ces espaces s échauffent. C est un processus lent, insensible, mais inéluctable; les corps chauds perdent de plus en plus de chaleur, les corps froids en gagnent perpétuellement, de sort que les températures tendent à s égaliser. Le jour où tous les objects de l univers seron au même niveau thermique, il n y aura plus d échange d énergie, donc plus de mouvement: ce sera la fin du monde 79 ( Trong Vũ trụ, có những vật nóng và vật lạnh (...) Các tinh tú cứ lạnh lần lần mãi, nghĩa là chúng bớt sức nóng của chúng để chuyển sang các điểm sáng khác trên thiên không. Vậy thì, các tinh tú càng lạnh thêm bao nhiêu thì các khoảng không gian kia lại càng nóng thêm lên. Ấy là một cuộc diễn tiến tuy chậm chạp, không cảm thấy đƣợc, nhƣng là lẽ tất nhiên phải có, không sao tránh khỏi đƣợc. Những vật nóng càng mất sức nóng bao nhiêu, thì các vật lạnh càng chia đƣợc sức nóng ấy bấy nhiêu, và nhƣ vậy nhiệt độ có khuynh hƣớng đi đến sự quân bình - nghĩa là bằng nhau. Ngày mà tât cả mọi vật trong Vũ trụ cùng đồng một nhiệt độ nhƣ nhau thì sẽ không còn có sự trao đổi khí lực nữa, tức là không còn có sự động nữa: đó là ngày tận thế rồi vậy). TRI TÚC TRI CHỈ 知足 - 知止 Hai chữ tri chỉ, tri túc là then chốt đạo xử thể của Lão Tử. Mà cũng là vấn đề khó khăn nhất. Biết dừng thì còn tƣơng đối dễ... chứ biết đủ thì phải lấy tiêu chuẩn nào mà quy định? Nghĩa là biết đến đâu là đủ để mà ngừng lại cho kịp thời, cho vừa lúc? 78 Xem chƣơng nói về Tam Bửu (bất cảm vi thiên hạ tiên). 79 La Conquête de la Sience: Pierre Rousseau (Lib. Arthème Fayard. Collection Savoir, p.307)

61 Ta nên để ý đến chủ trƣơng của Lão Tử là Đạo 道. Đạo là gì? Theo Lão Tử: Đạo, tức là cái luật Quân bình ( 天均 ) 80 của Vũ trụ, chi phối cả Vạn vật, không cho ta có quyền làm một cái gì thái quá. Đạo, chủ trƣơng và bao trùm vạn vật, luôn luôn có mặt trong tất cả mọi sự vạn vật. Nó có phận sự điều chỉnh lại những cái gì thái quá, vƣợt mực trung. Hễ cao thì ép xuống, thấp thì nâng lên, dư thì bớt đi, hụt thì bù vào 81, đặng mà lập lại cái thế quân bình, không cho thiên hẳn về một bên nào cả của cái đòn cân thị phi, thiện ác... Ông nói: Thiên chi đạo, tổn hữu dư, bổ bất túc ( 天之道損有餘而補不足 ) Đạo trời thì bớt chỗ dƣ, bù chỗ thiếu. Trong đạo xử thế, quan trọng nhất là vấn đề thị phi, thiện ác. Sao là phải, sao là quấy, sao là lành, sao là dữ? Lão Tử cho rằng: Thiên hạ đều biết tốt là tốt, thì đã có xấu rồi. Đều biết lành là lành, thì đã có cái chẳng lành rồi. Bởi vậy, Có và Không cùng sanh. Khó và Dễ cùng thành. Ngắn và Dài cùng sánh. Cao và Thấp cùng chiều. Giọng và Tiếng cùng họa. Trước và Sau cùng theo (chƣơng 11). Rồi ông lại nói: Phản giả, Đạo chi Động ( 反者, 道之動 ). Cái động của Đạo là phản biến: cái Phải biến thành cái Quấy, cái Lành biến thành cái Dữ, cái Vinh biến thành cái Nhục... Héraclite 82 cũng nói: C est la même chose qui habite en nous: la vie et la mort, la veille et le sommeil, la jeunesse et la vieilesse. Ces derniers, en se transformant deviennent les premiers, et les premiers, en se tranformant de nouveau, deviennent les derniers (cũng chỉ là một sự vật ở nơi ta: sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già. Những cái sau này, khi biến động lại trở thành những cái trƣớc kia, và những cái trƣớc kia khi phản biến lại trở thành những cái sau này. Ông lại nói: Le froid devient chaud, le chaud froid, l humide sec, le sec humide (Lạnh trở thành nóng, nóng trở thành lạnh, ƣớt trở thành khô, khô trở thành ƣớt, tức là chỗ mà Kinh Dịch bảo: vật cực tắc phản, vật cùng tắc biến, nhƣng hễ biến thì biến thành cái mâu thuẫn của nó. Tức là hễ dương cực thì âm sinh, âm cực thì dương sinh. Nhƣ trong Dịch Kinh đã nói, đó là cái luật bất di bất dịch của Tự nhiên, của Đạo. Thật vậy, tùy trƣờng hợp riêng biệt của mỗi ngƣời, ta thƣờng thấy một chất thuốc, với một độ nào, nó là thuốc bổ, mà với một độ nào, nó sẽ thành thuốc độc. Việc đời cũng thế, cái mà ta gọi là phải, chỉ có thể phải ở một mực độ nào, trong những trƣờng hợp nào. Chứ không phải nó luôn luôn là phải, bất cứ ở trƣờng hợp nào. Nhƣ việc ăn, tự nó không phải mà cũng không quấy. Khi đói, thì ăn là phải, nhƣng cũng chỉ phải ở một mực độ nào, ở những trƣờng hợp nào mà thôi. Nếu ăn quá độ, hay ăn không phải lúc, thì không thể còn gọi là phải đƣợc nữa. Cho nên, làm cái Phải nào, hoặc theo một cái Phải nào, cần phải xem xét trước cái lúc mà cái Phải ấy, vượt mực Trung biến thành cái Quấy. Tức là phải biết xem xét coi cái Phải ấy nên dừng nơi đâu để nó đừng vƣợt mực Trung để biến thành cái Quấy. Đó là biết dừng lại tri chỉ ( 知止 ) vì đã biết rõ đến đâu là đủ... tri túc ( 知足 ). 80 Thiên quân. (Goldfish). 81 Cao giả ức chi, hạ giả cử chi, hữu dƣ giả tổn chi, bất túc giả bổ chi (Ch.77) 高者抑之, 下者擧之. 有餘者損之, 不足者補之. 82 Héraclite: Triết gia Hy Lạp, sinh ở Ephèse 576 (540?) và mất khoảng 480 trƣớc Tây lịch kỷ nguyên.

62 Chƣơng 44 Lão Tử nói: Danh dữ thân thục thân, thân dữ hóa thục da; đắc dữ vong thục bệnh? Thị cố thậm ái tất thậm phí, đa tàng tất hậu vong. Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi... khả dĩ trường cửu (Danh và Thân, cái nào quý hơn? Thân và Của, cái nào trọng hơn? Đặng và Mất, cái nào khổ hơn? Vậy nên, thƣơng nhiều ắt tổn nhiều, chứa nhiều ắt mất nhiều. Biết đủ, không nhục. Biết dừng không nguy, và có thể lâu dài) ( 名與身孰親? 身與貨孰多? 得與亡孰病? 是故甚愛必大費, 多藏必厚亡. 知足不辱, 知止不殆, 可以長久 ). Qua chƣơng 46 ông nói thêm: Họa mạc đại ư bất tri túc, cữu mạc đại ư dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ ( 禍莫大於不知足, 咎莫大於欲得. 故知足之足, 常足矣 ) Không họa nào lớn bằng không biết đủ, không hại nào to bằng muốn đặng. Bởi vậy, biết đủ trong cái đủ, mới luôn luôn đủ. Nên để ý nhất câu tri túc chi túc ( 知足之足 ): biết đủ và biết dừng 知止 lại nơi đó, đó là tất cả sự khôn ngoan sáng suốt của con ngƣời 83. Có kẻ cho rằng câu này của Lão Tử làm ngăn cản bƣớc tiến bộ của loài ngƣời, nhƣng thực sự nó là câu châm ngôn vàng ngọc để lánh nguy cầu an và mƣu đƣợc hạnh phúc cho cá nhân cũng nhƣ đoàn thể, tránh cho con ngƣời tất cả tội ác do lòng tham muốn đèo bòng vô tận xui ta làm con thiêu thân cho vị thần Tiến Bộ và lòng tham dục vô bờ bến của con ngƣời. Thái quá cũng nhƣ bất cập, đều không hay cả. Nhƣng theo Lão Tử, thì thà bất cập hơn là thái quá, vì thái quá bao giờ cũng nguy hiểm. Bất cập thì sẽ còn phát triển mạnh thêm và gây nhiều hứng thú, còn thái quá thì là dọn đƣờng cho sự phản biến ngƣợc với kết quả mình mong muốn: Tương dục phế chi, tất cố hưng chi 將欲歙之, 必固張之 (Ch.36). BẤT TRANH 不争 Cũng nhƣ phần đông ngƣời ta đã ngộ nhận hai chữ Vô vi 無為 là không làm gì cả, phần đông cũng lại ngộ nhận hai chữ Bất Tranh 不争, và cho là không tranh đấu hay không dám tranh đấu, nghĩa là yếu hèn, nhút nhát. Thậm chí Ngô Tất Tố và Nguyễn Đức Tịnh, 83 Tri túc chi túc ( 知足之足 ): Biết đủ trong cái đủ của mình, nghĩa là gì? Thử lấy việc ăn làm thí dụ: Một đứa con trẻ 3 tuổi, món ăn đủ cho sức khoẻ của nó không giống nhƣ món ăn cần thiết cho đứa trẻ lên bảy hay lên mƣời Lại nữa khi mạnh thì ăn khác, khi đau thì ăn khác, số lƣợng vừa đủ cho nó thay đổi luôn luôn tuỳ hoàn cảnh. Một ngƣời lớn, trái lại, nếu lại cho ăn nhƣ đứa trẻ lên ba thì không thể đƣợc: cái đủ của mỗi ngƣời khác nhau.

