THAY LỜI GIỚI THIỆU Hồi tản cư về ở Tân Thạnh ( ) tôi được bác ba tôi, thời trẻ làm giáo sư trong Đông Kinh nghĩa thục mà cũng là rể cụ Lương Vă

Size: px
Start display at page:

Download "THAY LỜI GIỚI THIỆU Hồi tản cư về ở Tân Thạnh ( ) tôi được bác ba tôi, thời trẻ làm giáo sư trong Đông Kinh nghĩa thục mà cũng là rể cụ Lương Vă"

Transcription

1 ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC PHONG TRÀO DUY TÂN ĐẦU TIÊN Ở VIỆT NAM Tác giả: Nhà xuất bản: Văn hoá Thông tin Năm xuất bản: 2002 Đánh máy: Quantam Sửa lỗi và bổ sung: Goldfish

2 THAY LỜI GIỚI THIỆU Hồi tản cư về ở Tân Thạnh ( ) tôi được bác ba tôi, thời trẻ làm giáo sư trong Đông Kinh nghĩa thục mà cũng là rể cụ Lương Văn Can, Thục trưởng, kể cho nghe hoạt động của trường. Hồi cư về Sài Gòn, tôi tìm đọc trên hai chục cuốn về các nhà cách mạng thời đó, cả cuốn Đông Kinh nghĩa thục của Đào Trinh Nhất (Mai Lĩnh 1938), vừa để kiếm thêm tài liệu, vừa soát lại những lời bác tôi kể, rồi viết cuốn Đông Kinh nghĩa thục xuất bản năm Tôi dùng một bài song thất lục bát của một thi sĩ khuyết danh trong tập Nam Thiên phong vận ca để dựng bố cục cho tác phẩm, cứ đầu mỗi chương tôi lại dẫn một hai câu theo đúng thứ tự trong bài. Đông Kinh nghĩa thục ghi được không khí thời đó ( ), chép được tinh thần của các nhà cách mạng vừa hăng hái vừa ngây thơ, nhất là tình đoàn kết, bình đẳng trong anh em, lại có nhiều giai thoại, nhiều tình tiết lý thú, cho nên sách bán khá chạy. Sách in rồi, tôi vẫn tiếp tục kiếm thêm tài liệu, đọc ở đâu hoặc được bạn bè cho biết thêm điều gì, tôi đều ghi lại, cho vào một hồ sơ riêng để khi tái bản sẽ sửa chữa. Nhờ vậy sách in lần thứ nhì (1968) dày thêm được khoảng ba chục trang; lần thứ ba (1974) thêm được hai chục trang nữa, tất cả là 200 trang. Từ 1974 đến nay tôi lại kiếm thêm được ít tài liệu nữa (chép trong phần Phụ lục bộ Hồi ký) 1 nhưng chắc sẽ không có lần in thứ tư. 1 Trong Hồi kí in là: tôi lại kiếm thêm được ít tài liệu nữa mà tôi sẽ chép trong phần phụ lục (có lẽ là phụ lục trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục vì trong Hồi kí không có phụ lục nào có liên quan đến Đông Kinh nghĩa thục). (Goldfish). 2

3 Độc giả ai cũng cho cuốn đó là một trong những cuốn có giá trị của tôi; chính tôi cũng thích nó một phần vì nó ghi lại được hoạt động của các bác, cha, chú tôi. Giáo sư Nguyễn Văn Trung ở Bạc Liêu trong một bức thư đề ngày viết: Tôi đã đọc cả mấy bài Tựa của Đông Kinh nghĩa thục và của Bài học Israël, càng thêm mến cái tâm chí của anh, và càng thêm mộ cách nói thẳn thắng mà khéo léo của anh. Từ câu nói Bất bình tắc minh của Hàn Dũ mà anh nêu làm đề từ đặt ở đầu bộ Cổ văn Trung Quốc đến càng đọc lịch sử thế giới làm quân tốt thí trên bàn cờ Quốc tế (Tựa Bài học Israël), qua mỗi lần ôn lại lịch sử vào bực nhất nhì Đông Nam Á (Tựa Đông Kinh nghĩa thục), người nào có công tâm mà đọc anh, nghĩa là đừng có một định kiến nào, tất sẽ nhận rằng bên trong cái dáng văn nhược thư sinh của người có tên là Hiến Lê bao giờ cũng âm ỉ cháy một tráng chí bền chặt mà nếu chỉ nhìn thoáng qua chắc ít ai ngờ đến. Tôi cám ơn ông Trung đã theo dõi tôi và đọc kỹ tôi như vậy. Độc giả được mấy người như ông? Nhà văn Nguyễn Văn Xuân ở Quảng Nam, trong một bức thư không đề ngày, bảo nếu anh không viết quyển đó (Đông Kinh nghĩa thục) thì sự thực về phong trào đó thế nào, thật đã ai biết cho tường (tôi chưa được đọc quyển Đào Trinh Nhất). Tôi tin là trong văn nghiệp của anh, quyển sách mỏng ấy sẽ được nhắc tới nhiều như Sonate à Kreutzer ( ) trong sự nghiệp đồ sộ của Tolstoi. Có thể do đọc Đông Kinh nghĩa thục mà Nguyễn Văn Xuân về sau viết cuốn Phong trào Duy Tân (Lá Bối xuất bản). In xong cuốn đó cũng như cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười và bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc tôi gởi về Long Xuyên 2 tặng ngay bác ba tôi một bản để người đọc lại hồi ký cùng bài thơ Cảm khái của người ở cuối sách: 1 Trong Hồi kí in là: ngày (Goldfish). 2 Lúc đó cụ Phương Sơn ở Cái Sơn (Long Xuyên) hành nghề Đông y. (Goldfish). 3

4 Tuổi xanh kết bạn xoay trời đất, Năm chục năm nay thỏa ước mong. Độc lập xa gần cờ phấp phới, Anh hồn cố hữu khoái hay không? Bài thơ đó người làm đầu mùa đông năm Ất Mùi (1955) khi Việt Nam không còn bóng một quân Pháp nào cả, ít tháng trước khi Đông Kinh nghĩa thục đưa cho nhà in sắp chữ. Đầu tháng giêng 1960 (ngày 12 tháng chạp năm Kỷ Hợi 1 ) người quy tiên tại Chợ Thủ, thọ 78 tuổi. Sự nghiệp viết văn của tôi phần lớn nhờ người khuyến khích và giúp sức trong những buổi ban đầu; và tôi đã mừng rằng xuất bản được ba cuốn kể trên: Đông Kinh nghĩa thục, Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đại cương văn học sử Trung Quốc; trước khi người mất, tôi đã làm người hài lòng. Tình bác cháu chúng tôi ít thấy trong các gia đình. (Trích Đời viết văn của tôi của, Nxb Văn hoá Thông tin, năm 2006, trang ) 1 Trong Hồi kí ghi là: Đầu tháng giêng năm 1960, ngày 11 tháng chạp năm Kỉ Hợi, tôi ở Sài gòn được điện tín người qui tiên. (Goldfish). 4

5 CỤ LƯƠNG VĂN CAN ( ) Hình chụp Cụ sau khi Cụ ở Nam Vang về Hà Nội, nghĩa là sau năm 1923, lúc Cụ khoảng thất tuần. 5

6 Trường Nghĩa Thục đứng đầu dạy dỗ, Khắp ba mươi sáu phố Hà Thành, Gái trai nô nức học hành, Giáo sư tám lớp, học sinh non ngàn. (Ca dao) 6

7 TỰA Chúng ta thường tự hào là một dân tộc có bốn ngàn năm văn hiến. Bốn ngàn năm văn hiến mà giá có gom lại hết những sách vở tài liệu bằng chữ Hán, chữ Nôm trong bốn ngàn năm văn hiến đó rồi để riêng ra những tài liệu về các ông vua bà chúa tức những tài liệu thường vô ích cho văn hóa - còn lại bao nhiêu, có chất lên một chiếc xe cam nhông, cũng không đầy! Dù có chất đầy muời chiếc xe đi nữa thì so với những tài liệu của Pháp cũng chẳng thấm vào đâu: chỉ riêng những tài liệu về thi sĩ Victor Hugo đã chật cả một viện bảo tàng, tức viện Victor Hugo ở Paris rồi. Mà người Pháp không có được bốn ngàn năm văn hiến như ta. Chắc có độc giả trách tôi là tự ti mặc cảm, mà quá tôn sùng người. Trách tôi tôi xin nhận, nhưng làm sao tôi không tôn sùng người ta, khi người ta hơn mình xa quá đi. Vả lại, tự nhận là mình kém rồi cố theo cho kịp người, hơn người, còn có lợi hơn là tự cao tự đại mà chẳng chịu gắng sức để tiến tới. Vâng, về phương diện văn hóa, ta đã kém xa Trung Hoa mà cũng thua xa cả Pháp. Hai ngàn rưỡi năm trước, Trung Hoa đã biết đặt ra một chức quan chyên đi lượm những bài ca, bài hát trong dân gian, nhờ vậy họ mới có được một tập thi vào hàng cổ nhất thế giới. Tới thế kỷ 18, vua Càn Long cho chép lại hết các sách, lập thành bộ Tứ khố toàn thư 1, một công việc sưu tầm tài liệu không tiền trong lịch sử nhân loại. Nước Pháp thì chẳng những nhà cầm quyền mà đến thường dân cũng biết trọng tài liệu. Trong cuộc cách mạng 1789, những anh thợ xay bột, những chú lính của họ, viết còn sai be bét mà cũng 1 Coi Đại cương Văn học sử Trung quốc cuốn III của tác giả. 7

8 chịu ghi lại những điều mắt thấy tai nghe, rồi chính phủ trân tàng tất cả những tài liệu đó. Nói chi tới những di bút của các danh nhân thì họ quý hơn vàng. Trong Thư khố Quốc gia của Pháp, ta thấy cả những toa mua hàng, sổ chi tiêu của các văn hào, nhạc sĩ. Còn ở nước mình, có được bao nhiêu nhà nho chép lại những tai biến cùng cảnh sinh hoạt trong thời Nguyễn, Trịnh xung đột, hoặc trong chiến tranh giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn? Mà thôi, hãy nói chuyện gần đây. Chúng ta có muốn chép tiểu sử của Nguyễn Khuyến hoặc Chu Mạnh Trinh để dạy học sinh ban Tú tài, cũng không biết tra cứu ở đâu, và nếu không tán hươu tán vượn thì may lắm về tiểu sử mỗi cụ, ta viết được độ một trang. Đổ trọn lỗi cho tánh lười viết, không biết trọng tài liệu của cổ nhân thì cũng oan cho các cụ. Thực ra, còn nhiều nguyên nhân khác: nghề in thời xưa không phát triển, rồi cái nạn binh đao (thành Thăng Long biết mấy lần bị tàn phá), cái họa văn tự (hễ sơ ý một chút mà nói phạm tới nhà cầm quyền thì có thể bị tru di tam tộc; lại thêm triều đình chẳng khuyến khích những công việc sưu tầm khảo cứu; vua chúa đều chỉ thích mỗi một món thơ, kẻ làm thơ mà có tài điêu trùng khắc triện thì được thưởng, còn người cặm cụi tra khảo soạn sách thì cơ hồ không vị vua chúa nào ngó tới 1. Cái tinh thần không biết trọng tài liệu, xưa như vậy mà nay cũng không hơn gì mấy. Các viện bác cổ và thư viện của mình ngày nay, mở ra cho có với đời vậy, chứ thực ra đã làm được những việc gì quan trọng cho văn hóa? Trong bài Bàn về vấn đề dịch sách cổ của ta tôi đã đề nghị một phương pháp làm việc tập thể để dịch ra 1 Phan Huy Chú bỏ ra mười năm soạn bộ Lịch triều hiến chương loại chí, bộ Bách khoa toàn thư đầu tiên của ta, gồm 49 quyển (được vua Tự Đức thưởng cho 30 lạng bạc, nhưng triều đình không hề nghĩ tới việc cho khắc và in bộ sách vĩ đại đó. Xưa đã vậy mà nay cũng vậy; nhà cầm quyền không biết quí trọng những công trình biên khảo lớn. 8

9 Việt ngữ hết thảy những văn thơ cổ, bất kể về loại gì, để những người không biết chữ Hán có thể dùng những tài liệu đó mà nghiên cứu về văn hóa thời xưa 1. Vấn đề đó, mười lăm năm trước, Vũ Ngọc Phan đã nghĩ tới, nhưng từ đó tới nay, những cơ quan Văn hóa của chính phủ đã làm được gì chưa? Mà có bao giờ người ta nghĩ tới cái việc thu thập tài liệu trong dân gian không? Chẳng hạn khi một danh nhân trong nước qua đời, phái một người tìm thân nhân hoặc bè bạn của người mất, để gom góp hoặc ghi chép những bút tích cùng dật sự về vị ấy, rồi đem về giữ trong các thư khố làm tài liệu cho đời sau. Công việc có khó khăn tốn kém gì đâu, mà lợi cho văn hóa biết bao. Có như vậy các người cầm bút mới có tài liệu để soạn sách, còn như bây giờ đây thì một nhà văn Việt viết tiểu sử Tản Đà còn khó hơn viết tiểu sử của Molière, của Shakespeare, của Tolstoi. Thực là ngược đời, nhưng rất dễ hiểu. Vì tra cứu ở đâu bây giờ để viết về đời sống của Tản Đà? Chỉ có cách đọc những báo mà cụ đã viết hoặc người khác viết về cụ. Nhưng chính những số báo đó, kiếm được cũng là thiên nan, vạn nan. Ngay những tạp chí có giá trị như Thanh Nghị, Tri Tân mà thư viện Nam Việt cũng không có đủ, và những nhật báo Việt xuất bản ở Sài gòn trước 1945 cũng thiếu nữa. Chắc nhiều độc giả không ngờ được nỗi khổ tâm đó của những người muốn khảo cứu về văn hóa nước nhà. Muốn tránh những khó khăn ấy cho thế hệ mai sau, ai lưu tâm đến văn hóa cũng nên thu thập hết những tài liệu về mỗi phong trào chính trị, kinh tế hoặc văn chương ngay từ khi phong trào vừa tắt và như vậy, ta có thể có một khái niệm tổng quát về nó được. * * * Trong những năm , nhờ thời cơ thuận tiện, nhiều người đã chép lại lịch sử cách mạng của ta từ đầu thế kỷ tới cuộc 1 Coi Nguyệt san Bông Lúa số 1 - Tháng bảy 1955, và Mấy vấn đề xây dựng văn hóa - Tao Đàn

10 đại chiến vừa rồi. Trước sau được khoảng hai chục cuốn, nhưng tiếc thay, không có cuốn nào nói rõ về phòng trào Duy tân đầu tiên do cụ Lương Văn Can 1 làm chủ động năm Thành thử, tới bây giờ chúng ta chỉ mới có cuốn Đông kinh nghĩa thục của Đào Trinh Nhất (Mai Lĩnh xuất bản năm 1938), mà trong cuốn này có lẽ vì tị hiềm 2 Đào quân không nhắc gì tới cụ Lương cả, gần như chỉ chuyên kể tiểu sử của cụ Nguyễn Quyền, một viên học giám, chứ không phải là thục trưởng của Nghĩa thục như hiểu người tưởng lầm 3. Tôi may mắn được vào hàng con cháu một vị lão nho đã hoạt động cho Nghĩa thục, thường được nghe cụ kể lịch sử của Nghĩa thục nên được biết cuốn của Đào quân có nhiều chỗ sơ sót và mười sáu, mười bảy năm trước, tôi đã có ý đợi cuốn của Đào quân bán hết, sẽ viết một cuốn khác để bổ túc, song thời đó, sự kị húy còn quá nghiêm, có viết xong, xuất bản cũng khó, nên mãi đến ngày nay mới thực hành được ý muốn. Tôi xin thưa ngay, cuốn sách nhỏ độc giả đương đọc đây không phải là một cuốn lịch sử, nó chỉ chứa những tài liệu về sử thôi. Tôi chưa dám chắc rằng những tài liệu tôi đưa ra đã đúng hết, vì ba lẽ: Lẽ thứ nhất, cụ lão nho 4 đã kể chuyện Nghĩa thục cho tôi nghe là người trong cuộc - chính cụ dạy học và soạn sách cho trường, lại là con rể cụ Lương - nên sự nhận xét, phán đoán dù có công tâm tới mấy, cũng không sao tránh được đôi chỗ thiên lệch. 1 Tên cụ là Lương Văn Can chứ không phải Lương Ngọc Can như một số người nhớ lầm. 2 Đào quân là cháu rể cụ Lương. 3 Hình như trong năm 1945 hay 1946, ở Hà Nội có xuất bản một cuốn nữa về Đông Kinh nghĩa thục, cuốn đó không thấy bán ở Nam Việt mà cũng không có tại Thư viện Nam Việt. 4 Cụ lão nho, tác giả (NHL) viết như trên, tên thật là Nguyễn Côn ( ) là bác ruột tác giả (BT). Sau năm 1908 ông ngụ ở Đồng Tháp Mười, sau dời qua Long Xuyên. 10

11 Lẽ thứ nhì là những việc cụ cho tôi biết đều do ký ức mà kể lại chứ không được ghi chép ngay từ khi mới xảy ra. Cụ rất cường ký nhưng dù nhớ dai tới đâu thì cũng phải quên nhiều chi tiết, nhất là những chi tiết về thời gian của những việc đã qua trên bốn chục năm rồi. Lẽ thứ ba là tôi đã rán kiểm soát những lời của cụ, song chỉ kiểm soát được một phần nào thôi. Trong công việc kiểm soát ấy tôi dùng cuốn Ngục trung thư của cụ Phan Bội Châu (Đào Tính Nhất dịch và Tân Việt xuất bản năm 1950) làm căn bản vì tôi nghĩ những tài liệu trong cuốn đó có phần đúng hơn cả. Trước hết, cụ Phan rất thông minh và nhũn nhặn, tất nhớ nhiều và trọng sự thực, khi viết cuốn đó năm 1913, cụ mới 46 tuổi 1, tinh thần còn cường tráng, lại thêm, cụ chép những việc mới xảy ra mười năm trước (từ 1903) thì tất phải ít sai 2. Ngoài ra, tôi còn tham khảo nhiều sách khác của cụ Huỳnh Thúc Kháng, và các tác giả Thế Nguyên, Phương Hữu, Anh Minh...(coi bản kê tên ở cuối sách), song những tài liệu trong các cuốn đó nhiều khi mâu thuẫn nhau, và đáng tin hơn cả chỉ có cuốn Thi tù tùng thoại của cụ Huynh Thúc Kháng và những cuốn của ông Anh Minh viết theo di cảo của cụ Phan Bội Châu. Chủ ý của tôi là chép về Đông Kinh nghĩa thục, nhưng tôi nghĩ không thể tách riêng phong trào duy tân đó ra được mà phải đặt vào phong trào cách mạng của dân tộc trong 25 năm đầu thế kỷ, 1 Cụ sinh năm 1867 (Đinh mão). Ta nên tính tuổi theo người Âu, hợp lý hơn, nên đến năm 1913, cụ 46 tuổi. 2 Tuy nhiên, sách của cụ cũng chưa đáng tin hẳn, thì thỉnh thoảng có chỗ mâu thuẫn chẳng hạn Ngục trung thư trang 15, cụ viết: Đến năm tôi ngoài 30 tuổi, đảng Cần vương khắp trong nước nối nhau vỡ lở tan tành, chỉ còn sót lại một mình cụ Phan Đình Phùng. Nhưng năm Giáp ngọ, niên hiệu Thành Thái thứ 6, cụ mất. Năm cụ ngoài 30 tuổi, dù tính theo tuổi ta như cụ, thì ít nhất cũng là năm 1896 hay Cụ Phan Đình Phùng mất năm Giáp ngọ tức năm 1895 thì sao năm 1896 lại còn sót lại ở La Sơn được Không biết có phải Đào quân dịch sai không? 11

12 nên tôi đã ghi thêm - nhưng chỉ vắn tắt thôi - những vận động cách mạng trước và sau Đông Kinh nghĩa thục để độc giả hiểu rõ nguồn gốc và ảnh hưởng của nó. Ba nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử cách mạng hồi đầu thế kỷ là cụ Lương Văn Can (cụ cao niên hơn cả), cụ Phan Bội Châu và cụ Phai Châu Trinh, nhưng sở dĩ tôi chép tiểu sử cụ Lương nhiều hơn của hai cụ Phan chỉ vì tiểu sử của hai cụ này trong nước không ai không biết, còn đời sống cụ Lương thì chưa sách vào nhắc tới. Lại có nhiều nhân vật phụ mà tôi chép lại dật sự cũng kỹ càng 1. Như vậy có hai lỗi, một là mang tiếng thiên lệch, hai là làm mất tính cách nhất trí của sách, song tôi nghĩ đã không có ý viết một cuốn sử, chỉ có ghi chép tài liệu thì tôi có thể - mà cũng nên - ghi càng nhiều càng tốt, biết đâu ghi đấy, nhất là những tài liệu chưa ai nhắc tới mà có tính cách làm vui câu chuyện, lại giúp độc giả rõ thêm tâm trạng cùng cách làm việc của các cụ thời đó. Dám mong độc giả hiểu cho chỗ ấy mà lượng thứ. Sài gòn ngày 9 tháng 9 năm Chúng ta phân biệt chính và phụ cho dễ nói, chứ thực ra, trong công cuộc cách mạng, lòng nhiệt thành và trong sạch ngang nhau thì có ai là phụ, ai là chính. Chẳng qua mỗi cụ đều tùy khả năng của mình mà giúp nước, miễn thành công là vui, chứ không hề nghĩ tới nhiệm vụ chính hay phụ. 12

13 TỰA (In lần thứ nhì) Các ông bạn tôi đi xa về đều nói: có ra nước ngoài mới thấy dân tộc mình về sự thông minh, nhanh nhẹn, kiên nhẫn, không kém một dân tộc nào khác. Đừng nói Ấn Độ, Mã Lai, Thái Lan, Phi Luật Tân, đến ngay như Trung Hoa, Nhật Bản, Gia Nã Đại, Huê Kỳ... cũng không hơn mình được. Những nhận xét đó thường có tính cách chủ quan và hấp tấp, chỉ đáng tin một phần nào thôi. Nhưng ôn lại lịch sử của tổ tiên thì nhiều khi chúng ta cũng đáng tự hào về nòi giống của mình lắm. Những vũ công oanh liệt phá Nguyên, diệt Thanh thì ai cũng biết cả rồi, chúng tôi không muốn nhắc lại, hôm nay chỉ xin so sánh công cuộc duy tân của ta với công cuộc của Trung quốc. Nước ta chỉ nhỏ bằng một tỉnh của Trung Hoa, dân số của ta chỉ bằng một phần hai mươi hay một phầ ba mươi của họ, ta lại ở trong một hoàn cảnh khó khăn hơn họ nhiều - ta hoàn toàn mất chủ quyền, chỉ là một bán thuộc địa - vậy mà cuộc vận động duy tân của nhóm oanh liệt và có ảnh hưởng không kém gì cuộc duy tân của nhóm Khang, Lương thời cuối triều Mãn Thanh. Phong trào của ta phát động sau họ khoảng mươi năm - họ năm 1898, ta năm nhưng như vậy không nhất định có nghĩa rằng ta giác ngộ sau họ; có thể là vì cho tới cuối thế kỷ trước, các nhà ái quốc của ta vẫn chưa chịu bỏ khí giới, và nhất quyết sống mái với quân xâm lăng; tới đầu thế kỷ này thấy con đuờng xả thân đó khó thành công được, mới chuyển hướng qua một đường lối khác, mở mang dân trí, bồi dưỡng dân khí, tức con đường duy tân. Vì phát động sau Trung Hoa tất nhiên chúng ta rút đươc kinh nghiệm của họ, chịu ảnh hưởng ít nhiều của họ - những sách báo 13

14 của Khang, Lương, các cụ trong đều có đọc cả - nhưng chúng ta vẫn có những hoàn cảnh riêng, một chủ truơng riêng. Khang, Lương còn cầu hợp tác với triều đình Mãn Thanh - vua Quang Tự; các cụ trong Nghĩa Thục không chịu hợp tác với nhà Nguyễn, cơ hồ như không biết đến triều đình Huế nữa - các cụ Sào Nam, Tây Hồ, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng... đều chửi thẳng vào mặt bọn vua quan phường chèo ở Huế - và tuy phải sống dưới chế độ dã man của thực dân, các cụ cũng không khi nào hợp tác với thực dân, giữ một thái độ bất khuất, làm cho chính thực dân cũng phải kính nể. Khang, Lương hô hào bãi bỏ khoa cử, bỏ lối văn tám vế trong các kỳ thi thôi, nhưng vẫn giữ cổ văn, và mãi đến năm 1917, bọn Hồ Thích, Trần Độc Tú mới đề nghị dùng bạch thoại; các cụ trong Nghĩa Thục ngay từ 1907 đã đề cao quốc ngữ, dùng nó làm phuơng tiện khai hóa quốc dân, dịch sách ra quốc ngữ, làm thơ cảnh tỉnh đồng bào bằng quốc ngữ. Ta cứ nghĩ hiện nay sống sau các cụ sáu chục năm 1 mà một bọn giáo sư Đại học của ta còn nghi ngờ khả năng của Việt ngữ, ngăn cản bằng mọi sự phát triển của nó thì ta sẽ phải khâm phục các cụ sáng suốt, nhiệt tâm yêu nuớc ra sao. Người ta thường nhắc những câu bất hủ của Nguyễn Văn Vĩnh: Tiếng nước ta còn thì nước ta còn, hoặc của Phạm Quỳnh: Truyện Kiều còn thì nước ta còn, nhưng ít ai nhớ rằng hai ông đó chỉ lập lại chủ trương từ mươi lăm hai mươi năm trước của các cụ trong Nghĩa Thục. Khang, Lương đề cao khoa học, cái học thực dụng của phương Tây, nhưng cả nhóm Khang, Lương không có một người nào đứng ra lo việc kinh doanh, như mở xưởng dệt, mở tiệm buôn, khẩn ruộng, khai mỏ, hô hào dùng đồ nội hóa... như các cụ trong Nghĩa Thục. Khang, Lương chỉ lý thuyết, các cụ mới thực hành. 1 Tác giả viết bài Tựa này năm