63 trong quyển Lão Tử của các ông, còn viết: Người ta không thể hiểu rằng: không tranh với quân địch thì làm sao thắng với quân địch? 84 Nói thế là không hiểu gì về cái đạo Bất Tranh của Lão Tử, lại cũng không hiểu gì cả về binh pháp. Chƣơng 68, ông nói: Thiện vi sĩ giả bất vũ, thiện chiến giả bất nộ, thiện thắng địch giả bất dữ. Thiện dụng nhơn giả vi chi hạ, thị vị Bất Tranh chi đức ( 善為士者不武, 善戰者不怒, 善勝敵者不與, 善用人者為之下. 是謂不爭之徳 ) Ngƣời tƣớng giỏi không dùng vũ lực, ngƣời chiến đấu giỏi không giận dữ, khéo thắng địch là không tranh với đó. Khéo dùng ngƣời là h 也 ạ mình giúp đó, đó là cái đức của sự không tranh). Đây là chủ trƣơng Vô vi, trong phép tranh đấu. Nên để ý đến chữ thiện 善 của ông dùng: Thiện 善 đây, tức là sự khéo léo, tài giỏi... Bậc tƣớng tài giỏi tranh đấu mà không cần phải dùng đến vũ lực, bạo động Ngƣời chiến đấu tài giỏi là không cần dùng đến sự tranh đấu mà thắng địch... Trần Trụ trong quyển Lão Tử dữ Trang Tử nói: Thiện vi sĩ giả, kỳ thực dã, bất vũ giả kỳ mạo dã; thiện chiến giả kỳ thực dã, bất nộ giả kỳ mạo dã; thiện thắng địch giả kỳ thực dã, bất dữ giả kỳ mạo dã ( 善為士者其實也, 不武者其貌也, 善戰者其實也, 不怒者其貌也 ; 善勝敵者其實也, 不與其貌也 ). Câu trên của Lão Tử có thể giải thích nhƣ vầy: Kẻ làm tƣớng mà tài giỏi thì không phải dùng đến vũ lực... Tài giỏi đó là thực, không dùng đến vũ lực, đó là cái bề ngoài của nó. Thiện chiến là thực, mà điềm đạm không tỏ sắc giận đó là cái dáng bên ngoài. Thắng thật khéo bên địch là thực, còn không cùng tranh với địch, đó là cái dáng bên ngoài... Nhƣ vậy, ta thấy rằng Lão Tử, tuy đề xƣớng chủ nghĩa bất tranh, nhƣng với hai chữ thiện thắng đủ cho ta biết rằng chữ bất tranh chỉ là phƣơng pháp đấu chiến, mà thiện thắng mới thật là mục đích. Câu Phù duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh. ( 夫唯不爭, 故天下莫能與之爭 ) (Ch.22): chỉ vì không tranh, nên thiên hạ không ai tranh nổi với mình, đủ minh chứng rằng ngƣời tƣớng giỏi đâu phải là ngƣời dùng đến vũ lực để đánh ngƣời trƣớc. Kẻ khéo nhất trong sự thắng kẻ địch là không cần tranh với họ mà vẫn thắng họ một cách dễ dàng... Đó là phƣơng pháp dùng nhu mà thắng cƣơng, dùng nhƣợc mà thắng cƣờng, những nguyên tắc chánh trong phép dùng nhu thuật. Rõ rệt nhất là ở chƣơng 69 ông nói: Dụng binh hữu ngôn, ngô bất cảm vi chủ nhi vi khách, bất cảm tiến thốn nhi thối xích.thị vị hành vô hành, nhương vô tí, chấp vô binh, nhưng vô địch. Họa mạc đại ư khinh địch, khinh địch cư táng ngô bửu. Cố kháng binh tương gia, ai giả thắng hĩ (Dụng binh có câu: Thà làm khách hơn làm chủ, thà thối một bƣớc hơn tiến một tấc. Đó gọi là bƣớc mà không đi tới, nhƣợng mà không xăn tay, bắt giặc mà không đối địch, cầm giữ mà không binh khí. Không họa nào lớn bằng khinh địch. Khinh địch thì mất của báu. Nên hai bên giao binh kẻ nhƣờng là thắng). Phải chăng ai đã từng thao luyện theo nhu thuật (Jiu-Juisu) hay nhu đạo (Judo) đều nhìn thấy đây là những nguyên tắc chánh của môn vũ thuật ấy. Công dụng của cái Hƣ 虚, cái Không trong binh pháp đâu phải là nhỏ và tầm thƣờng. 84 Trang 119: Lão Tử của Ngô Tất Tố và Nguyễn Đức Tịnh soạn, Mai Lĩnh xb.

64 Tôn Tử nói: Bách chiến bách thắng, phi thiện chi thiện giả dã, bất chiến nhi khuất nhơn chi binh, thiện chi thiện giả dã ( 百戰百勝, 非善之善者也, 不戰而屈人之兵, 善之善者也 ): Trăm trận đánh, trăm trận đƣợc, chƣa phải là ngƣời giỏi trong những ngƣời giỏi. Không đánh mà làm khuất phục đƣợc quân của ngƣời, ấy mới là ngƣời giỏi trong những ngƣời giỏi 85. Phải chăng cũng cùng một ý với Lão Tử trong câu: Thiện vi sĩ giả bất vũ, thiện thắng địch giả bất dữ... (Ngƣời tƣớng giỏi không dùng đến vũ lực... ngƣời khéo thắng đƣợc địch là không cùng tranh với đó). Bởi vậy, bất tranh của Lão Tử là phép cầm quân cao nhất... trong binh pháp, mà cũng là phép xử thế cao nhất trong đạo trị nƣớc. Phép đề kháng bất bạo động của Gandhi đã làm khuynh đảo một đế quốc mạnh nhất của Âu Tây không đủ là một kinh nghiệm cụ thể của phƣơng pháp bất tranh nhi thiện thắng của Lão Tử ƣ? Đó cũng là phép dùng nhu nhược thắng cương cường mà ông thƣờng khuyên ta vậy. Thuyết Bất tranh lại còn một nghĩa nữa về Chánh trị là dĩ kỳ bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh 86. Là nghĩa làm sao? Chƣơng 66, ông nói: dục thượng dân tất dĩ ngôn hạ chi, dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi. Thị dĩ thánh nhân xử thượng nhi dân bất trọng, xử tiền nhi dân bất hại. Thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất yếm. Dĩ kỳ bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh 欲上民必以言下之, 欲先民, 必以身後之. 是以聖人處上而民不重, 處前而民不害. 是以天下樂推而不厭. 以其不爭, 故天下莫能與之爭. (Muốn ngồi trên dân, hẳn nên lấy lời nhỏ nhẹ mà hạ mình; muốn đứng trƣớc dân, hẳn nên lấy mình để ra sau. Vậy nên Thánh Nhân ở trên mà dân không hay nặng, ở trƣớc mà dân không thấy bị khuất. Và nhờ thế mà thiên hạ không chán, lại còn đẩy tới trƣớc. Là bởi đó không tranh, nên thiên hạ không cùng tranh với đó đƣợc). Bậc Thánh Nhân trị nƣớc, ngồi trên đầu dân mà dân không hay có mình ngồi trên đầu, dẫn đạo dân mà dân không cảm thấy bàn tay của mình dắt dẫn. Bởi vậy, ngƣời dân không chán, lại còn đẩy tới trƣớc. Bởi đó không tranh, nên thiên hạ không cùng tranh với đó đƣợc. Thật vậy, bậc Thánh Nhân trị nƣớc, ngồi trên đầu dân mà dân không hay có mình ngồi trên đầu, dẫn đạo dân mà dân không cảm thấy bàn tay mình dắt dẫn. Bởi vậy, ngƣời dân không chán lại đƣa đẩy lên ngôi cao... Là vì Thánh Nhân trị nƣớc bằng đạo Vô Vi. Luôn luôn đứng dƣới thấp, ở đàng sau thì ngƣời dân còn chỗ nào để cùng tranh chấp, bởi vậy vì không tranh nên thiên hạ không sao cùng tranh vời họ được. Trị nƣớc bằng đạo hữu vi lại không phải thế: thƣờng hay can thiệp đến việc dân một cách qua rõ ràng, nên ngƣời dân cảm thấy là bị trị. Do đó mới có sanh ra tâm trạng chống đối, và nhân thế bậc trị nƣớc phải lo đề phòng để củng cố uy quyền bằng pháp lệ bủa 85 Tôn Tử Binh Pháp ( 孫子兵法 ): Mƣu Công thiên 謀攻篇 86 Xem lại chƣơng 22: Phù duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh.

65 giăng... Giữa cấp thống trị và bị trị đã có chỗ tranh nhau, thì trƣớc sau sẽ có kẻ thắng ngƣời bại. Ngày mà ngƣời dân cảm thấy sức nặng của ngƣời trên đè xuống, cảm thấy cái bàn tay dẫn dắt chỉ đạo quá gắt gao còng giữ, họ sẽ đâm chán, mong vứt quăng gánh nặng, vƣợt khỏi cái bàn tay sắt buộc ràng... Dùng cái đạo hữu vi mà trị nƣớc là tạo cho nhân dân có chỗ cùng tranh với ta... là nguy vậy. NHU NHƯỢC 柔弱 Thuyết Nhu Nhược của Lão Tử là thuyết bị ngƣời đời hiểu lầm nhất, nhƣ thuyết Bất Tranh của ông vậy. Thật sự Nhu Nhược là gì? Ở chƣơng 76, ông nói rõ nhất: Nhân chi sinh dã nhu nhược, kỳ tử giả kiên cường. Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thúy, kỳ tử dã khô kháo. Cố kiên cường giả, tử chi đồ; nhu nhược giả, sinh cho đồ. Thị dĩ binh cường tắc bất thắng; mộc cường tắc chiết. Cố kiên cường xử hạ, nhu nhược xử thượng 87 (Ngƣời khi mới sinh, thì mềm yếu, mà khi chết thì cứng và mạnh. Vạn vật cây cỏ, mới sinh thì mềm dịu, mà khi chết thì khô héo. Nên cứng và mạnh, là bạn của chết. Mềm và yếu là bạn của sống. Vậy, binh mạnh thì không thắng, cây mạnh thì ắt gẫy. Cứng và mạnh, ở bậc dƣới; mềm và yếu, ở bực trên) Trong đoạn văn trên đây, hai chữ nhu nhược quả có một triết lý sâu xa, chứ không phải có cái nghĩa thiển cận nhƣ thông thƣờng ngƣời ta đã hiểu. Lấy thí dụ một cái cây, cành lá mềm dịu là chứng sự đang sức sinh hóa; còn sự khô cứng là triệu chứng của sự cằn cỗi, chết chóc, không còn biến động gì đƣợc nữa. Nhƣ thế nhu nhược có nghĩa là uyển chuyển, không cố chấp trong một hình thức cố định nào, dù thuộc về tâm lý, tình cảm hay tƣ tƣởng. Tâm hồn con ngƣời Giải thoát phải biết luôn luôn thay đổi, biến hóa, vô cùng uyển chuyển để theo kịp với nhịp sống của cuộc Đại Hóa trong Trời Đất. Nếu bị hạn định trong một hình thức cứng rắn nào, thì đó là triệu chứng của sự khô cứng và chết chóc. Bởi vậy, ngƣời theo đạo Giải thoát rất sợ lối tƣ tƣởng theo thành kiến, theo thói quen, theo tập niệm, thƣờng nô lệ theo một bảng giá trị bất cứ thuộc về một hệ thống tƣ tƣởng, đạo đức, luân lý hay tôn giáo nào. Mỗi một thói quen là một thứ ngƣng đọng, không còn biến đổi... nghĩa là đã trở thành máy móc... Và nhƣ vậy, ta có thể quả quyết rằng: Không có một thói quen nào là hay 87 人之生也柔弱, 其死也堅強. 萬物草木之生也柔脆, 其死也枯稿. 故堅強者, 死之徒 ; 柔弱者, 生之徒. 是以兵強則不勝, 木強則折. 故堅強處下, 柔弱處上.

66 cả đối với tư tưởng 88. Suy nghĩ theo thói quen, yêu thƣơng vì thói quen, hành động theo tập quán, đó là những trở ngại lớn nhất trong con đƣờng Giải thoát. Cho nên kẻ muốn đi đến Giải thoát, bƣớc đầu tiên là tự mình phá hủy tất cả mọi thành kiến bất cứ thuộc về giới nào. Kiên cường giả tử chi đồ, như nhược giả sinh chi đồ. Ngƣời Giải thoát nhƣ con Rồng, biến hóa, ẩn hiện, không biết sao mà lƣợng trƣớc đƣợc phản ứng của họ. Bậc thƣờng nhân phản ứng rất hạn định chỉ có một chiều thôi, nhƣ một bộ máy... Những kẻ mà đời sống tinh thần bị gò bó, lệ thuộc trong một hệ thống luân lý hay tƣ tƣởng nào sẽ là những kẻ có một phản ứng thô sơ và nhất định mà bất cứ ai có óc quan sát đều có thể biết trƣớc đƣợc. Một ông luật sƣ đứng ra biện hộ cho ai, bao giờ cũng tìm đủ cách để chứng minh rằng thân chủ mình là vô tội. Một nhà Nho hủ lậu bao giờ cũng có những phản ứng một chiều và hẹp hòi câu chấp, luôn luôn sẽ có những phản ứng một chiều với những ai phạm vào những điều cấm kỵ của giáo điều Nho giáo. Cũng nhƣ nhà duy vật sẽ không bao giờ chịu hiểu những gì không ăn khớp với những lý thuyết của họ nhƣ lý thuyết giai cấp đấu tranh chẳng hạn. Sự phản ứng đối với cuộc đời sẽ không bao giờ giống với những phản ứng một cách máy móc của các chất hóa học đã đƣợc ngƣời ta khám phá và quy định trong những công thức không bao giờ thay đổi. Bởi vậy, ngƣời theo đạo Giải thoát của Lão Trang chắc chắn sẽ không bao giờ là tín đồ trung thành của một tôn giáo, một triết thuyết, hay là chiến sĩ cuồng nhiệt của một chủ nghĩa chánh trị, xã hội hay luân lý nào cả. Đó là cái huyền nghĩa của hai chữ nhu nhược. Nhu nhược lại cũng có cái nghĩa là thuận theo, chiều theo, không cƣỡng lại... tức là cái thuật Bất tranh nhi thiện thắng 89 dùng nhu nhược thắng cương cường 90. Không chống cự, tức là không tạo cho bên địch có cơ hội để tranh đấu: phù duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh ( 夫唯不爭故天下莫能與之爭 ) (Chƣơng 22). Nhƣ thế nhu nhược đây có nghĩa là một phƣơng pháp tranh đấu: đó là phép lấy hƣ mà trị thực, một phƣơng thuật già dặn nhất trong phép tranh đấu của nhu đạo (Judo) ngày nay. Cho nên mới có chỗ ông bảo: Thượng thiện nhược thủy, thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh 91 (Bậc thƣợng thiện giống nhƣ nƣớc, nƣớc thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh). Tánh của nƣớc, thì yếu mềm; gặp chỗ trống, thiếu thì chảy vào; gặp chỗ đầy dƣ thì chảy ra. Lánh cao mà tìm thấp, ngày đêm chảy mãi mà không ngừng. Đó là nó thực hiện cái luật quân bình của Trời Đất Nƣớc, luôn luôn chiều theo mà không kháng cự. Bị cản thì dừng, mở đƣờng thì chảy, ống thẳng bầu tròn, nhƣng không mất bản chất. 88 Chaque habitude est un limitation de mouvement, et de ce point de vue, il n y a pas de bonnes habitudes. (ZEN Euddhism. C. Humphreys) 不争而善勝 (Xem lại mục bàn về Bất Tranh) 柔弱勝剛強 (Chƣơng 36) 91 水善利萬物而不爭

67 Tóm lại, chƣơng 40 có viết: Nhược giả, Đạo chi dụng ( 弱者道之用 ). Yếu mềm là cái dụng của Đạo... Nhƣợc đây là biết chiều theo, không chống lại... không dùng ý chí mà cƣỡng lại với Đạo, nhƣ ngƣời thợ lặn giỏi không cƣỡng lại với nƣớc nên không hay là có nƣớc. Câu yếu mềm là cái dụng của Đạo, ta phải hiểu yếu mềm đây, là phƣơng pháp để trở về với Đạo. Bởi ngƣời ta thƣờng sống thích đua đòi theo kẻ khác, chỉ tìm cách để bắt chƣớc kẻ khác, sống theo cái sống của kẻ khác, sống theo những ƣớc lệ giả tạo bên ngoài... mà không sống theo cái Chân tánh của mình cho nên mới có dùng đến Ý chí, tức là cố cƣỡng ép mình để trở thành những gì không phải là mình. Nếu biết sống theo mình, theo cái Chân Diện Mục của mình thì sao lại phải còn dùng đến Ý chí. Nên mới gọi là Vô Vi, vì đã huyền đồng cùng Bản Tánh. Đó là cái nghĩa thứ hai của Nhu Nhược, đồng với Vô Vi, mà phƣơng tiện là Bất Tranh. BẤT NGÔN CHI GIÁO 不言之敎 Chƣơng 2, sách Lão Tử có câu: Xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo 處無為之事, 行不言之教 (dùng vô vi mà xử sự, dùng phƣơng pháp không lời mà dạy dỗ) (Ch.2). Chƣơng 43 lại nói thêm: Bất ngôn chi giáo, vô vi chi ích, thiên hạ hi cập chi Dạy bảo mà không cần đến lới nói, sự lợi ích của vô vi, trong thiên hạ ít ai theo kịp ( 不言之敎, 無為之益, 天下希及之 ). Dạy bảo mà không dùng đến lời nói... Là nghĩa gì? Nhƣ trƣớc đây, ở chƣơng bàn về sự học, Lão Tử khuyên ta đừng học cái trục vật, vụn vặt, phiền phức bên ngoài. Chƣơng 20, ông nói: tuyệt học vô ưu 絕學無憂, đến chƣơng 64 ông lại bảo: học bất học 學不學. Hãy học cái không thể học được là Đạo. Mà Đạo, thì không thể dùng lời nói mà miêu tả đƣợc: Đạo khả đạo, phi thường Đạo, Danh khả danh phi thường Danh 道可道, 非常道 ; 名可名, 非常名 (Đạo mà nói đƣợc, không phải là cái thƣờng của Đạo. Danh mà ta có thể gọi đƣợc, không còn phải là Danh thƣờng nữa). Vì vậy, ông mới không dùng đến lời nói để mà dạy. Ông lại cũng có nói: Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri 92 ( 知者不言, 言者不知 ) (Ch.56), cũng đều là chỉ về cái học về Đạo cả. Sở dĩ phải dùng đến lời là một sự miễn cƣỡng rồi vậy. Đạo học là một cái học tâm truyền tâm, 92 Kẻ biết không nói, ngƣời nói không biết (Ch.56)

68 không có thể nào dùng lời mà hình dung đƣợc, chỉ có thể cảm thông mà thôi. Đó là nghĩa thứ nhất của bất ngôn chi giáo. Cái học của Lão Tử thuộc về Tâm học, tuy không thể lấy lời nói mà miêu tả đƣợc, nhƣng cũng có khi dùng lời nói để khêu gợi đƣợc... Dùng lời để mà khêu gợi mà thôi, chứ thực ra, trong đời không ai dạy ai đƣợc, nếu tự mình không tìm kiếm ra, cho nên cũng gọi là bất ngôn chi giáo, đó là nghĩa thứ hai. Chƣơng 57, Lão Tử bảo: Ngã vô vi nhi dân tự hóa ( 我無為而民自化 ). Ta không làm mà dân tự hoá. Bậc trị nƣớc, không cần bắt buộc dạy bảo, cần lấy gƣơng vô tƣ, vô dục của mình mà dạy dân, dùng bất ngôn chi giáo mà sửa dân... thì dân không có hay là mình có làm gì, nhƣng tự chúng sửa đổi lấy mình mà không cần đến sự bắt buộc hay cấm đoán, ban hành pháp lệnh. Ông lại nói: Ngã hiếu tịnh nhi dân tự chính, ngã vô sự nhi dân tự phú, ngã vô dục nhi dân tự phác ( 我好靜而民自正, 我無事而民自富, 我無欲而民自樸 ). Ta ƣa tịnh mà dân tự chính, ta vô sự mà dân tự giàu, ta không dục vọng mà dân trở thành chất phác. Đó đều là phép bất ngôn chi giáo của ông cả. Về sau Trang Tử trong thiên Đức sung phù giải rất rõ cái phép bất ngôn chi giáo ấy: Đức sung ư nội, nhi nhơn hóa ư ngoại, tự nhiên cảm hóa bất đãi giáo ngôn giả dã ( 德充於內, 而人化於外, 自然感化不待敎言者也 ) 93. Nghĩa là: Đức mà đầy đủ nơi trong, thì ngƣời ở ngoài đƣợc hóa, tự nhiên đƣợc cảm hóa, không cần phải dùng đến lời mà dạy. Đây là nghĩa thứ 3 của nó. Chƣơng 5, ông nói: Đa ngôn sổ cùng, bất như thủ trung ( 多言數窮, 不如守中 ) Nói nhiều bao nhiêu cũng không sao nói hết đƣợc, thà là giữ lấy mực trung. Là tại sao? Đạo, là nguyên lý Quân bình. Việc đời có gì lạ ngoài thị phi, thiện ác... Nếu bảo đây là phải, thì lại sợ rằng thiên hạ quá thiên về đó mà đi quá trớn, trở thành cái quấy. Lạ gì thói đời, làm gì cũng thái quá! Cái bệnh câu chấp ấy là thông bệnh của con ngƣời. Thà là giữ lấy mực Trung, ít nói chừng nào hay chừng nấy: Hi ngôn tự nhiên ( 希言, 自然 ) (chƣơng 23). Thị phi, thiện ác, vinh nhục, lợi hại chỉ là bề mặt bề trái của mọi sự vật trên đời, thì lợi cho đây chƣa ắt cũng còn là lợi cho kia, phải cho đây chƣa ắt cũng còn là phải cho kia... Cho nên kẻ đạt Đạo không ham biện bạch gì với ai cả: sự hiểu biết do trình độ mà có cao có thấp. Đồng với ta cho ta là phải, không đồng với ta cho ta là quấy. Sự phải quấy trong đời bất quá chỉ có bấy nhiêu thôi. Cho nên mới có câu: Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện ( 善者不辯, 辯者不善 ) (Chƣơng 81) Ngƣời thiện không tranh biện, ngƣời tranh 93 Cả câu này, trong thiên Đức sung phù, tôi chỉ thấy có bốn chữ đầu: Đức sung ƣ nội 德充於內. (Goldfish).

69 biện không thiện. Chữ thiện 善 đây, có nghĩa là ngƣời sành về Đạo, chứ không phải ám chỉ ngƣời lành đối với kẻ dữ, theo cái nghĩa thông thƣờng về luân lý. Chƣơng 2 nói rất rõ ràng lẽ ấy: Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ. Giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy. Thị dĩ thánh nhân, xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo ( 天下皆知美之為美, 斯惡已 ; 皆知善之為善, 斯不善已. 故有無相生, 難易相成, 長短相形, 高下相傾, 音聲相和, 前後相隨. 是以聖人處無為之事, 行不言之教 ) Thiên hạ đều biết tốt là tốt, thì đã có xấu rồi; đều biết lành là lành, thì đã có cái chẳng lành rồi. Bởi vậy, có và không sanh nhau, khó và dễ cùng thành, ngắn và dài cùng sanh, cao và thấp cùng chiều, giọng và tiếng cùng hòa, trƣớc và sau cùng theo. Vậy nên Thánh nhân dùng Vô Vi mà xử sự, dùng bất ngôn mà dạy dỗ, không phải là không nói, mà không nói đến Thị Phi, Thiện Ác, bởi nói Thị thì Phi dấy lên, nói Thiện thì Ác dấy lên. Thực ra, nếu có thể dạy đƣợc điều gì, thì chắc chắn ông sẽ không bỏ lỡ cơ hội để chỉ dạy. Ông nói: Nhơn chi sở giáo, ngã diệc giáo chi ( 人之所敎, 我亦敎之 ). Chỗ mà ngƣời xƣa dậy đƣợc, ta nay cũng dạy... (Ch.42). Dạy cái gì? Dạy những chân lý thông thƣờng mà không cần minh chứng nhƣ câu dùng bạo động, chết bạo tàn ( 強梁者不得其死 ) 94 v.v Huống chi lời dạy khéo, là lời dạy mà ngƣời thụ giáo không hay là đƣợc thụ giáo, mà ngƣời dạy cũng không dè là mình đã dậy. Đó là dạy một cách khéo léo, kín đáo chứ không vinh váo ra mặt thầy đời. Những lời dạy nhƣ thế mới là có nhiều kết quả nhất, đó là hành dộng Vô Vi, đó là bất ngôn chi giáo. Thiện hành vô triệt tích, thiện ngôn vô hà trích... ( 善行無轍跡, 善言無瑕謫 ) Đi khéo không để lại dấu chân, nói khéo không để lỗi lầm... (Ch.27). Một việc làm đƣợc gọi là hoàn toàn khi nào làm mà không ai nhận thấy dấu vết của việc làm. Đó là Vô vi nhi vô bất vi ( 無為而無不為 ), không làm, nhƣng không có gì mà không làm. Bậc đạt Đạo, dạy ngƣời mà không ai dè là đƣợc dạy, ngƣời dạy không cho mình có dạy mà cậy công, ngƣời đƣợc dạy không hay là mình đƣợc dậy mà ghi ân, nên không có sự bội ân. Lại nữa, sự hiểu biết của ta phải tự ta tìm lấy, không thể do kẻ khác truyền dạy. Là tại sao? Có dạy đƣợc chăng là vì nơi ngƣời đã có sẵn mầm tƣ tƣởng mà ta muốn truyền dạy. Nên chi Trang Tử mới nói: Đồng với ta cho ta là phải và chấp nhận, còn không đồng với ta cho ta là quấy và không chấp nhận. Nhƣ vậy thì không ai có thể dạy ai đƣợc; ta chỉ khêu gợi đƣợc những gì có sẵn nơi tâm trí kẻ khác mà thôi. Đó cũng là một trong nhiều nghĩa của bất Ngôn chi giáo. Tóm lại, với bốn chữ bất ngôn chi giáo, đủ chứng minh rằng Lão Tử không bao giờ chủ trƣơng chính sách ngu dân nhƣ đã có nhiều ngƣời ngộ nhận mà gán cho ông. Bất 94 Cƣờng lƣơng giả, bất đắc kỳ tử. (Ch.42)