15 Nhóm Khang, Lương có khi đi quá xa, chẳng hạn Khang Hữu Vi đề nghị sự phân biệt quốc gia, nhân biệt trai gái, phân biệt sản nghiệp..., còn Đàm Tự Đồng có hồi muốn phá tung cái lưới luân thường, các cụ trong Nghĩa Thục không cuồng nhiệt như vậy, chủ trương hấp thụ tân học, nhưng vẫn phát huy cổ học. Từ đây phải nhận cho tinh, Học Tây học Hán có rành mới hay. Học đủ cả, nhưng phải cho rành, để phục vụ quốc gia cho đắc lực, vẫn trọng luân thường, vẫn phân biệt trai gái, nhưng nhận rằng gái bình đẳng với trai và cũng có nhiệm vụ với xã hội, nhân quần như trai. Xét về đức hy sinh thì nhóm Khang, Lương có lục quân tử 1, còn chúng ta có hàng chục cụ bị đày ra Côn Đảo, và hằng chục cụ khác bôn ba hải ngoại để rồi lén chở khí giới về nước mà chiến đấu với quân xâm lăng cho tới chết. Về ảnh hướng của phong trào thì chúng ta có thể tin rằng khắp thế giới, không có cuộc vận động nào trong những hoàn cảnh khó khăn mà chỉ có mấy tháng lan tràn khắp trong nước, thành đề tài cho biết bao bài ca ái quốc được dân thuộc lòng như công cuộc duy tân của Nghĩa Thục. Như vậy các cụ trong Nghĩa Thục có kém gì bọn Khang, Lương đâu, dân tộc chúng ta có kém gì dân tộc Trung Hoa đâu. Tôi thấy rằng các cụ còn có phần sáng suốt, có nhiều lương tri hơn các nhà cách mạng của họ nữa, mà dân tộc ta có tinh thần đoàn kết, tiến bộ hơn họ nữa: các cụ khuyên dân cắt búi tóc, dân thấy phải nghe liền, còn dân tộc Trung Hoa cả chục năm sau Cách mạng Tân Hợi vẫn còn giữ cái đuôi sam. Điều đó làm cho tôi phấn khởi vô cùng. Mỗi 1 Sáu nhà cách mạng, sau khi vụ biến pháp thất bại, bị Từ Hi Thái hậu lùng bắt, không chịu trốn, nguyện đem máu ra tưới mầm cách mạng, trong sáu nhà đó có Đàm Tự Đồng, Dương Thâm Tú, Khang Quảng Nhân (em Khang Hữu Vi)... 15

16 lần ôn lại lịch sử là mỗi lần vững thêm được niềm tin. Chiến tranh bi thảm hiện nay mà kết thúc, chủ quyên mà đòi lại được hết, mọi người mà có tinh thần tự lập, hạng trí thức mà biết noi gương các cụ trong Nghĩa Thục, hết lòng dắt díu khai hóa đồng bào, thì không có lý gì tương lai của chúng ta không rực rỡ vào bậc nhất nhì ở Đông Á. Nhân đến kỳ đệ lục thập chu niên của chúng tôi sửa chữa kỹ lưỡng cuốn này, thêm khá nhiều tài liệu để gây lại niềm tự trong lòng độc giả, nhất là thanh niên, diệt cái tâm trạng hoang mang nó làm suy nhụt chí khí của dân tộc. Hoàn cảnh, phương tiện của ta lúc này đều hơn các cụ hồi xưa. Chúng ta chỉ thiếu sự đồng tâm và lòng hy sinh thôi. Mà những đức này chỉ có thể tìm lại được bằng sự tự giác, bằng cách ôn lại hành động của cổ nhân. Chúng tôi tự biết tài liệu còn thiếu nhiều lắm, cho nên dám mong độc giả mọi nơi hễ biết thêm được tài liệu nào, nghe thêm được một chuyện nào liên quan tới, thì xin vui lòng chỉ bảo cho, để chúng tôi bổ túc thêm vì công việc phát huy văn hóa dân tộc phải tiếp tục hoài không lúc nào ngừng được. Sài gòn ngày (Thượng nguyên năm Đinh Mùi) 16

17 CHƯƠNG I TÌNH HÌNH NƯỚC NHÀ Ở ĐẦU THẾ KỶ Cơn mây gió trời Nam bảng lảng Bước anh hùng nhiều chặng gian truân. (Khuyết danh) 1 Cuối thế kỷ trước là thời kỳ hắc ám nhất trong lịch sử cách mạng chống Pháp của ta: các cuộc khởi nghĩa nối nhau tan rã gần hết. Năm 1887, nghĩa quân ở Bình Định, Phú Yên bị Trần Bá Lộc dẹp, chủ tướng là Mai Xuân Thưởng bị bắt và hành hình. Tám năm sau Phan Đình Phùng bị bệnh lị và mất ở miền Hà Tĩnh. Do Việt gian chỉ, Pháp quân đào được thây của người, Nguyễn Thân đem hỏa thiêu, trộn tro vào thuốc súng, bắn. Một số nghĩa quân tuẫn tiết hoặc trốn qua nước ngoài, còn thì phải đầu thú, mong được yên thân lo cho gia đình, không ngờ bị người Pháp giết gần hết. Hai năm sau (1897), tiếng súng im hẳn ở Bãi Sậy, Nguyễn Thiện Thuật phải lẻn qua Trung Hoa. Cũng cuối năm nó, Đề Thám tạm giảng hòa với Pháp, lập ấp ở gần Nhã Nam rồi năm sau bị Pháp bắt ở Nhã Nam. Thế là khắp trong nước không còn cuộc phản kháng nào nữa. Người Pháp mừng rằng công việc bình định đã kết liễu và bọn tay 1 Hai câu này cũng như những câu song thất hoặc lục bát dẫn ở đầu các chương sau đều trích trong một bài ở cuốn Nam thiên phong vân ca. 17

18 sai đắc lực của họ, tức Hoàng Cao Khải ở Bắc, Nguyễn Thân ở Trung, Trần Bá Lộc ở Nam được ung dung hưởng những quyền lợi xây dựng trên xương máu đồng bào. Chắc Khải, Thân và Lộc đều nghĩ: Từ nay thì ta được cao trẩm vô ưu 1 và vận mạng của Việt Nam đã quyết định: Pháp sẽ làm chủ giang sơn này ít nhất là vài thế kỷ, kẻ nào muốn sống thì phải ngoan ngoãn phục tòng, càng vùng vẫy, càng mau chết. Kìa như chú khổng lồ là Trung Quốc còn phải thua người phương Tây liểng xiểng, ký kết điều ước Bắc Kinh đến điều ước Nam Kinh, rồi cắt đất tô giới, nhường lợi kinh tế, thì xứ Việt Nam bé nhỏ này làm sao chống cự với người da trắng cho nổi? Họ quên rằng dân tộc ta có một tinh thần bất khuất, càng bị đè nén thì càng phản động lại, không phản động được ở mặt này thì phản động ở mặt khác, nên tuy tiếng súng có im ở khắp nơi mà tinh thần chống ngoại xâm vẫn bồng bột trong lòng dân chúng. Và chỉ sáu năm sau khi Đề Thám trá hàng ở Nhã Nam, một cuộc vận động khởi nghĩa quy mô khá lớn, đã manh nha, do cụ Phan Bội Châu chủ mưu. Tiểu sử của cụ, quốc dân ai mà không thuộc, chúng tôi xin miễn nhắc lại, e rườm, chỉ xin kể những hoạt động của cụ có liên lạc ít nhiều với phong trào duy tân ở đầu thế kỷ. Năm 1903, cụ tìm kiếm cụ Tiểu la Nguyễn Thành (tức cụ ấm Hàm) ở Quảng Nam. Cụ Nguyễn Thành khuyên cụ định đường lối hoạt động như sau: - Liên kết dư đảng Cần vương. Tôn phò Kỳ Ngoại hầu Cường Để, dòng dõi của Hoàng tử Cảnh làm minh chủ để đoàn kết nhân tâm. - Cầu ngoại viện để có thêm lực lượng. 1 Lời của Nguyễn Thân sau khi thiêu xác Phan Đình Phùng, nghĩa là gối cao (mà ngủ), chẳng còn lo gì cả. 18

19 Cụ nghe lời, ra Huế, lại yết kiến Kỳ Ngoại hầu, bày tỏ chí lớn. Hầu nhận làm hội chủ, còn cụ thì nhận việc tổ chức đảng, tức thời ra Bắc, lặn lội vào miền Yên Thế, thăm Hoàng Hoa Thám, rồi năm sau vô Nam, tìm thăm các hào kiệt cùng các nhà nho tâm huyết từ Vĩnh Long tới Châu Đốc, Hà Tiên, tiếp xúc với cụ Nguyễn Thần Hiến 1, một nhà ái quốc ở Cần Thơ. Khi trở về Huế, cụ soạn cuốn Lưu Cầu huyết lệ tân thư 2 để tả cái nhục mất nước và tuyên bố phải mở mang dân khí làm nền tảng cứu quốc, rồi thành lập hội Duy Tân (1904). Vậy chủ trương của cụ đã hơi khác các nhà cách mạng trước: không tự lực hoạt động trong một khu vực nhỏ mà muốn thống nhất các hoạt động rời rạc, gây nổi một phong trào bao trùm khắp nước, cần sự hưởng ứng của toàn dân và sự viện trợ của ngoại quốc để hành động cho đắc lực. Cụ hăng hái quá, song thiếu kinh nghiệm, tưởng đâu có thể tuyên truyền trong đám các cụ lớn ở Huế, nên đưa cuốn Lưu Cầu huyết lệ tân thư cho họ coi. May cho cụ là họ không tố cáo với người Pháp mà bắt giam cụ. Tiếng chuông Lưu Cầu mới vang trong giới nhà nho ở Huế thì một tiếng chuông khác cũng nổi lên ở Bình Định. Nguyên cuối năm 1904, ba cụ Phan Châu Trinh, Trần Quí Cáp và Huỳnh Thúc Kháng rủ nhau chu du mấy tỉnh miền nam Trung Việt, tới Bình Định nhằm lúc tại nơi đó đương có kỳ thi hạch. Ba cụ mạo tên nộp quyển. Cụ Trần và cụ Huỳnh làm bài phú Lương ngọc danh sơn, còn cụ Tây Hồ làm bài thơ Chí thành thông thánh. Bài sau này thể Đường luật, ngắn hơn nên truyền tụng rất mau. 1 Thuở nhỏ ông được cha đặt tên là Nguyễn Như Khuê, năm 18 tuổi ông tự đổi là Nguyễn Thần Hiến. Ông là thân phụ của bác sĩ Nguyễn Như Giu (trước năm 1975 là trưởng khoa lao bệnh viện Cần Thơ). (Goldfish). 2 Có sách bảo cuốn này viết năm 1903, có sách bảo năm

20 Nguyên văn chữ Hán như sau: Thế sự hồi đầu dĩ nhất không, Giang sơn hòa 1 lệ khấp anh hùng. Bách quan 2 nô lệ cường quyền hạ, Bát cổ văn chương túy mộng trung. Trường thử tích 3 niên cam thóa mạ, Bất tri hà nhật xuất lao lung. Chư quân thùy thị 4 vô tâm huyết, Thí bả 5 tư văn khán nhất thông. Kìa coi thế sự, hết trông mong, Vắng mặt anh hùng tủi núi sông. Tám vế văn chương mê mắt ngủ, Trăm quan tôi tớ uốn lưng cong. Thôi đừng lỳ quá cam cười khổ, Phải tính sao đây phá cũi lồng. Thử hỏi ai không gan ruột nhỉ? Câu này đọc tới cảm hay không? (Phương Sơn dịch) Rời Bình Định, ba cụ tiếp tục con đường vô Nam, ghé Cam Ranh rồi cập bến Bình Thuận. Hai cụ Trần và Huỳnh sau khi khảo sát tình hình rồi, xuống ghe bầu trở về xứ Quảng, cụ Phan đau, ở lại, tỏ nỗi buồn trong bài thơ Phan Thiết ngọa bệnh: 1 Có bản chép là vô 2 Có bản chép là Vạn dân 3 Có bản chép là bách niên 4 Có bản chép là vị tất 5 Có bản chép là bằng hướng 20

21 Hựu hướng giang san tẩu nhất tao, Tam Phan phong vũ trệ chinh bào. Thử trung ý tự vô nhân thức, Độc ngọa tha hương thính hải đào. Định đi một vòng khắp nước non, Nhưng mưa gió ba xứ Phan 1 này cản áo khách đi đường lại. Nỗi lòng ta lúc này không ai biết đến, Nằm một mình ở chỗ quê người mà nghe sóng biển 2. Nhờ phải ở lại như vậy mà cụ kết thân với cụ Hồ Tá Bang 3 lập một thư xã ở đình Phú Tài để giảng sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, trong vài tháng, rồi tháng chín cụ trở ra Quảng. Năm sau ông Nguyễn Trọng Lợi mở hội Thanh niên thể dục và tư thục Dục Anh để dạy học theo tinh thần mới, đón ông Lương Thúc Kỳ (nhạc phụ của Phan Khôi) làm giáo viên. Trường khá nổi tiếng, có một số thanh niên ở Nam kỳ ra học. Phí tổn đều do công ti Liên Thành (cá nước mắm..) chu cấp mà công ti đó cũng do ông Nguyễn Trọng Lợi thành lập. (Vậy) nhờ cụ (Phan Chu Trinh) chủ xướng, khuyến khích giáo dục, công thương hội mà phong trào truyền bá canh tân, mở mang thương nghiệp, chấn hưng công nghệ đã được khởi phát và thực hiện tại ở Bình Thuận sớm hơn ở Bắc phần và Nam phần. 4 1 Tức ba tỉnh Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết. 2 Bản dịch của Ngô Đức Kế: Chạy khắp giang sơn một chuyến này, Mưa cầm gió bắt phải nằm đây. Biết mình nào có ai đâu tá? Sóng bể nằm nghe réo suốt ngày. (Nguồn: Wikisource). (Goldfish). 3 Thân phụ bác sĩ Hồ Tá Khanh, bộ trưởng Bộ Y tế trong nội các Trần Trọng Kim. 4 Theo Châu Hải Kỳ trong bài: Những hoạt động cách mạng của cụ Phan Châu Trinh tại Bình Thuận. - Bách khoa ngày