70 ngôn chi giáo là phƣơng pháp giáo dục chỉ dùng đến sự khêu gợi, không dùng phép hữu vi mà nhồi sọ, mà bắt buộc kẻ khác phải nhận sự hiểu biết của mình. Chƣa đến lúc nói, thì không nói; đến lúc phải nói thì chỉ nói nửa lời thôi, cốt để khêu gợi, giúp cho ngƣời khải phát cái tri thức tiềm tàng của ngƣời, nghĩa là ngƣời thông đạt là kẻ giúp cho ngƣời suy nghĩ, chứ không phải là ngƣời suy nghĩ thế cho ngƣời 95. Lối nhận xét này của Lão Tử là lối nhận xét chung của phần đông bậc trí giả Đông phƣơng. Theo ngƣời Đông phƣơng, một sự hiểu biết gì mà không phải tự mình tìm ra, không phải là một sự hiểu biết thật, mà là một sự hiểu biết nhồi sọ, một thứ hiểu biết ngoài da. Đọc một bài văn hay một quyển sách mà biết thích và cho là hay là vì nó đồng với chỗ ƣa thích của mình và cũng nhờ đó mà nó khêu gợi lên đƣợc và làm vang dội tâm hồn mình. Đó là chỗ mà ngƣời Đông phƣơng gọi đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Cho nên đọc sách (về Đạo học) theo ngƣời Đông phƣơng không phải là để học thêm của ngƣời, mà là để tìm hiểu cái sâu thẳm, khải phát cái mà lòng ấp ủ hoặc đã có sẵn nơi mình mà mình không dè. Vì vậy, cũng thời một câu văn mà có kẻ nghe qua không thấy chút gì rung cảm; trái lại, có kẻ vừa đọc qua là thấy cả cái ngƣời của mình rung chuyển lạ thƣờng (...) Sách vở Kinh điển của Đông phƣơng (mà quyển Đạo Đức Kinh đây là một) vì thế phần nhiều dùng một lối văn rất vắn tắt không lý luận, cũng không minh chứng dài dòng. Đó là cốt để cho kẻ học hỏi phải dụng công suy nghĩ và lắng nghe cái tiếng dội nơi chỗ thâm sâu của lòng mình. Lời lẽ trong sách chỉ để khêu gợi... mà muốn khêu gợi thì chỉ nên nói nửa lời thôi. Đọc sách của Đông phƣơng viết ra phải nhớ lời nói này của một học giả Tây phƣơng khuyên ta: Điều quan trọng không phải nơi cái điều mà quyển sách muốn nói với ta, mà nơi những gì quyển sách khêu gợi được nơi lòng ta. Xem nhƣ trí thức và lý luận của các hiền giả Đông phƣơng đâu có kém gì ngƣời Tây phƣơng, thế nhƣng tại sao sách vở họ viết ra lại dùng một lối văn vắn tắt, không mạch lạc, không minh chứng? Đó là dụng ý của họ cốt tạo một cái học về bề sâu, khêu gợi và làm khải phát cái tiềm lực thiêng liêng tàng ẩn trong đáy lòng ngƣời đệ tử hay ngƣời đọc sách. Sự tối tăm cố ý của câu văn có công dụng hấp dẫn của nó là kích thích óc tò mò, sự tìm hiểu ẩn ý của ngƣời viết và nhân đó giải phóng những tiềm lực thiêng liêng ẩn núp trong đáy lòng của mình 96. Phái Thiền học của Phật giáo Đại thừa lại còn đi xa hơn trong vấn đề bất ngôn chi giáo do Lão Tử đề xƣớng. Họ cho rằng: giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Vì Đạo học là một vấn đề không thể dùng danh từ mà truyền đƣợc. Ông Thầy ở Đông phƣơng không vội vàng truyền giáo cho bất cứ ai. Dù là đối với các đệ tử của mình đến cầu thụ thỉnh giáo. Ông thầy Đông phƣơng cũng đợi đến khi nào lòng ngƣời cầu Đạo chí thành và đủ sức hiểu biết mới chịu nói ra và cũng chỉ nói nửa lời mà thôi! Đó là do quan niệm về lối dậy dỗ theo thuyết bất ngôn chi giáo mà ra vậy. TAM BỬU 95 Phƣơng pháp dạy của lối giáo dục Mới (bên Âu Mỹ) ngày nay. 96 Văn minh Đông phương và Tây phương (trang ) (cùng một tác giả)

71 三寶 Chƣơng 67, Lão Tử viết: Ngô hữu Tam bửu, trì nhi bão chi: Nhất viết Từ, Nhị viết Kiệm, Tam viết Bất cảm vi thiên hạ tiên. Từ cố năng Dũng, Kiệm cố năng quảng, Bất cảm vi thiên hạ tiên, cố năng thành khí trưởng ( 我有三寶, 持而保之 : 一日慈, 二日儉, 三日不敢為天下先. 故能成器長 ). Ta có ba vật báu, hằng nắm giữ và ôm ấp: một là Từ, hai là Kiệm, ba là không dám đứng trƣớc thiên hạ. Từ mới có Dũng, Kiệm mới có rộng, không dám đứng trƣớc thiên hạ thì đƣợc ngôi cao. 1) Từ 慈 là yêu thƣơng tất cả mọi ngƣời bất luận là ngƣời lành hay ngƣời dữ, tha thứ độ lƣợng. Chƣơng 49, ông có nói: thiện giả ngô thiện chi, bất thiện giả ngô diệc thiện chi... Tín giả ngô tín chi, bất tín giả ngô diệc tín chi ( 善者吾善之, 不善者吾亦善之 信者吾信之, 不信者吾亦信之 ). Với kẻ lành thì lấy lành mà ở, với kẻ chẳng lành cũng lấy lành mà ở... Với kẻ thành tìn thì lấy thành tín mà ở, với kẻ không thành tín thì cũng lấy thành tín mà ở. Nhƣ thế ta thấy rằng Lão Tử rất là hoằng đại đối với tất cả mọi ngƣời. Dƣới mắt ông không có kẻ thiện ngƣời ác, không có kẻ phải ngƣời quấy, không có kẻ quý ngƣời tiện... Gần với Bát Nhã Bình đẳng của nhà Phật. Không nhƣ Khổng Tử chủ trƣơng dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức, Lão Tử xƣớng lên thuyết báo oán dĩ đức. Lấy đức mà trả oán thì oán mới tiêu tan, lấy trực mà báo oán thì cũng không làm sao dứt đƣợc hậu hoạn của lóng thù hận. Nhân đạo phải đứng trên công lý. Với chữ Từ của Lão Tử, ta không lạ gì ông khinh Nhân Nghĩa mà trọng Đạo Đức, lòng rất rộng rãi, không câu chấp, không thiên vị. Đó là hạnh của bậc chí nhân. Lấy oán mà báo oán là việc thƣờng tình, lấy trực mà báo oán thì cao hơn một bực, nhƣng lấy đức mà báo oán thì phải là kẻ phi thƣờng, đứng trên loài ngƣời vì đã tha thứ, lại còn yêu thƣơng đƣợc kẻ đã làm hại ta, phải là bậc chí nhân chí dũng trên đời, phải là kẻ đã thắng đƣợc lòng vị kỷ và ham sống của mình. Thắng nhơn giả hữu lực, tự thắng giả cường : Kẻ mà thắng đƣợc lòng ích kỷ của mình, lấy đức mà trả oán, là kẻ dũng mãnh nhất trên đời. Bởi vậy Lão Tử mới nói: Từ cố năng Dũng ( 慈故能勇 ) 97. Tóm lại, ngƣời mà thực hiện đƣợc chữ Từ, là ngƣời chí thiện chí tín. Chí thiện nên không thiện riêng với một ai, dù với ngƣời thiện hay bất thiện. Chí tín nên nên không thành tín với riêng ai, dù là với ngƣời thành tín hay không thành tín. Vô Vi của Lão Tử quả là khó khăn cho những ai chƣa diệt đƣợc Bản Ngã, chƣa diệt đƣợc lòng tham sinh úy tử của mình, và quả là hành vi của ngƣời đại dũng. Ta nên để ý đến cái Dũng của bậc Thánh nhân: sở dĩ họ khác với thế nhân là nơi họ, Dũng bao giờ cũng căn cứ trên lòng Từ. Bởi 97 Xem quyển Cái Dũng của Thánh Nhân (cùng một tác giả)

72 vậy Lão Tử mới nói: Kim xá Từ thả Dũng... tử hĩ ( 今舎慈且勇 死矣 ) (Nay, nếu bỏ Từ mà đƣợc Dũng, là chết vậy). Đó là thất phu chi dũng, đó là cái dũng của kẻ bạo tàn: Cường lương giả, bất đắc kỳ tử (dùng bạo lực, chết bạo tàn) (Ch.42), đó là lẽ dĩ nhiên. 2) Của báo thứ hai của Lão Tử, là Kiệm. Kiệm, tức là biết ức chế lòng thích xa xỉ và thỏa mãn thú tính của nhục thân. Lão Tử thƣờng khuyên ta hãy khứ thậm, khứ xa, khứ thái. Xa là xa xỉ; thái là phung phí kiêu sa. Thói xa hoa là cái bệnh nguy hiểm nhất cho kẻ cầm quyền trị nƣớc. Kiệm giúp cho ta biết đủ, sống không nô lệ lấy dục vọng, không nô lệ ngoại giới, không nô lệ bất cứ một thế lực nào. Trái lại, kẻ sống trong xa hoa, sớm muộn gì cũng sẽ đi đến nô lệ dƣới mọi hình thức. Ngƣời mà có đức Kiệm là ngƣời sống trong đơn giản, không chạy theo cáo phụ mà quên cái chánh của đời ngƣời. Cho nên, ngƣời Kiệm mới có thể có lòng rộng rãi, thứ tha, tự do và làm nên đại sự: Kiệm, cố năng quảng. Cầm quyền trị nƣớc mà sống không kiệm ƣớc, kiêu sa là cái hại cho nƣớc; họ sẽ đặt vào đầu dân chúng sƣu cao thuế nặng để có đủ mà cung phụng nếp sống củ họ, Ngƣời theo Đạo thì: tổn hữu dư, bổ bất túc, trái lại nếu vì lòng ích kỷ (ngƣời xa xỉ là ngƣời ích kỷ) mà tổn bất túc, bổ hữu dư làm cho giàu nghéo quá chênh lệch, giai cấp đấu tranh, phải chăng chính mình gây nên họa chiến tranh, tự mình vời họa đến cho mình. Chƣơng 53, ông nói: Triều thậm trừ, điền thậm vu, thương thậm hư. Phục văn thái, đái lợi kiếm, yếm ẩm thực, tài hóa hữu dư. Thị vị đạo khoa, phi Đạo dã tai! ( 朝甚除, 田甚蕪, 倉甚虚. 服文綵, 帶利劍, 厭飮食, 財貨有餘. 是謂盗夸, 非道也哉 ) (Triều đình lộng lẫy thật, mà ruộng nƣơng đầy cỏ hoang, còn kho đụn thì trống trơn. Áo quần sang trọng thật, đeo kiếm bén, ăn uống chán, của cải thừa. Nhƣng đó là đƣờng của đạo tặc, đâu phải đƣờng của Đạo lớn). Nếu lâu dài ở chốn triều đình mà lộng lẫy, huy hoàng là nhờ ngƣời ta đã lấy chỗ thiếu của dân mà bù thêm vào chỗ dƣ của giới giàu sang ở triều đình. Vì thế mới nói ruộng nƣơng đầy cỏ hoang, kho đụn trống rỗng không còn một hột thóc. Các bậc Vua Chúa Quan Quyền thì có dƣ lại có dƣ thêm, còn chúng dân đã thiếu lại càng thiếu thêm, đó là hậu quả của sự trị nƣớc của kẻ không lấy Kiệm ƣớc làm đầu. Bởi vậy, họ ăn mặc cực kỳ sang trọng, đeo gƣơm bén, ăn uống chán, của cải thừa... Nhƣ vậy họ là kẻ đạo khoa nghĩa là bọn đạo tặc cƣớp của kẻ khác để khoa trƣơng... chứ không phải trị nƣớc theo Đại Đạo, vì theo Đạo phải biết bớt chỗ dư bù chỗ thiếu. Chƣơng 59, Lão Tử đã nói rõ: Trị nhơn sự thiên mạc nhược sắc. Phù duy sắc, thị vị tảo phục, tảo phục vị chi trọng tích đức. Trọng tích đức tắc vô bất khắc. Vô bất khắc tắc mạc chi kỳ cực. Mạc chi kỳ cực khả dĩ hữu quốc (Trị ngƣời, giúp Trời không chi bằng tiết kiệm. Tiết kiệm phải là việc lo đầu tiên. Lấy nó làm việc lo đầu tiên, thì chứa đƣợc đức. Chứa đƣợc đức, thì không có gì là không thắng đƣợc, thì không ai biết đƣợc chỗ cùng cực của nó. Không ai biết đƣợc chỗ cùng cực của nó, thì mới có thể nắm giữ đƣợc nƣớc) 治人事天莫若嗇. 夫唯嗇, 是以早服, 早服謂之重積德. 重積德則無不克. 無不克則莫知其極. 莫知其極可以有國.