22 * * * Tuy nhiên, hai tiếng chuông Lưu Cầu huyết lệ tân thư và Chí thành thông thánh của hai cụ Phan chưa ảnh hưởng lớn bằng những tiếng súng trong trận Nhật Nga dội vào nước ta cuối năm 1904 và đầu năm Các nhà nho vừa mới hay tin nước Nhật bé nhỏ dám tuyên chiến với nước Nga khổng lồ, còn đương ngạc nhiên thì lại tiếp được tin hạm đội Nga ở Thái Bình Dương thua to tại Lữ Thuận, rồi lục quân Nga cũng tan tành, lần lượt Kim Châu, Liêu Dương, Lữ Thuận, Phụng Thiên đều bị Nhật chiếm. Các cụ bàng hoàng như tỉnh một cơn mê, rồi tới khi có tin hạm đội cứu viện của Nga mới phái qua lại bị tiêu diệt ở eo biển Đối Mã thì các cụ đều vỗ tay reo, muốn nhảy muốn múa. Trận ấy, người Nhật dùng máy vô tuyến truyền tin lần đầu tiên trong hải chiến, đã đánh đắm hoặc bắt được trọn hạm đội Nga trừ ba chiếc chạy thoát; phía Nga tử trận 4000, bị cầm tù 7000, còn phía Nhật tử trận có 16, bị thương có 538. Lịch sử Á Đông chưa ghi một thắng trận nào vẻ vang như vậy, một thắng trận đã đánh dấu một khúc quanh trong hiện đại sử. Ảnh hưởng của nó đối với Á Đông quan trọng vô cùng: Á Châu thức tỉnh rồi tự tín được là nhờ nó. Các quốc gia lớn nhỏ từ Ấn Độ tới Phi Luật Tân có cảm tình ngay với Nhật vì Nhật đã rửa cái nhục chung cho giống da vàng và da đen. Trung Hoa mong lật đổ gấp nhà Thanh để duy tân; Ấn, Miến, Mã Lai, Việt Nam đều hăng hái hoạt động để giành lại độc lập. Riêng ở nước ta, phong trào cách mạng phát lên bồng bột và tiến tới một hướng khác. Năm 1903, các nhà cách mạng của ta chỉ biết trông cậy ở sự giúp đỡ của Trung Hoa mặc dầu có một vài nhà ngờ rằng sự giúp đỡ đó không được bao nhiêu vì chính người Trung Hoa tự cứu họ chưa xong, đã chịu cho liệt cường cắt xẻo như một con mồi vậy; từ 1905 trở đi, dân tộc ta hướng cả về Nhật, một mặt 22

23 muốn cầu Nhật giúp khí giới để đuổi Pháp, một mặt muốn noi gương duy tân của Nhật để cường thịnh lên. Thì Nhật trước kia cũng phục tòng Trung quốc, hơn gì ta; chỉ nhờ công cuộc duy tân của Minh Trị và Y Đằng Bác Văn, mà ba chục năm sau đã làm cho Âu, Mỹ phải kiêng nể. Ta mà được duy tân như họ thì kém gì họ? Sĩ phu trong nước truyền tay nhau đọc những cuốn: Nhật Bản quốc chí, Nhật Bản duy tân khảng khái sử, Nhật Bản tam thập niên duy tân sử. Có cụ soạn bài Đề tỉnh quốc dân ca 1, trong đó có những câu khen Nhật như: Lòng ái quốc ghê hồn Nhật Bản... Khen thay Nhật Bản anh tài... Do đó, phong trào Đông du và Duy tân nổi lên mạnh trong những năm Nhiều tài liệu bảo bài này là của Phan Bội Châu. TS. Đoàn Lê Giang, trong bài Ai là tác giả đích thực của bài Á Tế Á ca, bảo bài Á Tế ca là của Tăng Bạt Hổ; bài này còn có hai nhan đề nữa là: Đề tỉnh quốc dân ca và Nam Hải bô thần ca. ( (Goldfish). 23

24 CHƯƠNG II PHONG TRÀO ĐÔNG DU Đông hải xông pha nương cánh gió. (Phan Bội Châu) Người có công đầu dẫn đường cho các nhà cách mạng qua Nhật là cụ Tăng Bạt Hổ. Cụ quê ở Bình Định, lớn lên làm suất đội rồi lên cai cơ, cùng với Phạm Toàn mộ dân quân để chống Pháp, thua Nguyễn Thân nhiều trận, Thân biết cụ là người có tài, dụ hàng, cụ không chịu, lẻn qua Xiêm, rồi qua Trung Quốc tìm Lưu Vĩnh Phúc, Phúc chết, cụ xin làm thủy thủ một tàu buôn vừa để tự túc, vừa để quan sát tình hình các nước, tìm thêm đồng chí. Nhờ nghề đó, cụ thường qua lại Hoành Tân, Trường Kỳ, được ít năm, nói thông tiếng Nhật, sung vào đội thủy quân Nhật. Trong Nga-Nhật chiến tranh, vì lòng căm hờn người Âu, cụ nguyện hy sinh giúp Nhật, nổi tiếng là quả cảm, có công lớn trong những trận Đài Liên, Lữ Thuận, được người Nhật khâm phục, thưởng huy chương quân công. Ngày khải hoàn, cụ được dự bữa đại yến do Nhật Hoàng đãi các tướng sĩ. Đỡ chén rượu của vua Nhật ngự rót thưởng cụ, cụ uống một hơi cạn rồi khóc lớn ở giữa triều đình. Nhật Hoàng hỏi, cụ giãi bày hết nỗi lòng: 24

25 - Tôi vốn không phải là người Nhật mà là một người vong mạng 1 Việt Nam. Sau khi thất bại trong việc chống Pháp, tôi trốn qua Xiêm, qua Trung Hoa rồi tới đây, may được Bệ hạ tin dùng. Nay thấy quý quốc thắng Nga, làm vẻ vang cho giống da vàng, tôi nghĩ đến tình cảnh nước tôi mà không cầm được giọt lệ. Bao giờ dân nước tôi mới được một bữa yến như bữa này của quý quốc! 2 1 Tiếng vong mạng thời đó còn dùng theo nghĩa gốc là kẻ phải trốn đi để giữ lấy mạng mình; sau này, nghĩa đó đổi lần và bây giờ hạng người vong mạng là hạng người liều lĩnh, làm càn. 2 Chưa rõ cụ Tăng sanh năm nào, có lẽ hồi 1905 cụ đã ngoài bốn chục tuổi, năm 1905 cụ về nước, bị kiết lị, mất ở Huế (1906). Vì vụ khóc lớn ở triều đình Nhật nên cụ Sào Nam điếu cụ như vầy: Quân khởi ký sinh tác hí ư thế da, dụng binh ngũ tải, khứ quốc trấp dư niên, ký khốc vu Xiêm, ký khốc vu Thanh, hốt hốt nhiên đại khốc vu Đông, thùy linh tứ nhập thu phong, hưởng ngã Thần châu mai cổ kiếm. (Vế sau nói về cụ Sào Nam, xin lược bỏ). Bác há sống nhờ làm trò cho đời ư, năm năm làm tướng, bỏ nước trên hai chục thu, đã khóc ở Xiêm, đã khóc ở Thanh, lại hốt nhiên khóc lớn ở Đông, ai khiến gió vàng nổi lên, nhắm đất Thần châu chôn kiếm cổ. Trong cuốn Phong trào đại Đông du của Phương Hữu (NXB Nam Việt 1950) có trích một bài lục bát (khuyết danh) nói về việc khóc ở triều đình Nhật đó: Thân phiêu bạt đã đành vô lại Bấy nhiêu năm Thượng Hải, Hoành Tân. Chinh Nga nhân buổi hoàn quân, Tủi mình bô bá theo chân khải hoàn. Nâng chén rượu ơn ban hạ tiệp Gạt hàng châu khép nép quì tâu. Trời Nam mù mịt ngàn dâu, Gió thu như thổi dạ sầu năm canh. 25

26 Hết thảy các người dự yến đều chăm chú nhìn vẻ mặt cương nghị, nghe lời khảng khái của cụ. Nhật Hoàng khen cụ là chân ái quốc, an ủi cụ mấy lời và từ đó các nhà cầm quyền Nhật rất có cảm tình với cụ. Cụ làm quen với các nghị sĩ Nhật như Khuyển Dưỡng Nghị, Đại Ôi Trọng Tín, tỏ ý muốn cầu viện Nhật để đuổi Pháp. Họ bảo phải chờ cơ hội vì Nhật còn lo đánh Nga mà cũng chưa có hiềm khích gì với Pháp. Rồi họ khuyên cụ: Trước hết các ông phải lo phát triển phong trào duy tân trong nước để nâng cao dân khí, dân trí cho đại sự dễ thành. Muốn duy tân, không thể trông cậy ở Pháp được vì Pháp không thực tâm khai hóa, nên phải lựa những thanh niên tuấn tú đưa qua đây, nước chúng tôi sẽ đào tạo cho. Khuyến Dưỡng Nghị lại hứa tận lực giúp cho các học sinh Việt Nam được phép cư trú và được miễn học phí. 1 Cụ Tăng xét lời khuyên đó hữu lý, nên xin phép chính phủ Nhật, tức tốc về nước, không dự trận thủy chiến ở Đối Mã. * * * Cụ về tới Hải Phòng cuối năm 1904, vô Quảng Nam, do cụ Nguyễn Thành 2 giới thiệu mà hội họp với cụ Sào Nam và Kỳ Ngoại Hầu, đầu năm sau đưa cụ Sào Nam qua Nhật để cầu ngoại viện. 1 Sau Khuyển Dưỡng Nghị giữ lời hứa, thành một bạn thiết của cụ Sào Nam, nên khi Khuyển mất, cụ điếu một đôi câu đối chữ Hán mà chính cụ dịch ra như sau: Đời chính trị hơn bảy mươi năm, một khối hùng tâm, Đông Á Tây Âu lừng lẫy sấm, Thân bôn đào ngoài muôn dặm, mấy ai tri kỷ, Biển Hoàng, Non Phú mịt mù tăm. 2 Cũng có tên là Nguyễn Hàm, hiệu Tiểu La, người làng Thành Mỹ (Quảng Nam), vừa là sáng lập viên Duy Tân hội, vừa là người phụ trách phong trào Đông du - Năm 1908 bị đày ra Côn Đảo, năm 1911 mất ngoài đảo. 26

27 Lần đó là lần đầu tiên cụ Sào Nam xuất dương, lúc xuống tàu ở Hải Phòng, cụ khẩu chiếm một bài thơ từ giã đồng chí, ý cao lời đẹp: Sinh vi nam tử yếu hi kì, Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di Ư bách niên trung tu hữu ngã, Khởi thiên tài hậu cánh vô thùy? Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế, Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si, Nguyện trục trường phong Đông hải khứ, Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi. Bài đó, chính cụ dịch ra như sau: Khác thường bay nhảy mới là trai, Chẳng chịu vần xoay mặc ý trời! Trong cuộc trăm năm đành có tớ, Rồi sau muôn thủa há không ai? Non sông đã mất, mình khôn sống, Hiền thánh đâu còn, học cũng hoài. Đông hải xông pha nương cánh gió, Nghìn làn sóng bạc múa ngoài khơi. Hai câu luận: Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế, Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si. được hết thảy sĩ phu trong nước ngâm nga và làm cho nhiều người quyết tâm bỏ cổ học mà theo tân học. 27

28 Phố Hàng Đào thời ( pho-hang-dao.jpg) 1 Đưa cụ Sào Nam tới Nhật, giới thiệu cụ với cụ Khuyển Dương Nghị rồi, cụ Tăng lại trở về nước vận động, và trong hai năm 1905, 1906, chắc đã có lần gặp cụ Nguyễn Quyền 2 ở Lạng Sơn, họp với cụ Nguyễn Thượng Hiền ở nhà cụ đốc Đinh Trạch 3 tại Nam Định. Nghe tiếng cụ Lương Văn Can có nghĩa khí 4, được nghĩa hội văn thân ở Bắc tín nhiệm 5, cụ tìm lại thăm tại nhà ở số 4 phố Hàng Đào, Hà Nội để bàn về tình hình trong nước và kế hoạch lâu dài. Cụ Lương nói: - Thập niên chi kế mạc như thụ mộc, bách niên chi kế mạc như thụ nhân 6. Chúng ta đã vào hàng lão cả rồi 7 nên đặt hy vọng vào bọn hậu tiến. 1 Ảnh này và các ảnh sau do Goldfish sưu tầm. 2 Lúc đó cụ Nguyễn Quyền làm huấn đạo Lạng Sơn. 3 Cụ đốc Đinh Trạch đã từng giúp Tôn Thất Thuyết trong Phấn nghĩa quân. 4 Coi tiểu sử cụ Lương ở sau. 5 Hội này lập ở Bắc Kì ngay sau khi có tờ hịch Cần vương của vua Hàm Nghi. 6 Một thành ngữ, nghĩa là: Kế mười năm không gì bằng trồng cây, kế trăm năm không gì bằng đào tạo người. 7 Lúc đó cụ Lương cũng đã trên ngũ tuần. 28

29 Cụ Tăng đáp: - Ý tiên sinh thực hợp với ý tôi. Tôi về nước lần này chính có mục đích tìm thanh niên đưa qua Nhật học. Rồi cụ kể lại những lời khuyên của Khuyển Dưỡng Nghị và Đại Ôi Trọng Tín, sau cùng nhờ cụ Lương giới thiệu cho những thanh niên tuấn tú và nhiệt huyết. Cụ Lương đưa ý kiến: - Tôi nghe nói một giải Hồng Sơn đời đời sinh hào kiệt, dư đảng của cụ Phan Đình Phùng chắc còn, tiên sinh thử đi tìm, chắc được như ý. Lương Trúc Đàm, con cả cụ Lương, đã đậu cử nhân, lúc đó ngồi hầu trà ở bên, cung kính chắp tay đứng dậy thưa với cụ Tăng: - Ở Bắc Thành, thanh niên có tâm huyết cũng không thiếu, nếu cụ cho phép, cháu xin đảm nhiệm việc tìm anh tài ở ngoài này. Cụ Tăng cười: - Phi thử phụ bất sinh thử tử 1. Do cuộc hội đàm đó mà hai người con cụ Lương - Lương Ngọc Quyến (tức Lương Lập Nham) và Lương Nghị Khanh thành những sinh viên Đông du đầu tiên của nước Việt. * * * Tới Nhật, cụ Sào Nam lại thăm Lương Khải Siêu, Đại Ôi Trọng Tín và Khuyển Dưỡng Nghị. Khuyển tận tâm giúp cụ và khuyên cụ rước Kỳ Ngoại Hầu qua. Cụ liền về nước thu xếp việc đó rồi lại trở qua Nhật liền, mới vô tới nhà trọ cũ ở Hoành Tân, đã gặp Lương Ngọc Quyến nằm đợi cụ ở đó rồi. Trong Ngục trung thư cụ viết: 1 Không cha đó thì không sinh được con đó. 29