73 3) Của báu thứ 3 của Lão Tử, là không dám đứng trước thiên hạ. Ngƣời đời thƣờng vịn vào dây mà cho ông là hèn yếu, là chủ trƣơng thoái hóa, chống với tiến bộ. Thật có đúng nhƣ vậy, nếu ngƣời ta quan niệm tiến bộ là tranh hơn tranh thua để tìm cách đứng trên đầu trên cổ đồng loại mới hả lòng cho, thì Lão Tử quả thật là ngƣời chủ trƣơng không nên tiến bộ kiểu ấy. Và nhƣ vậy, cho rằng ông chủ trƣơng phản tiến hóa cũng không sao. Huống chi Lão Tử cho rằng mỗi ngƣời mỗi vật đều mang nơi mình một cái Lý độc nhất vô nhị. Lý ấy đồng với Đạo. Theo ông thì phản giả Đạo chi động ( 反者道之動 ), nghĩa là cái động của Đạo là trở về. Trở về là phục quy kỳ căn (trở về nguồn gốc) tức là trở về với cái Đạo nơi mình. Nhƣ vậy, thì thuyết Tiến hóa chủ trƣơng sự trở nên, nghĩa là trở nên một cái gì mà mình chƣa có bằng sự chiếm đoạt, thu trữ ngoại vật là trái với cái chủ chỉ của Lão Tử rất xa vậy. Còn bảo rằng: không dám đứng trước thiên hạ là hèn yếu lại cáng không đúng. Thích đứng trƣớc và đứng trên thiên hạ phải chăng là cái tật chung của những con ngƣời bị tâm cảm tự ty? Trái lại, kẻ mà nơi trong đầy đủ lại không thích đứng trên thiên hạ mà trái lại hay nhún nhƣờng là khác. Cùng một nghĩa với những câu: tri kỳ hùng, thủ kỳ thư, tri kỳ bạch, thủ kỳ hắc. Tri kỳ vinh, thủ kỳ nhục (Ch.28) ( 知其雄, 守其雌, 知其白, 守其黑, 知其榮, 守其辱 ) (mình là con đực, hãy làm nhƣ con cái... Mình là trắng, hãy làm nhƣ đen mình là vinh, hãy giữ làm nhục). Nhƣ vậy đâu phải là hèn nhát, mà lại là một sự đại dũng trong đời. Kẻ thắng đƣợc lòng tự tôn tự đại, thắng đƣợc lòng ham danh hiếu thắng, đâu phải kẻ tầm thƣờng mà làm đƣợc. Thắng nhơn giả hữu lực, tự thắng giả cường (Thắng ngƣời là kẻ có sức, nhƣng thắng mình mới là ngƣời mạnh). Chƣơng 66, ông nói: Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả, dĩ kỳ thiện hạ chi (...) Thị dĩ dục thượng dân tất dĩ ngôn hạ chi, dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi. Thị dĩ thánh nhân xử thượng nhi dân bất trọng, xử tiền nhi dân bất hại. Thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất yếm. Dĩ kỳ bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh. (Sông biển sở dĩ làm đặng Vua trăm hang là vì nó khéo đứng dƣới thấp... Bởi vậy, muốn ngồi trên dân, hẳn nên lấy lời mà hạ mình. Muốn đứng trƣớc dân, hẳn nên lấy mình để ra sau. Vậy nên, bậc Thánh nhân ở trên mà dân không hay nặng, ở trƣớc mà dân không thấy hại. Vì thế, thiên hạ không chán, lại còn đẩy tới trƣớc. Bởi đó không tranh nên thiên hạ không cùng tranh với đó đƣợc) ( 江海所以能為百谷王者, 以其善下之 是以欲上民必以言下之, 欲先民必以身後之. 是以聖人處上而民不重, 處前而民不害. 是以天下樂推而不厭. 以其不爭, 故天下莫能與之爭 ). Lão Tử lấy sông, biển để cụ thế hóa và minh chƣớng chủ trƣơng không dám đứng trước thiên hạ... Nếu muốn ngồi trên trên dân chúng hãy tự mình khiêm cung nhũn nhặn, và nếu muốn cầm đầu nhân dân phải biết đứng đằng sau lƣng họ. Đây là nguyên tắc xử thế điển hình của Lão Tử thƣờng đƣợc nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong sách của ông.

74 Cũng đồng một ý với câu hậu kỳ thân nhi thân tiên (để thân ra sau mà thân ra trƣớc). Và quý dĩ tiện vi bổn, cao dĩ hạ vi cơ. Thị dĩ Hầu vương tự vị cô quả bất cốc. Thử dĩ kỳ tiện vi bổn da? Phi hồ? (Quý lấy tiện làm gốc, cao lấy thấp làm nền; nên chi, hầu vƣơng tự xƣng là con côi, ít đức, không lành. Đó là lấy tiện làm gốc không phải vậy sao?) (Chƣơng 39) ( 故貴以賤為本, 高以下為基 ; 是以侯王自謂孤寡不穀. 此其以賤為本邪? 非歟?). Bậc thánh nhân trị nƣớc ngồi trên đầu nhân dân mà nhân dân không hay là mình ngồi trên đầu. Dẫn đạo nhân dân mà nhân dân không cảm thấy bàn tay của mình dẫn dắt. Là nhờ họ không dám đứng trước thiên hạ. Bởi vậy ngƣời dân không chán, lại còn đƣa mình lên ngôi cao. Bởi luôn luôn đứng dƣới thấp và ở đằng sau nên ngƣời dân không có chỗ để tranh chấp, cho nên mới nói: vì không tranh mà thiên hạ không sao cùng tranh với họ được. Thuyết bất tranh của Lão Tử cũng do thuyết bất cảm vi thiên hạ tiên mà ra. Trị nƣớc bằng đạo hữu vi lại không thế: thích ăn trên ngồi trƣớc, thích lấy cái trị mà trị thiên hạ, thích lấy ý riêng mà can thiệp đến việc riêng tƣ của thiên hạ... nên ngƣời dân cảm thấy mình bị trị quá rõ ràng. Do đó mà ngƣời dân mới sinh ra tâm trạng chống đối. Và nhân thế, bậc trị nƣớc phải lo đề phòng và củng cố uy quyền mình bằng luật lệ bủa giăng... Giữa cấp thống trị và bị trị đã có chỗ tranh nhau, thì trƣớc sau gì cũng sẽ có kẻ thắng ngƣời bại. Ngày mà ngƣời dân cảm thấy sức nặng của ngƣời trên đè xuống, cảm thấy cái bàn tay dẫn dắt chỉ đạo quá gắt gao còng giữ, họ sẽ đâm chán, mong vứt quăng gánh nặng, vƣợt khỏi cái bàn tay sắt buộc ràng Dùng đạo hữu vi mà trị nƣớc là tạo ra cho nhân dân có chỗ cùng tranh với ta... là nguy. Cho nên ông mới nói: Xá hậu thả tiên... tử hĩ. (Bỏ sau để đứng trƣớc là chết vậy) (Ch.67). Thật vậy, làm bậc trên thiên hạ mà thiếu tư cách thành thực khiêm nhu từ tốn, việc gì cũng chỉ muốn ngồi trên đầu trên cổ dân mà trị, tức là làm nhục thiên hạ, thế mà không chết thì là một sự may mắn lạ thường 98. Tóm lại, sự Lão Tử nói: Ta có ba vật báu thế là ta có thể hiểu ba vật báu ấy là ba cái chủ nghĩa lớn của ông đem ra xử thế. Mà chữ Từ là đứng đầu, hai báu kia đều do đó mà ra cả. Kiệm, là cũng nhờ lòng Từ, không nỡ xa xỉ, mình có dƣ mà ngƣời ngƣời thốn thiếu. Bất cảm vi thiên hạ tiên là không tranh dành cái việc làm nhục vào lòng ngƣời. Phải chăng cũng do lòng Từ mà có đƣợc cử chỉ quên mình ấy. Cho nên rút lại mà nói thì Từ là đầu mối của Đạo xử thế của ông Lão tử Đạo Đức kinh (Bản dịch của Thu Giang). 99 Nên so sánh với ý nghĩa của quẻ Khiêm trong Dịch Kinh: nội quái là Cấn (sơn), ngoại quái là Khôn (địa). ( %20Khi%C3%AAm.jpg) Khiêm (Địa Sơn Khiêm) là tƣợng núi cao mà mọc trong lòng đất thấp. Quẻ Khiêm thì nội quái là núi cao, ngoại quái là đất thấp. Nội là thực thể (bên trong), ngoại là hình dung (bên ngoài). Ngƣời ta chỉ nhờ khéo ở chỗ thấp kém mà đức vƣợt lên cao. Đó là ý nghĩa của quẻ Khiêm, tức là khiêm nhu từ tốn, mà có kẻ cho rằng Lão Tử đã mƣợn, để lập ra cái thuyết bất cảm vi thiên hạ tiên của ông.