30 Tôi xem ra người - tức Lương Ngọc quyến - có khí phách hăng hái, đầu tóc đang để bờm xờm, dò hỏi mới biết ông ta bỏ nhà vượt biển trốn sang Nhật có một mình, lúc lên bờ, trong túi chỉ còn vỏn vẹn có ba đồng xu. Thấy vậy tôi vừa mừng vừa chưng hửng. Vì bạn tuổi nhỏ ở nước nhà, một thân một bóng mà đám liều mạng xông pha sóng gió muôn trùng, tới một nước thuở nay chưa nghe thấy bao giờ, Lương quân chính là người thứ nhất vậy. Té ra Lương quân vốn là người chứa sẵn kỳ khí, chỉ nghe nói tôi qua Đông Kinh mà thành ra mạnh bạo bỏ nhà bỏ nước ra đi. Bạn thiếu niên anh tuấn của ta sau này, có mấy người được như Lương quân 1. Trong cuốn Tự Phán (Anh Minh xuất bản), cụ lại chép: Rất đáng quý hóa là ông Lương Lập Nham, hành động có cách bất kỳ, tình hình quẫn bức 2, khó thề ngồi yên, hăng hái nói: Lúc này không đi ăn mày, còn đợi lúc nào nữa? Sáng ngày nhịn đói, đi tự Hoành Tân đến Đông Kinh một ngày một đêm. Đêm đâm vào Cảnh sát thự, nằm ngủ giữa đất, quan cảnh sát hỏi, ông vì không hiểu tiếng Nhật, ngu ngơ không trả lời; lục trong túi lại không có gì cả, nghi là người có tâm tật, đoạn rồi cảnh sát nói chuyện bằng chữ viết mới biết ông là thiếu niên Ấn Độ China, cảnh sát Nhật lấy làm lạ, cấp cho ông tiền phí hỏa xa về Hoành Tân. Ông được tiền cảnh sát cho, đã đỡ đói trong vài ngày, nhưng không trở về quán ở, bèn đi thăm hết chỗ lưu học sinh Trung Hoa ở Đông Kinh, tình cờ tìm được nhà Dân Báo báo quán. Nhà báo ấy là cơ quan của đảng cách mạng Trung Hoa, chủ bút là Chương Thái Viêm tiên sinh, quản lý là Trương Kế (...). Hai người ấy là tay tiền phong đảng cách mạng Tàu. Vào quán đem thực tình nói với Chương, Trương. Chương, 1 Bản dịch của Đào Trinh Nhất - Tân Việt xuất bản, NXB Văn Hóa TT tái bản, 2000 (BT). 2 Lúc đó, mùa đông năm 1905, chín nhà ái quốc ở trong một phòng ở Hoành Tân, vừa đói vừa rét. 30

31 Trương thương lắm, cho ông làm việc tam đẳng thư ký và nói với ông trở về Hoành Tân đem vài người đồng chí lại sẽ dung nạp cho. Lúc đó ông trở về ngụ quán, vừa mới vào cửa thì cười òa và nói với tôi rằng: Bác ơi! ăn mày được việc rồi. Lúc bấy giờ để Nghị Khanh là người em ở với tôi, còn dắt hai người đồng hương từ biệt tôi lên Đông Kinh, ăn nhờ ở Dân báo và học tiếng Nhật Bản. Ở Nhật, Sào Nam viết bài Khuyên thanh niên du học giao cho cụ Tăng đem về nước phát hành. Cụ Nguyễn Hải Thần cùng qua Nhật với Lương Ngọc Quyến, lúc đó cũng ở Hoành Tân, tình nguyện gánh vác công việc quyên tiền để giúp du học sinh. Cụ Hải Thần quê làng Đại Từ, Hà Đông có nhà ở phố hàng Bạc, Hà Nội, tính hay cười, ít nói, không bao giờ phản đối ai cả. Có hồi cụ theo học cụ Lương, sau khi đậu Tú tài, làm đôi câu đối tết dán ở cửa: Mẹ chết dám đi thi, 1 Trời cũng chiều lòng cho đỗ nhỏ, (...), 2 người mà có chí ắt làm to. Chí đó là chí làm cách mạng, và sau này, trời cũng chiều lòng cụ một lần nữa, năm 1946, được về Hà Nội, được trông thấy cảnh nước nhà độc lập. Thanh niên trong nước hưởng ứng phong trào Đông du và đầu năm 1906, thêm được hai anh tuấn nữa, tức Nguyễn Thức Canh, Nguyễn Điển, cộng với Lương Nghị Khanh 3, Lương Ngọc Quyến là bốn. Trừ Lương Nghị Khanh vào học Đồng Văn thư viện, còn ba người kia vào học Chấn Võ học hiệu. Vậy trong số bốn thiếu niên mở đường cho phong trào Đông du, họ Lương đã chiếm tới một 1 Xưa có tang cha mẹ thì không được đi thi. Lúc đó, cụ có tang mẹ nuôi nên được phép thi. 2 Thiếu năm chữ. 3 Lương Nghị Khanh là con thứ tư của cụ Lương Văn Can, rất thông minh, 17 tuổi đã đậu Tú tài, người quen thường gọi là Tú con. 31

32 nửa. Từ đó, phong trào mỗi ngày một lên, hai năm sau số học sinh tại Nhật có tới trên trăm, đủ Trung, Nam, Bắc, làm cho chính phủ Pháp lo ngại. Ở Cần Thơ, cụ Nguyễn Thần Hiến là người gia nhập sớm nhất, lập Khuyến du học hội, cho người con trai là Nguyễn Như Bích qua Nhật, sĩ phu trong Nam hưởng ứng rất đông. Đầu năm 1906, Kỳ Ngoại Hầu qua Nhật cùng với cụ Phan Sào Nam và cụ Phan Tây Hồ. Các nhà cách mạng của ta thời đó qua Nhật rất thường - ấy là lén lút mà còn vậy - và Đông Kinh thành nơi gặp gỡ của các nhà ái quốc ở Đông Á. Trước khi đi, cụ Tây Hồ có hội đàm với các cụ Lương Văn Can, Đào Nguyên Phổ, Võ Hoành để bàn kế duy tân. Ở Nhật ba, bốn tháng, cụ khảo sát phương châm tự cường của người Nhật, lại thăm Khánh Ứng nghĩa thục, nơi đào tạo các nhà tiền bối duy tân của Nhật, tiếp xúc với các giáo sư trong trường, tìm hiểu cách huấn luyện đồng chí và phương pháp tổ chức việc học. Khi khảo sát xong, chương trình hành động đã định, cụ sửa soạn về nước, tìm gặp cụ Sào Nam, để phân công với nhau. Trong Ngục trung thư cụ Sào Nam nhắc lại việc đó, cụ viết: Ông - tức cụ Tây Hồ - nói với tôi: - Xem dân trí Nhật Bản rồi đem dân trí ta ra so sánh thật không khác gì muốn đem con gà con đọ với con chim cắt già. Giờ bác ở đây, nên chuyên tâm ra sức về việc văn, thức tỉnh đồng bào cho khỏi tai điếc, mắt đui, còn việc mở mang dìu dắt ở trong nước nhà thì tôi xin lãnh. Lưỡi tôi đang còn, người Pháp chẳng làm gì tôi được mà lo 1. Rồi cụ Sào Nam đưa tập Hải ngoại huyết thư mới viết xong cho cụ Tây Hồ mang về nước. Tới Hà Nội cụ Tây Hồ lại thăm cụ Lương Văn Can, bày rõ tình hình của Nhật và hai cụ bàn với nhau 1 Bản dịch của Đào Trinh Nhất, NXB Văn Hóa-TT tái bản, năm 2000 (BT). 32

33 sáng lập một nghĩa thục tựa như Khánh Ứng nghĩa thục để mở mang dân trí và đào tạo đồng chí, mưu kế lâu dài. Ít tháng sau, cụ Sào Nam cũng ở Nhật về lần thứ nhì cốt ý gặp mặt Hoàng Hoa Thám, xin Hoàng cắt đất lập đồn để thu dụng những đảng viên Nghệ, Tĩnh, chờ thời bạo động. Nhân cơ hội đó, hai cụ Phan, cụ Lương, cụ Tăng họp nhau ở phố hàng Đào, và trong cuộc hội họp ấy, Đông Kinh nghĩa thục được quyết định mở, gây nổi một phong trào duy tân trong nước. Hô hào cắt tóc ngắn 1908 ( Theo nhà văn Nguyễn Văn Xuân 1, phong trào này thật sự đã phát sinh ở Quảng Nam trước hết. Năm 1906 ba nhà ái quốc Phan Châu Trinh, Trần Quí Cáp và Huỳnh Thúc Kháng đã tổ chức các 1 Năm 1970 Nguyễn Văn Xuân có sách Phong trào Duy tân (NXB Lá Bối) viết rõ về năm ra đời của phong trào Duy tân tại Quảng Nam từ trước năm Năm 1971 Nguyễn Q. Thắng có trình bày rõ về năm ra đời phong trào này ở Quảng Nam trong các cuốn: Huỳnh Thúc Kháng con người và thơ văn (Phủ quốc vụ khanh Đặc trách Văn hóa XB, 1971) và Phan Châu Trinh con người và tác phẩm (NXB TP.HCM, 1986) thì phong trào Duy tân ra đời ở Quảng Nam từ năm chớ không phải từ năm rất bề thế ở hai lĩnh vực giáo dục và kinh tế (thương mãi) (BT). 33

34 cuộc nói chuyện, các lớp tân học để đả đảo khoa cử, bài trừ hủ tục, hô hào cắt tóc ngắn...; lại lập một cơ sở kinh doanh lấy tên là Thương học công ti ở huyện Thăng Bình nơi cụ Trần Quí Cáp đương giữ chức giáo thụ. Phong trào được nhân dân hưởng ứng: các trường học (hình như có cả một lớp riêng cho nữ sinh) và các hội buôn mở ra khá nhiều, nhưng vì thiếu kinh nghiệm tổ chức, hoặc vì Quảng Nam là một tỉnh nhỏ, nên không có tiếng vang lớn trong toàn quốc, và đúng lúc phong trào bắt đầu xuống thì Đông Kinh Nghĩa thục nổi lên. Nhưng có người lại nói năm 1907, khi Đông Kinh Nghĩa thục đã thành lập ở Hà Nội rồi, cụ Tây Hồ mới về Quảng Nam cổ động nhân dân mở các lớp học duy tân. Chưa rõ thuyết nào đúng. Nguyễn quân hiện đương sưu tầm về phong trào đó và trong bài Văn học miền Trung (Tân Văn số 2, năm 1968), ông mong sẽ có dịp công bố kết quả. 34

35 CHƯƠNG III ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC THÀNH LẬP Ngẫm xem con Tạo xoay vần, Bày ra một cuộc duy tân cũng kỳ 1. Tác giả Hồi 1906, ở đầu phố hàng Đào, phía tay phải, từ chợ Đồng Xuân đi xuống có một căn nhà rộng mang số 4, bề ngang khoảng 4,5 thước, tại giữa là một lối đi, hai bên kê tủ và kệ chứa những tấm lụa Hà Đông, the La Cả, đũi Vân Xa, lãnh Bưởi và ít nhiều cây gấm Thượng Hải. Cụ bà Lương Văn Can, và hai người con gái thay phiên nhau trông nom cửa hàng đó. Phía sau cửa hàng là một phòng rộng, trên cao treo một bức hoành phi sơn son thếp vàng khắc bốn chữ Hồn nhiên thiên thành. Ở cuối phòng có một cái thang đưa lên gác, chính tại gác đó mà cụ Lương, cụ Tăng, hai cụ Phan và nhiều nhà cách mạng nhỏ tuổi hơn như Nguyễn Quyền, Lương Trúc Đàm, Đỗ Chân Thiết, Phương Sơn... họp nhau để bàn quốc sự. Cụ Sào Nam kể lai lịch cùng chí hướng của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, những lời hứa hẹn của các chính khách Nhật rồi bàn lẽ phải nhờ sức viện trợ của Nhật thì việc lớn mới thành. Cụ Nguyễn Quyền đứng dậy nói: - Theo ngu ý, như vậy e sa vào cái lỗi tiền môn cự hổ, hậu hộ tiến lang 1 mất. 1 Coi chú thích đầu chương I. 35

36 Cụ Sào Nam bênh vực quan niệm của mình, đại ý nói, không nhờ ngoại viện thì gắng sức cũng chỉ gây được thanh thế như cụ Phan Đình Phùng là cùng, không sao thắng nổi Pháp. Cụ Lương đứng ra hòa giải: - Tôi nghĩ ngoại viện và tự cường phải đồng thời tiến hành mới nên. Từ đó đường lối cách mạng của các cụ, kể cả cụ Sào Nam, là một mặt tiến hành giải phóng dân tộc bằng biện pháp võ trang, mặt khác đấu tranh công khai hợp pháp nhằm tuyên truyền giáo dục quốc dân, cải cách kinh tế xã hội để phục vụ cho cuộc đấu tranh võ trang. Rốt cuộc, một nhóm người đã xuất dương thì cứ tiếp tục cầu viện Nhật, Trung Hoa, còn nhóm người ở tại trong nước thì lo duy tân, tự cường, liên lạc với các đồng chí Trung, Nam, Bắc, cổ lệ dân khí để quyên tiền giúp người xuất dương. Tinh thần đó được một chí sĩ ghi lại trong mấy vần dưới đây: Quyết vùng dậy ra tay tả đảng 2 Đứng đều lên có bạn nhà Nho, Người trong thì trợ công phu, Thừa cơ diễn thuyết nói cho rõ ràng.... Người ở lại liệu chiều vận động, Người đi thì biết rộng cơ mưu. Trong ngoài giao hợp với nhau, Đem tài lương đống làm đầu cho dân 1 Cửa trước cự được con hổ, cửa sau lại rước con chó sói vào. 2 Điển Chu Bột đời Hán, muốn giết họ hàng, bè phái Lữ Hậu để khôi phục họ Lưu (nhà Hán), ra lệnh hễ ai theo họ Lưu thì vén tay áo bên tả (tả đảng) lên; quân lính đều vén tay áo bên tả và sau khôi phục được nhà Hán. 36

37 (Kính gởi đồng bào toàn quốc - Vô danh) Như vậy ta không thể căn cứ vào Văn minh tân học sách 1 để kết luận rằng Đông Kinh Nghĩa thục chỉ làm cách mạng về văn hóa thuần túy. Sự thực là có một sự phân công giữa các nhà Nho thời đó và hai phái Duy tân và Bạo động nhắm chung một đích, bổ túc lẫn nhau. Các cụ hẹn với nhau cứ sáu tháng lại khai hội ở Hà thành một lần, tại nhà cụ Lương; nhưng một cụ đề nghị mỗi lần hội nên đổi chỗ, như tại chùa Trấn Quốc, chùa Hòa Mã, chùa Liên Phái... cho người Pháp khỏi dòm ngó, đề nghị đó được tán thành. Khi bàn tới việc quyên tiền, cụ Tây Hồ tỏ vẻ hơi bi quan. Cụ nói: - Chúng ta có cái dũng khí độc lập cả ngàn năm rồi, trăm lần bẻ mà không gẫy. Tôi có dịp chu du các nơi, những người hưởng ứng có tới số ngàn, chỉ tiếc một điều, người có hằng sản thì không có hằng tâm, còn người có hằng tâm thì hầu hết là bần sĩ, mỗi khi nghĩ tới việc đó, tôi thường thở dài, biết làm sao đây? Cụ Phương Sơn đứng lên nói: - Phàm đã có quyết tâm thì không nên kể thành bại mà cứ việc mạnh bạo làm. Tôn Dật Tiên khi khởi sự ở Hương Cảng chỉ có sáu đồng chí, tức bọn Sử Kiện Như, Trần Thiếu Bạch... mà bây giờ thanh thế gần như cướp mất hồn phách của nhà Thanh. Vậy ta chỉ sợ không có chí, đừng sợ không có tiền, xin các cụ đừng ngại. Kế đó, cụ Tây Hồ kể rõ phương pháp của Khánh Ứng nghĩa thục và đề nghị lập tại Hà Thành một nghĩa thục tương tự. Đề nghị được 1 Văn minh tân học sách viết năm 1904, không rõ tác giả là ai, năm 1907 được Đông Kinh nghĩa thục in lại cùng với bài Cáo hủ lậu văn và Cao Li vong quốc chi thảm trạng để làm tài liệu học tập, tuyên truyền. 37

38 chấp thuận và sau một hồi bàn xét, tên Đông Kinh nghĩa thục 1 được lựa chọn, mục đích của nghĩa thục được vạch rõ: khai trí cho dân, phương tiện được hoạch định: mở những lớp dạy học không lấy tiền (để đúng với cái tên là nghĩa thục) và tổ chức những cuộc diễn thuyết để trao đổi tư tưởng cùng cổ động trong dân chúng. Trường sẽ dạy cả Việt văn, Hán văn, Pháp văn. Ban Tiểu học chuyên dạy Việt văn, lên Trung học và Đại học mới dạy Hán văn và Pháp văn. Chương trình thì bỏ lối học từ chương khoa cử mà chú trọng vào thường thức và thực nghiệp 2. Các sĩ phu trường Đông Kinh Nghĩa thục ( 1 Đông Kinh, tức Đông đô, tên thành Hà Nội về đời nhà Hồ. [Ông Trần Viết Ngọc, trong bài Suy nghĩ thêm về Đông Kinh nghĩa thục đăng trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 618, ngày 10/10/2007, cho rằng tên Đông Kinh xuất hiện lần đầu năm 1428 vào thời Hậu Lê. (Goldfish)]. 2 Chúng ta nên nhớ hiện nay, sau 60 năm, chương trình của bộ Quốc gia Giáo dục vẫn chưa chú trọng vào hai điểm đó. 38

39 Đại cương đã vạch rồi, ít lâu sau, các cụ tái hội để tổ chức nghĩa thục và phân phối công việc. Lần này vắng mặt cụ Tăng và cụ Sào Nam, nhưng thêm nhiều nhà nho khác như Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Hải Thần... và vài nhà tân học như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học... Hết thảy đều cử cụ Lương Văn Can làm thục trưởng, cụ Nguyễn Quyền làm học giám; cụ Tây Hồ không lãnh chức gì cả vì cụ muốn về Trung gõ chuông thức tỉnh đồng bào trong đó. Cụ Lương sở dĩ được bầu chức thục trưởng vì cụ lớn tuổi hơn cả và bản tính ôn nhu mà có khí tiết. Cụ sinh năm 1854 ở làng Nhị Khê, tỉnh Hà Đông - tức quê của Nguyễn Trãi - trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ có lần cụ phải làm thợ sơn trong vài tháng. Năm 21 tuổi, cụ đậu cử nhân, năm sau thi Hội, được phân số 1, triều đình bổ làm giáo thụ Phủ Hoài, cụ từ chối, sau chính phủ Pháp cử cụ làm Hội đồng thành phố Hà Nội, cụ cũng không nhận, ở nhà dạy học mà môn đệ nổi danh nhất của cụ sau này là cụ Nguyễn Hải Thần. Ngay từ hồi trẻ, cụ đã tỏ ra có khí phách. Khi một thầy cũ, làm cách mạng bị chém, bêu đâu ở Phủ Hoài, môn đồ không ai dám xin thi hài về chôn cất sợ lụy tới thân, duy có cụ khẳng khái dâng sớ xin, triều đình cho phép và khen là người có nghĩa. Năm lập nghĩa thục, cụ mới trên 50 tuổi, nhưng râu tóc đã bạc nhiều, trông như người ngoài sáu mươi. Các cụ Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn tự đảm nhiệm việc xin giấy phép mở trường, và tức thì thảo đơn gởi phủ Thống sứ. Về tài chánh, hội viên tự ý giúp bao nhiêu cũng được và quyên thêm trong những chỗ quen thuộc hảo tâm. Tiền do cụ Lương xuất phát, nhưng sổ sách do cụ Nguyễn Quyền giữ. 1 Nghĩa là trong bốn kỳ thi Hội được một, hai kỳ. 39

40 Chương trình của hội là hãy lập một trưởng ở Hà Thành, rồi tuyên truyền về các vùng lân cận bằng các cuộc diễn thuyết; khi nào công việc tấn triển khả quan sẽ lập chi nhánh ở khắp nơi. Nhiều người bàn nên lập trường ở ngay nhà cụ Lương vì nhà này có một cái gác tẩu mã 1 chứa được vài trăm học sinh. Cụ Lương bằng lòng và đề nghị khi nào số học sinh đông, sẽ mướn thêm ngôi nhà số 10 ở bên cạnh. Nhà này còn rộng hơn nhà cụ, vốn là của ông Hương cống Sùng, một phú gia bậc nhất nhì Hà Thành hồi trước, lúc đó đã bán cho ông Phạm Lẫm (thường gọi là ông Bố Vĩnh Lại vì ông làm Bố chánh và quê làng Vĩnh Lại - Hưng Hóa). Nhà ăn thông từ hàng Đào đến hàng Quạt, dài trên năm chục thước rộng có chỗ non ba chục thước, cũng có gác tẩu mã rộng tám thước lại thêm một hoa viên, giữa xây một con voi lớn, đào một giếng nước và trồng nhiều cây quý như anh đào, bích đào, đặc biệt nhất là một cây lê tới mùa bông trắng xóa và một cây lựu bông kín cả cành, đỏ rực, rũ xuống y như tràng pháo. * * * Đợi hơn một tháng sau, phủ Thống sứ vẫn chưa cho phép. Chắc sở Liêm phóng (tức sở Mật thám) còn điều tra kỹ lưỡng và cái tên nghĩa thục đã làm cho họ suy nghĩ: nghĩa thục là trường dạy không lấy tiền, những nghĩa thục và nghĩa quân thì cùng là một chữ nghĩa đó, vậy nghĩa thục còn nghĩa gì khác nữa chăng? Từ chối không cho phép thì tỏ ra hẹp hòi vì người ta xin mở trường khai trí cho dân chứ có làm gì đâu; mà cho phép thì sợ trường hoạt động cách mạng, sau này mất công đàn áp. Trong khi đó, tiếng đồn trường sẽ mở đã vang khắp Hà Thành, từ miệng người nọ truyền qua miệng người kia. Ai cũng mong ngày 1 Gác lớn mà các nhà Hà Nội thời xưa thường có. Sở dĩ gọi là gác tẩu mã, vì nó rộng và dài, như có thể cho ngựa chạy trên đó được. 40

41 khai trường để xem nghĩa thục đầu tiên của nước nhà ra sao. Người ta bàn tán nhất về các vị giáo sư mà hầu hết là những danh sĩ tâm huyết, người thì tú tài, cử nhân; mà không thèm áo mão cân đai, kẻ thì văn hay chữ tốt mà chê cái vui bảng hổ danh đề. Người ta thì thầm với nhau: - Các ông ấy muốn tính đại sự đấy. Phần đông thán phục nhưng cũng có một số chê là bất trí: - Nhà nước làm còn chả xong, các ông ấy mà làm cái gì được? Nhiều nhà đã xin với các giáo sư cho em lại học mà trường vẫn chưa được phép. Đợi lâu quá, một người trong phái tân học bàn với cụ Lương: - Theo lệ Tây, không cho phép mà cũng không bác bỏ, tức thị là mặc hứa. Mà chủ trương của chúng ta chính đại quang minh, họ khó bề từ chối. Vậy chúng ta có thể mở lớp ngay trước, nhưng hãy dạy Quốc ngữ thôi, kẻo nhiều người mong đợi quá. Quốc ngữ là lợi khí thứ nhất để khai dân trí, vả lại dạy môn đó không đụng chạm gì tới ai, người Pháp không có lý gì để cấm ta. Đề nghị ấy được nhiều người tán thành. Người đó lại tiếp: - Ta nên mở ngay hai lớp, một lớp cho phe nam, một lớp cho phe nữ. Xin mượn gác nhà cụ làm lớp học. Duy có điều khó là ai dạy ban nữ được bây giờ đây. Đợi một lúc lâu, không thấy ai trả lời, Lương Trúc Đàm đứng lên nói: - Nếu không tìm được ai dạy thì tôi xin cử em Năm tôi. Cô ấy biết Quốc ngữ, tôi tưởng dạy tạm lúc đầu cũng được. Nhiều người cười: - Được vậy thì may lắm. Trong nhà cụ thực không còn thiếu chức gì nữa, thục trưởng, rồi nam giáo viên, lại nữ giáo viên. 41

42 Ít bữa sau, (tháng ba d.l.), trong ngôi nhà số 4 phố Hàng Đào đã có hai lớp học: một nam, một nữ; học sinh cộng được sáu bảy chục, phần đông là con cháu hội viên. Thời đó mở lớp cho nữ sinh như vậy quả là một cải cách lớn: các cụ chẳng những muốn bài trừ tư tưởng nam tôn nữ ti của cổ nhân, mà còn muốn cho phụ nữ phải đóng một vai trò trong xã hội, tạo cho họ một nhân sinh quan mới, một lối sống mới. Vì chưa đóng kịp bàn ghế riêng cho học sinh, trường đành dùng tạm án thư, tràng kỷ, đôn. Cụ Lương Trúc Đàm dạy bên nam, cô Năm dạy bên nữ. Những cái đầu để chỏm ở giữa hoặc hai trái đào hai bên, chen với những mớ tóc đen nhánh quấn trong vành khăn nhiễu tam giang, phất phơ chiếc đuôi gà. Hết thảy đều cặm cụi, bặm môi tô những chữ a, chữ o, chữ e trên giấy. Vài tháng sau, vào đầu hè năm Đinh mùi (tháng 5 d.l.1907) giấy phép tới. Tức thì trường khuếch trương lớn. 42

43 CHƯƠNG IV KHAI TRÍ DẠY HỌC Suốt thân sĩ ba kỳ Nam Bắc, Bỗng giật mình, sực thức cơn mê. Năm 1907 là năm phong trào duy tân lên mạnh nhất. Sau này cụ Tây Hồ nhớ lại thời đó, nói với một đồng chí: - Chúng mình lúc ấy như bọn người ngủ mê, sực tỉnh dậy, thấy ai làm cái gì thì làm ngay cái đó, làm hăng quá, cơ hồ như trong mắt không còn có người Pháp nữa. Ta cứ xét công việc của hội viên trong Nghĩa thục thì biết lời đó rất đúng. Mục tiêu chính của trường là khai trí. Từ khi có phép của phủ Thống sứ, số học sinh tăng lên nhiều nhưng cũng không được như lời cụ Nguyễn Quyền nói với Đào Trinh Nhất 1 là bốn chục lớp và trên ngàn học sinh, mà chỉ được độ già nửa số đó. Muốn mở cả ba ban: tiểu, trung và đại học, trường phải mướn thêm nhà ông Cống Sùng. Tuy chia ra ba ban như vậy, nhưng sự thực chương trình không được hoạch định rõ ràng. Đại loại, tiểu học để dạy những người mới học quốc ngữ, trung học và đại học dạy những người lớn đã thông chữ Hán hoặc muốn học chữ Pháp. Các môn học thì có sử ký, địa lý của nước nhà, toán học, vẽ, một chút khoa học. Không chia ra từng năm học như ngày nay, cứ tùy 1 Đông Kinh nghĩa thục - Đào Trinh Nhất - Mai Lĩnh