YLE Movers PM.xls

YLE Movers PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 18/11/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 BUI PHAM DANG NAM 11/06/2010 3 2 3 8 2 LE PHUC ANH 07/07/2009 2 4 2 8 3 VO GIA

More information

SBD HO TEN Ngày Sinh Sửa đổi DOAN THI AI DAO THI AN DO VAN AN DO XUAN AN LE

SBD HO TEN Ngày Sinh Sửa đổi DOAN THI AI DAO THI AN DO VAN AN DO XUAN AN LE 30001 DOAN THI AI 05.01.1993 30002 DAO THI AN 17.05.1995 30003 DO VAN AN 09.08.1995 30004 DO XUAN AN 20.09.1993 30005 LE HONG AN 29.07.1992 30006 LE XUAN AN 19.02.1994 30007 MA MY AN 25.08.2005 30008 MAC

More information

SBD HỌ TEN Ngày Sinh Sửa đổi NGUYEN VINH AI DO XUAN AN HOANG VAN AN LUU LE HONG AN

SBD HỌ TEN Ngày Sinh Sửa đổi NGUYEN VINH AI DO XUAN AN HOANG VAN AN LUU LE HONG AN 40001 NGUYEN VINH AI 26.10.1995 40002 DO XUAN AN 03.05.1998 40003 HOANG VAN AN 25.09.1994 40004 LUU LE HONG AN 19.03.2003 40005 NGO THI THUY AN 17.11.2000 40006 NGUYEN CONG AN 07.07.1997 40007 NGUYEN HUU

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NG

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NG DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NGUYEN THI NGOC HUYEN NGUYEN VAN DAN NGUYEN QUANGMINH

More information

YLE Starters PM.xls

YLE Starters PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 08/12/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Starters 1 WANG NAN SIANG 28/02/2010 3 5 5 13 2 CHEN HSUAN BANG 08/04/2012 5 5 5 15 3 HUANG

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR Class: Pre- Intermediate 1 1 Tran Duc Anh 6.5 5.7 4.3 4.9 4.0 4.0 5.9 6.7 5.3 D 2 Tran Ngoc Van Anh 7.6 8.2 6.9 8.2 7.3 7.3 8.9 9.4 8.0 B 3 Pham Dai Duong 7.4 8.2 7.6 7.4 6.6 7.1 8.5 9.2 7.8 C 4 Le Xuan

More information

DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM "SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN" DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY ,403 2 NGUYEN THI

DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY ,403 2 NGUYEN THI DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM "SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN" DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY 025355865 152,403 2 NGUYEN THI HUONG HUYEN 320635110 1,500,000 3 HA DUY THANH 023146891

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Intermediate 1   RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PR Class: Intermediate 1 1 Dang Quang Anh 8.0 6.0 6.1 7.9 6.8 7.3 7.3 7.7 7.1 C 2 Nguyen Thuy Quynh Anh 8.3 6.4 6.0 7.5 6.6 7.3 5.4 9.1 7.1 C 3 Nguyen Tran Ha Anh 8.8 6.4 8.5 8.7 9.0 7.1 9.9 8.5 8.4 B 4 Chang

More information

Mục lục 1.Chú ý an toàn 2.Danh sách các bộ phận 4~5 6 3.Chú ý trong thi công 7 4.Các bước thi công chính Chuẩn bị lắp đặt bồn tắm~lắp đặt bồn tắm (1)C

Mục lục 1.Chú ý an toàn 2.Danh sách các bộ phận 4~5 6 3.Chú ý trong thi công 7 4.Các bước thi công chính Chuẩn bị lắp đặt bồn tắm~lắp đặt bồn tắm (1)C NTE150 2013.10 HƯỚNG DẪN LẮP ĐẶT BỒN TẮM GANG TRÁNG MEN ĐẶT SÀN CÓ CHÂN FBY1756PWGE, FBY1756PWNE Để phát huy hết tính năng của sản phẩm, vui lòng lắp đặt đúng như bản hướng dẫn này. Sau khi lắp đặt, hãy

More information

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx277 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx111 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 3 DO DINH DAO 0943xxx000 03. TITANIUM STEPUP CREDIT

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER 1 SCHOOL YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER 1 SCHOOL YEAR Class: Pre- Intermediate 1 1 Tran Phuc An 8.6 6.7 6.8 6.5 6.9 7.4 8.7 8.4 7.5 C 2 Nguyen Manh Dan 9.1 8.4 7.9 6.9 5.2 6.7 9.5 6.7 7.6 C 3 Huynh Tuan Dat 8.7 7.4 6.8 6.3 4.1 7.7 9.7 7.6 7.3 C 4 Lam The

More information

N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN LUU LE HONG AN NGUYEN CONG AN NGUYEN DINH NGAN AN

N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN LUU LE HONG AN NGUYEN CONG AN NGUYEN DINH NGAN AN N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN 23.10.1996 0002 LUU LE HONG AN 19.03.2003 0003 NGUYEN CONG AN 07.07.1997 0004 NGUYEN DINH NGAN AN 13.01.2000 0005 NGUYEN HAI AN 05.12.1995 0006 NGUYEN QUOC AN

More information

YLE Movers PM.xls

YLE Movers PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 16/12/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 NGUYEN HUU XUAN KHANG 10/04/2009 4 4 5 13 2 TRAN LONG MINH DUY 01/10/2008 2 2

More information

SBD HO N5 TEN NGAY SINH BUI NGOC AN HOANG THI NHI AN HOANG THI UT AN NGUYEN BINH AN

SBD HO N5 TEN NGAY SINH BUI NGOC AN HOANG THI NHI AN HOANG THI UT AN NGUYEN BINH AN SBD HO TEN NGAY SINH 50001 BUI NGOC AN 16.08.1989 50002 HOANG THI NHI AN 19.08.1993 50003 HOANG THI UT AN 19.08.1993 50004 NGUYEN BINH AN 15.12.1995 50005 NGUYEN HUU AN 06.10.1993 50006 PHAM THI AN 05.04.1984

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx277 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx111 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 3 DO DINH DAO 0943xxx000 03. TITANIUM STEPUP CREDIT

More information

Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/ /12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG G

Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/ /12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG G Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/2018-31/12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN 422076XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG GIANG 457353XXXXXX8460 1,000,000 3 NGO VAN PHUC 422076XXXXXX7476

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Upper-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YE

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Upper-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YE Class: Upper-Intermediate 1 History Economics Math Biology Physics Chemistry 1 Le Hai An 8.3 8.7 8.8 9.0 9.4 9.6 7.4 9.1 8.8 B 2 Hoang Truc Anh 7.1 5.5 7.2 7.4 8.0 7.7 6.0 6.9 7.0 C 3 Nguyen Phu Cuong

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM No. Class: Starter 1 Name RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM No. Class: Starter 1 Name RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR Class: Starter 1 1 Tran Nguyen Binh An 7.2 5.6 7.1 5.3 3.8 5.3 8.6 6.1 D 2 Phung Lam Ngoc An 7.8 8.2 8.6 7.6 4.3 7.1 9.3 7.6 C 3 Tu Pham Tieu Bang 7.5 8.3 9.2 7.4 4.4 7.9 9.6 7.8 C 4 Nguyen Thi Truong

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Elementary 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROG

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Elementary 1   RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROG Class: Elementary 1 1 Tran Nguyen Binh An 7.6 6.0 6.1 6.9 6.8 5.9 7.1 6.6 C 2 Phung Lam Ngoc An 8.2 6.8 8.1 7.9 8.2 6.4 8.7 7.8 C 3 Tu Pham Tieu Bang 7.4 8.1 8.4 8.4 8.6 8.3 9.3 8.4 B 4 Nguyen Thi Truong

More information

Movers PM.xlsx

Movers PM.xlsx BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 24/03/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 NGUYEN LINH CHI 31/12/2009 5 5 5 15 2 BUI HOANG QUAN 19/06/2008 5 4 5 14 3 BLINO

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1   RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Chemistry Mathematics 1 Dang Quang Anh 7.8 7.6 6.8 7.9 7.0 6.2 8.7 8.4 7.6 C 2 Nguyen Thuy Quynh Anh 7.6 8.7 6.7 7.3 6.5 6.1 6.8 7.3

More information

Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20, xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20, xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000

Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20, xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20, xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000 Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20,000 090xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20,000 093xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000 098xxxx068 3/3/2017 9:00 DO TUAN ANH 20,000 012xxxx122

More information

N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH DUONG QUOC AI CHU MINH AN NINH VAN AN PHAM THI THUY AN

N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH DUONG QUOC AI CHU MINH AN NINH VAN AN PHAM THI THUY AN N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH 50001 DUONG QUOC AI 16.09.1993 50002 CHU MINH AN 14.08.1990 50003 NINH VAN AN 22.06.1994 50004 PHAM THI THUY AN 17.05.2000 50005 VUONG THI AN 03.09.1992 50006 BUI THI ANH 08.08.1997

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Flyers 1 RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR 2015

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Flyers 1 RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR 2015 Class: Flyers 1 No. Name Speaking Listening Grammar 1 PHAN DIEN KY BOI 8.3 9.1 8.8 8.9 7.6 7.8 8.6 7 8.3 Distinction 2 LUC PHU HUNG 8.5 9 7.9 8 7.3 6.8 9.1 7 8 Distinction 3 LUU DUONG BAO KHANH 7.5 9.6

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLISH

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLISH Class: Movers 1.1 No. Name Speaking Listening Grammar Social Studies 1 NGUYEN CAO THIEN AN 7.7 9.3 9.8 8.8 9.7 8.9 8.9 9.6 9.1 High Distinction 2 LE PHUONG ANH 7.7 8.7 9.0 7.8 9.1 6.5 7.8 8.6 8.2 Distinction

More information

KET for Schools_ August xls

KET for Schools_ August xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE Kỳ thi ngày: 11/08/2018 Cấp độ: KET 0001 CONG CHIEN NGUYEN Pass 128 0002 BA RIN PHAM Z 0003 THI MAI ANH DO Council of Europe Level A1 112 0004 KHOI

More information

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name   Speaking Listening Grammar RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Chemistry Mathemati 1 Le Hai An 8.9 9.0 7.6 7.7 9.9 7.4 7.3 9.0 8.4 B 2 Le Minh Anh 7.1 5.6 6.6 5.4 7.3 7.7 7.7 5.3 6.6 C 3 Hoang Truc

More information

Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC

Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC DIEM 093xxxxx779 1,000,000 3 NGUYEN TIEN DUNG 090xxxxx796

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Date of issue: Ja

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Date of issue: Ja Class: Intermediate 1 Geograph Histor Econom ic Math Phsics Chenistr GPA 1 Vu Nhat Chuong 8.9 9.0 6.4 8.6 7.6 6.5 7.5 7.0 7.7 C 2 Nguen Tran Anh Du 9.0 8.9 6.7 8.3 8.7 8.4 7.6 8.2 8.2 B 3 Do Le Y Duen

More information

NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do

NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do - Hanh phuc Dia< M3D1 16/12/201 ~.98 T*. Khai,HaN6i

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: TOEFL Beginner 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR 2

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: TOEFL Beginner 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR 2 Class: TOEFL Beginner 1 Speaking Listening Grammar Reading & Literature Geography History Economics Math Biology Physics Chemistry 1 Le Hai An 8.9 9.2 8.3 9.2 8.7 9.6 8.2 8.9 8.9 B 2 Hoang Truc Anh 8.7

More information

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers 2.1 Name Speaking RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR List

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers 2.1 Name   Speaking RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR List No. Class: Movers 2.1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Writing Social Studies Science Maths 1 NGUYEN HOANG ANH 8.8 9.7 8.6 9.7 9.8 9.9 9.8 9.2 9.4 High Distinction 2 DOAN NGOC TRUC GIANG 8.6 9.8

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Starters RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLIS

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Starters RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLIS Class: Starters 2.1 No. Name Speaking Listening Grammar Social Studies Science 1 PHAM HUYNH LOC AN 7.5 7.4 6.7 8.7 5.9 6.9 8.0 7.4 7.3 Pass with Merit 2 JI YOU BIN 7.8 10.0 10.0 9.5 9.0 7.5 9.3 9.3 9.1

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG H

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG H DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG HA 2,000,000 2 Sở giao dịch NGUYEN PHUOC MINH DUC 2,000,000

More information

GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM NHCT SAM SON HUA THANH PHONG NHCT CA

GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM NHCT SAM SON HUA THANH PHONG NHCT CA GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN 1294090 NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM 6327127 NHCT SAM SON HUA THANH PHONG 0737415 NHCT CA MAU NGUYEN THI CAI 6532757 NHCT QUANG NINH NGUYEN

More information

Bốn bài thi của Phó đại sĩ

Bốn  bài  thi  của  Phó  đại  sĩ 1 Bốn bài thi của Phó đại sĩ Tác giả : Văn Thận Độc Dịch giả : Dương Đình Hỷ Phó đại sĩ (497-569) là một cư sĩ đời Tề, Lương người huyện Nhĩa Ô nay thuộc tỉnh Triết Giang. Năm 16 tuổi lấy Lưu thị, sanh

More information

Final Index of Viet Ad Person.xls

Final Index of Viet Ad Person.xls 11000-001 Truong Tan Sang 11000-002 Nguyen Thi Doan 12100-001 Nguyen Phu Trong 12220-001 Nguyen Phu Trong 12220-002 Truong Tan Sang 12220-003 Nguyen Tan Dung 12220-004 Nguyen Sinh Hung 12220-005 Phung

More information

MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM)

MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM) MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM) TAP DOAN HOA CHAT VIET NAM CONG TY CO PHAN BOT GIAT

More information

THÔNG CÁO BÁO CHÍ

THÔNG CÁO BÁO CHÍ HỘI SỰ NGHIỆP TỪ THIỆN MINH ĐỨC Minh Duc Charitable Foundation (MDCF) 明德慈善事業基金會 Website: http://www.tuthienminhduc.com Địa chỉ: Chùa Trung Lâm, xã Tân Xã, Thạch Thất, Hà Nội Số 242A Minh Khai, Quận Hai

More information

2. Quê quán 3. Tên họ 4. Chức tước 5. Lão tử với Khổng tử có gặp nhau không? Khổng tử có hỏi Lão tử về lễ không? 6. Lão tử có phải là Lão Lai tử không

2. Quê quán 3. Tên họ 4. Chức tước 5. Lão tử với Khổng tử có gặp nhau không? Khổng tử có hỏi Lão tử về lễ không? 6. Lão tử có phải là Lão Lai tử không Nguyễn Hiến Lê Lão Tử Đạo Đức Kinh MỤC LỤC Vài lời thưa trước Phần I: ĐỜI SỐNG và TÁC PHẨM Chương I: Đời sống 1. Sự tích Lão tử 1 Lão Tử - Đạo Đức Kinh Nguyễn Hiến Lê www.thienquan.net 2. Quê quán 3. Tên

More information

DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG HO THI MY QUYEN NGUYEN THANH VINH LAM QUA

DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG HO THI MY QUYEN NGUYEN THANH VINH LAM QUA DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG 1 28342753 HO THI MY QUYEN 2 28259949 NGUYEN THANH VINH 3 28265356 LAM QUANG DAT 4 23156836 NGUYEN NGOC NHO 5 26231419 NGUYEN

More information

Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải

Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải 法輪大法義解 Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải 李洪志 Lý Hồng Chí Lời nói đầu Để làm tốt hơn nữa công tác phụ đạo Pháp Luân Đại Pháp, và theo yêu cầu của Hội Nghiên cứu và các trạm phụ đạo các nơi, [một số] giảng Pháp

More information

CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON XX

CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON XX CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON 457353XXXXXX8443 LE HONG THUY TIEN 230,000 2 HAI PHONG 478097XXXXXX3147

More information

Tinh Tan Yeu Chi 3

Tinh Tan Yeu Chi 3 法輪大法 Pháp Luân Đại Pháp 精進要旨三 Tinh Tấn Yếu Chỉ 3 李洪志 Bản dịch tiếng Việt trên Internet http://phapluan.org http://vi.falundafa.org MỤC LỤC Lời chúc đến Pháp hội tại New York...1 Sư phụ chúc mừng năm mới...1

More information

BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0CfflNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, n

BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0CfflNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, n BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0ClNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, nang cao chat hrong, hieu qua boat dong cua Lien hiep

More information

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng 5 nam 017 V/v huong din danh gia, hoan thanh h6 so BDTX nam hoc 016-017 Thuc hien KS

More information

Giáo trình tư duy thơ hiện đại Việt Nam

Giáo trình tư duy thơ hiện đại Việt Nam G'.0000016852 A I H O C Q U O C G I A H A NGUYEN BA THANH g i A o t r i n h i n DUY TH0 HIEN DAI VIET NAM O K ] O D G Ha NQI NHA XUAT BAN DAI HOC QUOC GIA HA NO' GIAOTRiNH TITDUY THAT HIEN DAI VIET NAM

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH "HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA" Giai đoạn 1: Từ 28/4/ /5/2016 STT GI

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA Giai đoạn 1: Từ 28/4/ /5/2016 STT GI DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH "HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA" Giai đoạn 1: Từ 28/4/2016-27/5/2016 1 GIAI 01: MAY ANH VO TIEN HUY AN DUONG 2 GIAI 01: MAY ANH

More information

UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIE

UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIE UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Xu- do - Hanh phiic Hd Tinh, ngdy/flf

More information

_x0001_ _x0001_

_x0001_	_x0001_ 1 BAO DO 2 HO NGUYEN 3 TAM PHAM 4 MY LINH TONG 5 THU DO 6 HONG NGUYEN 7 THOM NGUYEN 8 BINH VO 9 MY LE VO 10 HAI DUONG NGUYEN 11 DAO THI NGUYEN 12 LAN NGUYEN 13 ROMAI THI NGUYEN 14 TOAN NGUYEN 15 PHI VO

More information

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa 觀無量壽佛經 疏鈔演義 Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Tịnh Không Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Giảo chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang Quán Vô Lượng Thọ

More information

UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi,

UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi, UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi, kiem ta danh gia tong cac ky thi ket thuc hoc phan

More information

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG DỊCH VỤ SACOMBANK EBANKING Sacombank ebanking phiên bản Ngân hàng điện tử mới Ưu việt Thân thiện An toàn Hãy trải nghiệm các chức năng nổi trội của Sacombank - ebanking: Cá nhân hóa giao

More information

KINH VÀO HỌC

KINH VÀO HỌC KINH VÀO HỌC (Giọng nam xuân) KINH VĂN Đại từ phụ xin thương khai khiếu, Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ, Gần điều nên, lánh lẽ hư, 4. Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn. Dò đường Thánh khó khăn chẳng

More information

CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN

CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN CHUONG TRINH TAp HuAN Sau khi ky HQ'P dong tham gia ban hang da c~p voi Cong ty, Nha phan phoi c6 nghia vu hoan

More information

TIEM LUC CAN BANG-BAOVE SINH THAI VA PHAT TRIEN NONG THON QUA XAY DUNG HE THONG CHAN NUOI GIA CAM DAC SAN TAI VIETNAM

TIEM LUC CAN BANG-BAOVE SINH THAI VA PHAT TRIEN NONG THON QUA XAY DUNG HE THONG CHAN NUOI GIA CAM DAC SAN TAI VIETNAM The role of Old Hungarian Poultry Breeds in development of poor regions with regards to agrarian environmental protection and gene conservation in Vietnam VAI TRO CAC GIONG GIA CAM CHAN THA HUNGARY TRONG

More information

Phục hồi chức năng bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não

Phục hồi chức năng bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não Cao D ing Y te Plu'i Thp - Tlur vi?n PGS.TS. BSCC TRAN VAN CHUONG PHUC Hdl CH LfC NANG b n h n h a n l i t n u a n g u o i D O T A I B IE N M A C H M A U N A O NHA XUAT BAN Y HOC Ha Noi - 2010 PGS. TS.

More information

Viện nghiên cứu Phật học

Viện nghiên cứu Phật học Mục lục Lời nói đầu CHƯƠNG I Phần dẫn luận: Khái quát về 5 việc của Đại Thiên và phương pháp nghiên cứu CHƯƠNG II Thảo luận về những nguồn tư liệu liên quan đến Đại Thiên và 5 việc của ông 1. Vấn đề văn

More information

Microsoft Word - VIETFAIR's EXHIBITION SCHEDULE 2018 (Vietnamese Version) - update 28.9

Microsoft Word - VIETFAIR's EXHIBITION SCHEDULE 2018 (Vietnamese Version) - update 28.9 KẾ HOẠCH HỘI CHỢ TRIỂN LÃM (CHỦ YẾU) NĂM 018 do Công ty VIETFAIR tổ chức thực hiện TẠI HÀ NỘI STT Tên Hội chợ, Triển lãm Thời gian Địa điểm tổ chức Nội dung, quy mô Đơn vị chủ trì, ủng hộ, phối hợp Ghi

More information

Trang Tử và Nam Hoa Kinh - Nguyễn Hiến Lê

Trang Tử và Nam Hoa Kinh - Nguyễn Hiến Lê Trang Tử và Nam Hoa Kinh Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động Nguồn: http://vnthuquan.net/ Tạo ebook: Nguyễn Kim Vỹ. MỤC LỤC Lời thƣa trƣớc Phần I - Chƣơng 1 Chƣơng II

More information

* Tiểu kết chương CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ PHẬT GIÁO THỜI MINH MẠNG ( ) Đặc điểm Phật giáo thời Minh Mạng ( ).

* Tiểu kết chương CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ PHẬT GIÁO THỜI MINH MẠNG ( ) Đặc điểm Phật giáo thời Minh Mạng ( ). MỤC LỤC MỞ ĐẦU... 1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI... 1 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU... 2 3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU... 2 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU... 3 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN... 4 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN

More information

CONG TY CP NHI/A BINH MINH CQNG HOA XA HQI CHU NGHIA VlfT NAM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DAI HQI CO DONG

CONG TY CP NHI/A BINH MINH CQNG HOA XA HQI CHU NGHIA VlfT NAM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DAI HQI CO DONG CONG TY CP NHI/ BINH MINH CQNG HO X HQI CHU NGHI VlfT NM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DI HQI CO DONG THUONG NIEN NM 2018 - Can cu Luat Doanh nghiep so 68/2014/QH13

More information

2 汉语和越南语形容词的体 Trí thông minh về vận động (bodily/kinesthetic): Những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua cách vận động và sử

2 汉语和越南语形容词的体 Trí thông minh về vận động (bodily/kinesthetic): Những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua cách vận động và sử 1 汉语和越南语形容词的体 ỨNG DỤNG THUYẾT ĐA TRÍ TUỆ TRONG VIỆC GIẢNG DẠY TIẾNG TRUNG TẠI KHOA ĐÔNG PHƢƠNG ThS. Hoàng Thị Thu Thủy Bộ môn Trung Quốc học, khoa Đông phương học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

More information

hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng. Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một

hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng. Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một 1 Sự hình thành và phát triển Thiền phái Trúc Lâm Thích Như Pháp Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được gắn liền với tên tuổi của Ngài, với dòng Thiền do Ngài mở lối, là một đại nhân duyên không phải tầm thường

More information

GU285_VNM_Cover.indd

GU285_VNM_Cover.indd GU285 Hướng dẫn Sử dụng www.lgmobile.com P/N : MMBB0353931 (1.0) ELECTRONICS INC. GU285 Hướng dẫn Sử dụng TIẾNG VIỆT 简体中文 ENGLISH Bluetooth QD ID B015843 Một số nội dung trong sách hướng dẫn này có thể

More information

PHÁP LUÂN CÔNG 法輪功 Lý Hồng Chí 李洪志 MỤC LỤC Chương I Khái luận...1 I. Khởi nguồn của khí công...1 II. Khí và công...2 III. Công lực và công năng...3 1. Công lực là dựa vào tu tâm tính mà xuất lai...3 2.