44 trình độ hiểu biết của học sinh mà sắp thành từng lớp, trong một lớp tuổi học sinh cũng không đều. Lớp truyền bá quốc ngữ của ta ngày nay ra sao thì những lớp trong Đông Kinh nghĩa thục hồi xưa cũng gần gần như vậy. Lối dạy cốt đào tạo những người có sáng kiến, có óc thực tế ngược hẳn với lối huấn hỗ, lối Tử viết, Thi vân, bảo thủ của nhà Nho. Đoạn dưới đây trích trong Văn minh tân học sách (một bài nghị luận viết bằng chữ Hán năm 1904, không rõ của ai), có thể tóm tắt được đường lối của Nghĩa thục: Tưởng nên đón thầy giỏi, mua đồ mẫu, chọn người khéo tay, nhanh trí khôn để cho vào học, rồi triều đình thường săn sóc mà dạy dỗ họ. Lại hạ lệnh khắp nước hễ ai học được kiểu mới, chế được đồ mới thì cũng theo lối Âu châu cấp cho bằng khen làm lưu chiểu, thưởng cho phẩm hàm để ngợi khen họ, cấp lương bổng để khen thưởng họ, cho giữ quyền sáng tạo để hậu đãi họ. Những ai giỏi về khoa cách tự, khí học, hóa học thì làm cho họ được vẻ vang sang trọng hơn những người đỗ đại khoa... 1 Muốn đào tạo hạng người như vậy, lối thi cử tất phải khác trước:...cho phép học trò bàn bạc tha hồ, đối đáp tự do, không phải nề hà. Không cần thể cách gì hết. Rồi thêm vào đó, mấy bài về toán pháp, về chữ quốc ngữ, để cho cái mà học sinh học và thi không trái với công việc thực tế họ phải làm, như thế thì cũng đã là tàm tạm đúng vậy. Tư tưởng thực là cách mạng. Ngày nay, ở khắp thế giới, chưa chắc đã có nước nào theo đúng được như vậy, còn riêng ở nước ta thì mặc dầu sau bao nhiêu lần hô hào cách mạng này cách mạng nọ, tinh thần tôn sùng bằng cấp đại khoa vẫn y như thời cũ, thời mà Nghĩa thục mạt sát. 1 Bản dịch của Đặng Thái Mai. Tôi cho in ngả - Đoạn sau cũng vậy. 44

45 * * * Phần Hán văn giao cho cụ Kép 1 làng Hương Canh, các cụ Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Quyền, Lương Trúc Đàm 2 ; cụ Đào Nguyên Phổ tuy không dạy nhưng thường góp ý kiến. Lối văn khoa cử bỏ hẳn, Tứ thư, Ngũ kinh vẫn còn giảng, nhưng giảng theo một tinh thần mới, những sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu được đem ra bàn nhiều nhất. Dưới đây tôi xin giới thiệu qua hai cụ Đào và Dương, còn các cụ khác, sau sẽ có dịp nhắc tới. Cụ Dương Bá Trạc là con một cụ đồ ở làng Phú Thị (Hưng Yên), anh cụ Dương Quảng Hàm, rất thông minh, mau nhớ, môn đệ của cụ Đinh Gia Trăn, văn tài rất mẫn tiệp sở trường về kinh nghĩa, 17 tuổi đậu cử nhân, nhưng cũng như Lương Khải Siêu nhận ngay thấy những cái hủ bại của cổ học, nên hô hào cái học thực nghiệp để cứu quốc. Gặp bạn nào còn ham tập văn khoa cử, cụ cũng bảo: Anh còn muốn cái cử nhân ư? Này, tôi bán cho anh, một xu thôi. Cụ cũng làm nhiều thơ hô hào quốc dân, hiện nay chúng tôi mới tìm được bài: 1 Đậu hai lần Tú tài thì gọi là Kép. 2 Theo Chính Tâm, Phan Khôi cũng đã từng dạy Hán văn ở Đông Kinh nghĩa thục. Trong bài Người phu đại ngàn, tác giả viết: Từ năm 1908, khi những yếu nhân của phong trào Duy Tân ở Quảng Nam cử Phan Khôi và các đồng chí của ông ra trường ở Hà Nội dạy chữ Hán và học tiếng Pháp, thì ông bắt đầu viết báo cho tờ Đông Cổ Tùng Báo của trường này. (Tạp chí Kiến thức ngày nay số 797, ngày , trang 101). (Goldfish). 45

46 VÌ SAO GIẬN ĐỜI... Ôi những kẻ dân ta nghèo đói, Có biết rằng nông nỗi bởi ai. Cả năm đòn gánh trên vai, Mồ hôi nước nắt không tài kiếm ra. Nào lĩnh phái các tòa các sở, Nào thu tiền các chợ các ti Mấy lần thuế lại thuế đi, Kiếm không đủ thuế lấy gì mà ăn? Con với vợ mặt nhăn vì đói, Mà thuế sưu cứ trói lấy tiền.... Cụ Đào Nguyên Phổ, lúc đó làm chủ bút tờ Đại Việt tân báo, là người rất có chí khí. Cụ lỡ mắc tật nghiện thuốc phiện, gặp phong trào mới, cụ khảng khái nói: - Ai cũng biết duy tân, sao tôi còn thủ cựu, chẳng khiếp nhược lắm ư? Rồi cụ đập bàn đèn. Thuốc phiện hành cụ dữ, cụ đau ốm cả tháng. Nhiều người ái ngại cho cụ, khuyên cụ hút lại, cụ giận: - Tử sinh hữu mạng. Con đĩ phù dung dám làm ma bắt tôi sao? Ngừng một chút, cụ rầu rầu nét mặt, giọng rất cảm động: - Tôi chỉ vì lúc nhỏ đậu sớm 1, nên đâm ra chơi bời hút xách, rượu chè đủ tật. Cổ nhân nói: thiếu niên cao khoa, nhất bất hạnh dã 2 thật đúng vậy tuổi, cụ đậu cử nhân, vì người bé nhỏ, người nhà phải lên gấu áo thụng cho khỏi quét đất. Sau cụ đậu đình nguyên. Cụ quê ở Thái Bình. 2 Nhỏ tuổi mà đậu cao là một điều bất hạnh. Lời của Trình Y Xuyên đời Tống chép trong cuốn Lã Thị Đồng mông huấn. 46

47 Cụ nghỉ để lấy hơi - lúc đó cụ đau nặng, bạn bè tới thăm đông - rồi nhìn cụ Lương Văn Can tiếp: - Các ông gắng hô hào bỏ được lối học cử nghiệp đi và giúp thanh niên xuất dương du học, sau tất ích quốc. Tiếc rằng tôi già rồi sợ không thấy được ngày thành công. Nói xong cụ ôm mặt khóc, cụ Lương cũng sa lệ. Một lát sau, cụ lại hổn hển dặn dò cụ Lương: - Tôi còn thằng nhỏ này - cụ chỉ Đào Trinh Nhất - tư chất nó cũng được, xin ông chỉ bảo dùm nó cho tôi. Do đó, Đào Trinh Nhất thành một học sinh của trường và sau cưới một người cháu cụ Lương. * * * Phần Việt văn và Pháp văn do sáu bảy nhà tân học đảm nhận: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Trần Đình Đức, Bùi Đình Tá, Phạm Đình Đối... Cụ Trần Đình Đức, một nhân viên sở Địa lý lãnh môn dạy vẽ. Chính cụ vẽ cho trường một bản đồ Việt Nam bằng vải trắng, cao độ thước rưỡi, ghi rõ tên núi, sông, châu thành, thổ sản... bằng chữ Hán và chữ Việt. Chẳng những học sinh mà ngay tới các giáo sư nhà nho cũng trầm trồ khen ngợi, đứng nhìn hoài rồi về nhà khoe với bà con, bè bạn: - Hôm nay mình mới được biết rõ non sông của tổ tiên. Đây này - vừa nói, vừa chấm ngón tay vào một chén nước vẽ lên mặt án thư - đây này, bờ biển cong cong như hình chữ S, này Bắc, này Trung, này Nam, Tam Đảo là đây, Hồng Lĩnh là đây, Bạch Đằng Giang đại phá quân Nguyên ở đây, Trường sơn nhất đái, vạn đại dung thân của nhà Nguyễn ở đây, và cái mũi nhọn ở phía Nam này là hạ du sông Cửu Long đấy, nơi mà xưa là của Miên, nay là của mình, nơi mà lúa chất thành núi, cá lội đầy sông... Cái ông giáo Đức ấy có 47

48 công với nghĩa thục quá, vẽ tuyệt khéo, thật là có hoa tay. Muốn coi không, hôm nào tôi dắt lại? Cụ Phạm Đình Đối nhận môn toán. Cụ rất có khiếu môn ấy, tự học môn hình học trong cuốn Kỷ hà tắc cổ 1 của Trung Hoa dịch trong sách Anh. Gặp nhà nho nào còn trẻ, cụ cũng khuyên: - Toán dễ học lắm ông ạ. Thông minh như các ông thì chỉ sáu tháng là giỏi. Cái học của người Tây minh bạch và thiết thực khác cái học của mình xa quá. Tôi mò một mình còn ra, huống hồ là các ông được tôi chỉ bảo cho. Mà môn học đó ích lợi lắm ông ạ: muốn đạc điền phải dùng nó, muốn cất nhà, xây cầu phải dùng tới nó. Để tôi chỉ ông coi... Nhưng hầu hết các nhà nho chiều lòng mà coi qua loa chứ vẫn không thích. Cái nọc độc thơ phú đã nhiễm từ sáu bảy thế kỷ rồi mà. Sau khi Nghĩa thục bị đóng cửa, cụ Phạm Đình Đối theo cụ Nguyễn Hải Thần qua Trung Quốc, thi đậu vào trường Đại học Canh nông Nam Kinh, rồi mất tin. Pháp văn chỉ dạy buổi tối vì các giáo sư hầu hết là công chức. Ai muốn học, phải đóng mỗi tháng năm hào (bên Việt và Hán thì miễn phí). Có hội viên phản đối, cho như vậy không đúng với tên là Nghĩa thục, nhưng phản đông đều tán thành vì quỹ của trường còn eo hẹp, mà những người muốn học Pháp văn đều đủ sức trả học phí. 1 Hình học, người Trung Hoa gọi là Kỷ hà học, mới đầu ta bắt chước họ, gần đây mới đổi là Hình học. Hồi đó Bắc Việt còn một người nữa, cụ Hàn Toản cũng có khiếu về Khoa học, tự học mà chế được một chiếc tàu thủy nhỏ, dài độ năm tấc, đủ bộ phận,chạy bằng dầu lửa trên một bể nước. Chiếc tàu ấy đem tiến trình vua Thành Thái và triều đình ân tứ cho cụ chức Hàn lâm nên cụ có tên là Hàn Toản. Tiếc thay triều đình chỉ thưởng cụ như vậy mà không giúp cụ qua nước ngoài học thêm. Khi Nghĩa thục mở, cụ đã trên lục tuần nên không dạy giúp được. 48

49 Do đề nghị của cụ Nguyễn Văn Vĩnh, trường lập một sân thể dục tại hoa viên, cũng sắm được vài quả tạ, dựng được vài cây cột leo. Các nhà tân học lãnh dạy môn đó, nhưng giáo sư đã không thạo mà học sinh cũng không ham, rốt cuộc môn thể dục hữu danh mà vô thực. Giáo sư dạy đều không công, ai bận công việc, không tiện về nhà thì ở lại trường ăn bữa trưa với một số học sinh bán ký túc. Riêng khoản đó, cũng là một món chi phí lớn cho trường rồi. Các giáo sư tân học dạy có lẽ hơi có phương pháp, còn các nhà nho thì cứ tùy hứng, có chương trình hàng tháng hàng năm gì đâu, mà cũng chẳng thi cử gì cả, nên ai muốn giảng gì thì giảng. Chẳng hạn, giảng về câu Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương 1 trong Hiếu kinh, thì các cụ cao thanh chỉ trích lối giải thích kinh, thư một cách câu nệ: - Đức Khổng nói vậy thì ta phải hiểu là hồi nhỏ không nên chơi dao, leo cao cho ngã mà sinh ra vết tích, lớn lên thì đừng làm việc sái phép cho bị hình phạt; còn những chất dơ, chứa thừa trong mình bài tiết ra, như tóc như móng tay mà cũng không cắt nữa, để làm cái tổ chấy, cái chỗ chứa ghét, thì không phải là hiếu, mà là ngu, chí ngu. Anh em nghĩ tôi nói phải không? Cả lớp cười rộ lên, rồi các cụ thao thao bất tuyệt chê cái tục để búi tóc củ hành, đề móng tay lá lan, và liên tưởng tới những hủ tục khác như nhuộm răng, chọn những ngày tốt để tắm vân vân... Cứ như vậy ý nọ gợi ý kia, rốt cuộc tới cuối giờ, có lẽ các cụ quên hẳn đầu giờ đã nói những gì nữa. 1 Hiếu kinh: Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chí thủy giã. (Thân thể tóc da bẩm thụ ở cha mẹ, không dám làm hủy hoại, tổn thương, đó là sự bắt đầu của đạo hiếu.) ( (Goldfish). 49