More information

BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve d

BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve d BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve dy an Luat Nhap canh, xuat canh, cu tru cua ngiroi nircrc

More information

So tay di cu an toan.indd

So tay di cu an toan.indd Bộ ấn phẩm: Sáng kiến phòng chống mua bán người và di cư không an toàn Sổ tay di cư an toàn World Vision International 2014 ISBN 978-0-918261-41-0 Tầm nhìn Thế giới (TNTG) là tổ chức nhân đạo Cơ đốc, thực

More information

MỤC LỤC MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Lịch sử vấn đề Mục đích của đề tài Đối tƣợng nghiên cứu Giới hạn phạm vi nghi

MỤC LỤC MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Lịch sử vấn đề Mục đích của đề tài Đối tƣợng nghiên cứu Giới hạn phạm vi nghi TRƢỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG PHƢƠNG PHÁP BỒI DƢỠNG KỸ NĂNG SỬ DỤNG TỪ HÁN VIỆT CHO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC

More information

LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI

LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI - DỰ BÁO V -NHẦM LẪN GIỮA CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG VI

More information

PwC 2

PwC 2 www.pwc.com/vn Sổ tay thuế Việt Nam 2016 PwC 1 PwC 2 Mục Lục Hệ Thống Thuế Tổng quan 5 Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp ( TNDN ) 7 Thuế suất Ưu đãi thuế TNDN Xác định thu nhập chịu thuế TNDN Các khoản chi không

More information

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG DỊCH VỤ SACOMBANK EBANKING Sacombank ebanking phiên bản Ngân hàng điện tử mới Ưu việt Thân thiện An toàn Hãy trải nghiệm các chức năng nổi trội mới của Sacombank - ebanking: Cá nhân hóa

More information

H

H H.T. THÍCH TRÍ THỦ Chủ trương LÊ MẠNH THÁT Chủ biên TỰ ĐIỂN BÁCH KHOA PHẬT GIÁO VIỆT NAM A Tập II Từ A Di Đà (Tịnh Độ Giáo) đến A Di Đà Tự Phật Lịch 2548 TL 2004 Lời Tựa Từ điển BÁCH KHOA PHẬT GIÁO VIỆT

More information

2015 Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES) Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gi

2015 Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES) Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gi TÀI LIỆU DỊCH TLD-11 TẦM NHÌN VÀ HÀNH ĐỘNG THÚC ĐẨY CÙNG XÂY DỰNG VÀNH ĐAI KINH TẾ CON ĐƯỜNG TƠ LỤA VÀ CON ĐƯỜNG TƠ LỤA TRÊN BIỂN THẾ KỶ XXI Cơ quan ban hành: Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia, Bộ

More information

Ngân hàng câu hỏi thi, kiểm tra môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

Ngân hàng câu hỏi thi, kiểm tra môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin TS. PHAM VAN SINH (Chu bien) NGAN HANG CAU HOI THI, KlfeM TRA MON NHUNG NGUYEN LY C(T BAN CUA CHU NGHIA MAC - LENIN (Dung lam tai lieu tham khao phuc vu thi, kiem tra cho cac trirang dai hoc, cao d^ng)

More information

Danh Sách Mã Dự Thưởng Chương Trình Bốc Thăm May Mắn Tháng 6/2018 Mã số dự thưởng cho Khách hàng tham gia chương trình bốc thăm may mắn tháng 6/2018 L

Danh Sách Mã Dự Thưởng Chương Trình Bốc Thăm May Mắn Tháng 6/2018 Mã số dự thưởng cho Khách hàng tham gia chương trình bốc thăm may mắn tháng 6/2018 L Danh Sách Mã Dự Thưởng Chương Trình Bốc Thăm May Mắn Tháng 6/2018 Mã số dự thưởng cho Khách hàng tham gia chương trình bốc thăm may mắn tháng 6/2018 Lucky draw entries for Lucky Draw Program for cycle

More information

Microsoft Word - Duoc Su_ready for print.doc

Microsoft Word - Duoc Su_ready for print.doc Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Thiển Thích Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Lược Giảng 1 Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch Tuyên Hóa

More information

TONG CONG TY BIEN LI/C MIEN BAC CONG TY BIEN LU~C HA TINH CONG HOA XA H 0I CHU NGfflA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: J b /PCHT-TC& NS V/v th

TONG CONG TY BIEN LI/C MIEN BAC CONG TY BIEN LU~C HA TINH CONG HOA XA H 0I CHU NGfflA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: J b /PCHT-TC& NS V/v th TONG CONG TY BIEN LI/C MIEN BAC CONG TY BIEN LU~C HA TINH CONG HOA XA H 0I CHU NGfflA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: J b /PCHT-TC& NS V/v thong bao ket qua thi nang bac lirong dot 2 nam 2016

More information

Liêt Tử Và Dương Tử

Liêt Tử Và Dương Tử Liêt Tử Và Dương Tử Tác giả: Thể loại: Trung Hoa Website: Date: 24-October-2012 Trang 1/54 NHÂN VẬT LIỆT NGỰ KHẤU Trước hết về bản thân Liệt tử, có một số học giả còn nghi ngờ. Như Cao Tự Tôn (thế kỉ XII),

More information

The Sutra of the Past Vows of Earth Store Bodhisattva

The Sutra of the Past Vows of Earth Store Bodhisattva Câ m Nang Thiê n I: Tư Ho c Thiê n Thi ch Vi nh Ho a LƯ SƠN TƯ Lu Mountain Temple 7509 Mooney Drive Rosemead, CA 91770 USA Tel: (626) 280-8801 Xuâ t ba n lâ n thư nhâ t, ISBN 978-0-9835279-6-1 Copyright:

More information

Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD)

Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD) Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD) 大越 國總覽圖 Trần Việt Bắc (Tiếp theo) Như đã trình bày trong phần trước theo như Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn đã ghi: - Là bản-đồ nước ta do hai Đại-tướng nhà

More information

Eyes of Compassion Relief Organization Ngày Nhận Check Date Tỉnh bang Province USD CAD VND Người Đóng Góp - Benefactor Chuyển tiền 16/01/2017 Transfer

Eyes of Compassion Relief Organization Ngày Nhận Check Date Tỉnh bang Province USD CAD VND Người Đóng Góp - Benefactor Chuyển tiền 16/01/2017 Transfer Eyes of Compassion Relief Organization Ngày Nhận Check Date Tỉnh bang Province USD CAD VND Người Đóng Góp - Benefactor Chuyển tiền 16/01/2017 Transfer date Rate: 22735 20-Dec-16 Phac Nguyen CA 400.00 23-Dec-16

More information

TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN Nguyễn Minh Tiến biên soạn Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sa

TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN Nguyễn Minh Tiến biên soạn Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sa TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN Nguyễn Minh Tiến biên soạn Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sao chép, trích dịch hoặc in lại mà không có sự cho phép

More information

Quy tắc mô tả tài liệu thư viện

Quy tắc mô tả tài liệu thư viện 0000023981 u EN THI KIM LOAN (Chu bien) HI HANH, LE THI NGUYET a * a a QUY TAC MO TA TAI LIEU THU5VIEN I a t NHA XUAT BAN THONG TIN VA TRUYEN THONG ThS. N G U Y E N THI KIM LO AN (Chu bien) PH A M TH I

More information

UBND TINH SON LA SO' GIAO DUC VA BAO TAO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ttr do - Hanh phuc S6: 1341/KH-SGDDT Son La, ngay 28 thdng 9 na

UBND TINH SON LA SO' GIAO DUC VA BAO TAO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ttr do - Hanh phuc S6: 1341/KH-SGDDT Son La, ngay 28 thdng 9 na UBND TINH SON LA SO' GIAO DUC VA BAO TAO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ttr do - Hanh phuc S6: 1341/KH-SGDDT Son La, ngay 28 thdng 9 nam 2018 KE HOACH Boi duong thuong xuyen can bo quan

More information

Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp

Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp chuyên môn của mình. Chúng tôi cùng nhau chuẩn bị

More information

Hình này cho thấy, từ giáp cốt văn đến kim văn, đại triện đều là dưới mái nhà có hình con heo. Tiểu triện và lệ thư có bộ 宀 (miên, nghĩa là mái nhà),

Hình này cho thấy, từ giáp cốt văn đến kim văn, đại triện đều là dưới mái nhà có hình con heo. Tiểu triện và lệ thư có bộ 宀 (miên, nghĩa là mái nhà), Gia đình, gia thất Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ấn định đường hướng mục vụ cho Giáo Hội tại Việt Nam trong năm 2014 là năm Tân Phúc-Âm-Hoá đời sống gia đình. Logo năm gia đình của Tổng Giáo Phận Tp.HCM là

More information

Ban đầu, con tập dùng hạnh lắng nghe, để tư duy phân biệt tốt xấu, động tĩnh Sau đó tu tập quán chiếu vào tánh nghe không phân biệt, quên hẵn tiếng ng

Ban đầu, con tập dùng hạnh lắng nghe, để tư duy phân biệt tốt xấu, động tĩnh Sau đó tu tập quán chiếu vào tánh nghe không phân biệt, quên hẵn tiếng ng Sự Giác Ngộ và Hóa độ của Bồ tát Quán Thế Âm qua Triết lý Tánh Không - Bát Nhã I-Duyên khởi: Trong nhiều bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, có nói về Bồ tát Quán Thế Âm; một vị Bồ tát luôn luôn khởi lòng

More information

Phat giao - Tran Trong Kim.indd

Phat giao - Tran Trong Kim.indd PHẬT GIÁO Trần Trọng Kim Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sao chép, trích dịch hoặc in lại mà không có sự cho phép bằng văn bản của chúng tôi. KHXB

More information

Phat giao - Tran Trong Kim.indd

Phat giao - Tran Trong Kim.indd PHẬT GIÁO Trần Trọng Kim Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sao chép, trích dịch hoặc in lại mà không có sự cho phép bằng văn bản của chúng tôi. KHXB

More information

Luật hải quan Việt Nam và quốc tế

Luật hải quan Việt Nam và quốc tế TRl/CSNG DAI HOC KINH TE Q U O C DAN KHOA THLfflNG MAI VA KINH TE QUOC TE' Chu bien: PGS. TS. NGUYEN THlTA LOC WIMAN (XMf; NHA XUAT BAN DAI HOC KINH TE Q UO C DAN TRLTCJNG DAI HOC KINH TE QUOC DAN KHOA

More information

Microsoft Word - Sachvck1.doc

Microsoft Word - Sachvck1.doc OSHO OSHO Tín Tâm Minh Sách về Cái không HSIN HSIN MING The Book of Nothing HÀ NỘI 3/2010 @ OSHO INTERNATIONAL FOUNDATION Mục lục Tín Tâm Minh - Sách về cái không Copyright 2000 Osho International Foundation,

More information

Welcome To Kindergarten VIETNAMESE 2016.indd

Welcome To Kindergarten VIETNAMESE 2016.indd NGUN T LIU CA HC KHU StudentServices(SpecialEducation)5032618209 http://www.ddouglas.k12.or.us/departments/studentservices/ EnglishasaSecondLanguageandEquity5032618223 http://www.ddouglas.k12.or.us/departments/esl/

More information

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUG VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET Boc lap - Ty do - Hanh phiic NAM S6:^^0 /KH-GD&DT Khdnh San, ngay2, ^ th

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUG VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET Boc lap - Ty do - Hanh phiic NAM S6:^^0 /KH-GD&DT Khdnh San, ngay2, ^ th UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUG VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET Boc lap - Ty do - Hanh phiic NAM S6:^^0 /KH- Khdnh San, ngay2, ^ thdng 4 nam 2017 KE HOACH Xet duyet Sang kien kinh nghiem

More information

THAY LỜI GIỚI THIỆU Hồi tản cư về ở Tân Thạnh ( ) tôi được bác ba tôi, thời trẻ làm giáo sư trong Đông Kinh nghĩa thục mà cũng là rể cụ Lương Vă

THAY LỜI GIỚI THIỆU Hồi tản cư về ở Tân Thạnh ( ) tôi được bác ba tôi, thời trẻ làm giáo sư trong Đông Kinh nghĩa thục mà cũng là rể cụ Lương Vă ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC PHONG TRÀO DUY TÂN ĐẦU TIÊN Ở VIỆT NAM Tác giả: Nhà xuất bản: Văn hoá Thông tin Năm xuất bản: 2002 Đánh máy: Quantam Sửa lỗi và bổ sung: Goldfish THAY LỜI GIỚI THIỆU Hồi tản cư về

More information

CONG TY CP DAU TU^ THlTONG MAI SMC CONG HOA XA HQI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: /2015/SMC TPHCM, ngay 20 thang 07 nam 2015

CONG TY CP DAU TU^ THlTONG MAI SMC CONG HOA XA HQI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: /2015/SMC TPHCM, ngay 20 thang 07 nam 2015 CONG TY CP DAU TU^ THlTONG MAI SMC CONG HOA XA HQI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: 1 4 8 /2015/SMC TPHCM, ngay 20 thang 07 nam 2015 BAO CAO TINH HINH QUAN TRI CONG TY 06 THANG DAU NAM

More information

Bí quyết niệm Phật tu tâm của pháp sư Sơn Ðường

Bí quyết niệm Phật tu tâm của pháp sư Sơn Ðường NIỆM PHẬT PHÁP YẾU 念佛法要 Cư sĩ Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính sưu tập ( 惕園毛凌雲敬緝 ) Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa (theo bản in năm 2002 của Tịnh Tông Học Hội Dallas, TX) Phật Lịch 2546-2002 Lời

More information