50 Hoặc trong giờ Việt sử, muốn dạy về đời Trần, mới mở một cuốn sách cổ ra, thấy có hai chữ thiên triều để chỉ Trung Hoa, thì một cụ giận dữ lấy bút chấm mực bôi kín hai chữ đó rồi thuyết một thôi một hồi về tinh thần tự cao của Trung Quốc và tinh thần tự ti của mình, rồi vạch cái nhục bị liệt cường xâu xé của nhà Thanh, tán dương chí cương quyết, óc sáng suốt của người Nhật, và lần lần cụ không đoái tưởng gì tới nhà Trần nữa mà vui miệng kể lại tỉ mỉ trận Nga Nhật, cuộc đại chiến trên eo biển Đối Mã, để rồi kết luận rằng ta phải bỏ cái tinh thần tự ti đối với Trung Hoa, mà cũng đừng nên có cái thói tự cao mù quáng như họ, chê Âu Tây là mọi rợ, chỉ mình mới văn minh (nội hạ, ngoại di). Tóm lại mỗi giờ học trong các ban Trung học và Đại học gần như một cuộc diễn thuyết, bài làm chắc các cụ ít khi ra mà bài học cũng ít khi bắt trả. Lối dạy học đó không hợp khoa sư phạm chút nào, nhưng có lẽ hợp với thời đó nhất, với mục đích của trường nhất, vì các cụ không cần đào tạo các ông tú, ông cử, ông phán, ông thông, mà chỉ muốn mở cái óc mê muội, muốn gõ những tiếng chuông duy tân, muốn gây một thế hệ cách mạng trong quần chúng. Bách niên chi kế mạc như thụ nhân, các cụ muốn làm cái việc thụ nhân đó để lo cái kế bách niên kia. Chính nhờ vậy mà học sinh mới hăng hái nghe và phong trào mới có ảnh hưởng lớn. 50

51 CHƯƠNG V SOẠN SÁCH VÀ BÀI CA Cái hồn ái quốc gọi về cũng mau. Muốn truyền bá tư tưởng mới, tất nhiên không thề dùng các sách cũ, trường phải soạn lấy sách, nên lập ra một ban Tu thư chia làm hai ngành: ngành soạn giao cho các cụ Phạm Tư Trực (Thủ khoa, người làng Hành Thiện), Dương Bá Trạc 1, Lương Trúc Đàm, Phương Sơn và ngành dịch giao cho các cụ: Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục, ông cử làng Đông Tác, Hoàng Tích Phụng 2. Chương trình hoạt động và tổ chức phân công chưa được vạch rõ. Đại loại giáo sư dạy môn nào thường phải soạn bài cho môn đó, mỗi bài dài độ vài trang và xét về một vấn đề. Dù viết bằng Hán văn hay Việt văn, các cụ vẫn theo thể biền ngẫu, trừ một số đọc nhiều tân thư thì dùng thể nửa biền nửa tản 3, thể sở trường của Lương Khải Siêu. Nội dung bài nào cũng hô hào lòng ái quốc, chí tự cường và tinh thần duy tân. Những sách được dịch đầu tiên là những tân thư của Trung Hoa, như bộ Trung quốc tân giáo khoa thư. Hai cụ Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Đôn Phục, nhờ rảnh việc dịch mà luyện được cây bút, sau thành những nhà văn sắc sảo trong nhóm Nam Phong. 1 Từ khi qua ban Tu thư, cụ Dương thôi dạy học. 2 Thân phụ của Hoàng Tích Chu, một ký giả có danh tiếng lớp trước. 3 Trong một bài có đoạn, có câu đối nhau, bằng trắc du dương, lại có đoạn có câu thì viết theo lối tản văn như bây giờ. 51

52 Cụ Phạm Tư Trực chỉ giúp việc trong ít tháng và bị phủ Thống sứ vời làm trưởng ban Tu thư Bắc Việt. Cụ không từ chối được, đành lãnh soạn những sách chữ Hán 1. Mới viết đoạn đầu về Việt sử, cụ hạ ngay những câu này: Ngô chủng bản phi di, Ngô tộc diệc phi ti. Bạch Đằng phá Nguyên binh, Chi Lăng tẩu Minh si 2 Phụ xà giảo gia kê, Tích nhân sở thâm bỉ. Giống ta chẳng phải mọi, Dòng ta chẳng nhát hèn. Bạch Đằng phá quân Nguyên, Chi Lăng đuổi tướng Minh, Cõng rắn cắn gà nhà, Người xưa rất khinh bỉ. Nhờ hai câu cuối, cụ được Pháp cho về nghỉ. Cụ không trở lại dạy ở nghĩa thục, sợ họ để ý. Sách soạn xong, giao cho một ban khác và in ra hằng trăm bản để phát không cho học sinh và các đồng chí ở khắp nơi. Đào Trinh Nhất nói trường có máy in. Nếu có thì cũng không phải những máy đạp chân hay chạy điện in sách in báo bây giờ, mà chỉ là những dụng cụ thô sơ để khắc tay, phết mực rồi đặt giấy lên. Về sau hình như cụ Trần Đình Đức chỉ cách dùng hoạt bản, nghĩa là khắc rời những chữ cái rồi ghép lại thành bài như hồi mới đầu thì các bài học đều in bằng xu xoa (rau câu). 1 Cụ Trần Văn Khánh em cụ Trần Văn Thông cũng ở ban đó, chuyên soạn sách Việt. 2 Chữ sư đọc là si cho có vần. 52

53 * * * Sách của trường soạn hiện nay không còn di tích 1, nhưng các bài ca thì còn được truyền lại ít nhiều, vài bài có sức cổ động quần chúng mãnh liệt. Tân đính luân lý giáo khoa (thư) ( Người có tài đặt ca nôm nhất là cụ Lê Đại, hiệu là Từ Long người làng Thịnh Hào, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông ( ). Cụ là môn đệ Vũ Phạm Hàm, văn hai thầy trò cũng tươi đẹp, tình tứ như nhau. Có lần cụ được thầy vời lại, bảo: 1 Về sách chữ Hán, các thư viện ở Hà Nội còn lưu giữ các cuốn sau: Văn minh tân học sách, Quốc dân độc bản, Nam quốc địa dư, Cải lương mông học quốc sử giáo khoa thư và Tân đính luân lý giáo khoa thư. (Theo Năm 1995, Cục Lưu Trữ Nhà nước Việt Nam cùng Viện Viễn Đông Bác Cổ và nhà xuất bản Văn hoá đã in sách Văn thơ, trong đó có 3 tài liệu quan trọng là Tân đính Luân lý giáo khoa thư, Quốc dân Độc bản và Quốc dân Tập độc, viết bằng chữ Hán, được dịch ra tiếng Việt và Pháp). (Theo Wikipedia). (Goldfish). 53

54 - Đêm qua, thầy mộng thấy anh bận áo lam lại chào thầy. Khoa sau chắc anh đậu. Tài anh là tài thám, bảng. Từ đó cụ đổi tên là Mộng Lam, nhưng thi hoài vẫn rớt hoài, chỉ vì cụ có tật làm văn chậm lắm, nên khoa nào cũng bị ngoại hàm. Để cho cụ đủ thì giờ gọt đẽo thì đã mấy ai hơn cụ được? Hồi nghĩa thục mới mở, cuốn Hải ngoại huyết thư của cụ Sào Nam đã lưu hành khắp nước 1. Nhiều người dịch ra lục bát hoặc song thất lục bát, bản dịch của cụ Lê Đại được thuộc nhiều hơn cả, có những câu dẫn: Lời huyết lệ gởi về trong nước, Kể tháng ngày chưa được bao lâu. Liếc xem phong cảnh năm châu, Gió mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ. Phần đầu (Sơ biên) vạch trần lòng thâm hiểm của thực dân: Nó coi mình như trâu như chó, Nó coi mình như cỏ như rơm. Trâu nuôi béo, cỏ bỏ rờm. Cỏ moi rễ cỏ, trâu làm thịt trâu. Phần sau (Tục biên) kể những nguyên nhân mất nước, tâm trạng bỉ ổi của bọn quan lại vong bản: Ngày mong mỏi vài con ấm tử, Đêm vui chơi một lũ hầu non. Trang hoàng gác tía đài son. Đã hao mạch nước lại mòn xương dân. 2 Lịch can huyết dĩ điều canh, đế thiên diệc giám. Chú tinh thành ư nhất tiễn, kim thạch năng khai. 1 Nhiều câu trong cuốn đó, được nhà nho đương thời thuộc lòng. 2 Chúng tôi chưa tra được nguyên văn chữ Hán của những đoạn đó. 54

55 Hoặc: Tứ thiên niên phụ mẫu chi bang, hồn hề quy tá? Sổ vạn lý bô đào chi khách, mộng lý thê nhiên! Dịch: Vắt gan huyết để nấu canh, trời cao cũng biết, Đúc tinh thành vào tên nhọn, đá vàng phải xuyên. Bốn ngàn năm trước của tổ tiên, về chưa hồn hỡi? Mấy vạn dặm bôn đào đất khách, giấc mộng buồn thay. Xét theo văn biền ngẫu thì những câu này rất hay, hai câu trên hùng hồn, hai câu dưới lâm ly. Rồi hô hào toàn dân đồng tâm, bất hợp tác với thực dân, như Gandhi sau này hộ hào dân Ấn Độ. Cụ Sào Nam chưa nghiên cứu kỹ chiến thuật bất hợp tác như Gandhi, nhưng giọng của cụ thực cảm động: Hai mươi triệu đồng bào đua sức, Năm mươi nghìn giống khác được bao; Cùng nhau bên ít bên nhiều, Lọ là gươm sắc súng kêu mới là. Cốt trong nước người ta một bụng, Nghìn muôn người cùng giống một người, Phòng khi sưu thuế đến nơi, Bảo nhau không đóng, nó đòi được chăng? Gọi đến lính không thằng nào chịu Bắt một người, ta kéo muôn người, Bấy giờ có lẽ giết ai, Hẳn thôi nó cũng chịu lui nước mình. Những lời nhắc nhở đồng tâm lặp đi lặp lại như một điệp khúc: Thương ôi! Trăm sự tại người, Chữ đồng ai dám ngăn rời chữ tâm? 55

56 ... Người trong cho đến người ngoài Chữ tâm cốt phải ai ai cũng đồng.... Gió nhanh thì sóng cũng mau, Chữ tâm một chút đâu đâu cũng đồng.... Hòn máu uất chất quanh đầy ruột, Anh em ơi! xin tuốt gươm ra, Có giời có đất có ta, Đồng tâm như thế mới là đồng tâm! Ta nhận thấy cụ khác hẳn Gandhi, bất hợp tác chứ không bất bạo động. Cụ không thuộc trong phái bạo động, chỉ vì mấy vẩn thơ đó mà chính phủ Pháp căm hờn, đầy cụ ra Côn Đảo trên mười lăm năm ( ), còn các cụ Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc, Võ Hoành chỉ bị khoảng một năm. Cái họa của văn tự! Theo Đào Trinh Nhất, cụ Nguyễn Quyền ( người làng Thượng Trì - Bắc Ninh đậu Tú tài, làm huấn đạo Lạng Sơn) cũng soạn một bài có tính cách ái quốc, giọng lưu loát, tức bài: CẮT TÓC Phen này cắt tóc đi tu, Tụng kinh Độc lập ở chùa Duy tân. Đêm ngày khấn vái chuyên cần, Cầu cho ích ước lợi dân mới là. Cốt tu sao cho mở trí dân nhà, Tu sao độ được nước ta phú cường. Lòng thành thắp một tuần nhang, Nam mô Phật tổ Hồng Bàng chứng minh. Tu hành một dạ đinh ninh, 56

57 Nắng mưa dám quản, công trình một hai. Chắp tay lạy chín phương trời, Kêu trời phù hộ cho người nước tôi. Tiểu tôi trông đứng trong ngồi Trông sao cho đặng giống nòi vẻ vang. Nào là tín nữ thiện nam, Nào là con cái thập phương giúp cùng. Giúp tôi đúc quả chuông đồng, Đúc thành quả phúc, ta cùng hưởng chung. Ai muốn tu xin dốc một lòng, Nghìn thu tạc một chữ đồng đến xương. Nam mô Phật tổ Hồng Bàng. Cụ còn có bài Chiêu hồn nước, nhưng bài này không được truyền rộng bằng bài Chiêu hồn nước của Phạm Tất Đắc sau này. 1 Bài dưới đây, chưa biết rõ là của một giáo sư trong Nghĩa thục hay của cụ Sào Nam, chúng tôi cũng chép lại để tồn nghi. 2 Á TẾ Á Ngồi mà ngẫm thêm sầu lại tủi, Nước Nam ta gặp buổi truân chiên, Dã man quen thói ngu hèn, Nhật Bản Minh Trị dĩ tiền khác đâu? Tự giống khác mượn màu bảo hộ, 1 Đề tài chiêu hồn nước thời đó được các nhà ái quốc ưa dùng trong thi ca: ngoài hai bài đó, còn Hồn cố quốc (khuyết danh), Tỉnh quốc hồn của Phan Chu Trinh. Có lẽ đó là một đặc điểm của thơ ái quốc Việt Nam. Không rõ các cụ có chịu ảnh hưởng của Khuất Nguyên không, mà bài nào cũng ai oán như Chiêu hồn của Khuất Nguyên. 2 Người đọc cho tôi chép bài này có thể nhớ sai, nếu không thì giọng văn còn có chỗ non, chưa chắc là của cụ Sào Nam. Có thuyết bảo là của cụ Nguyễn Thiện Thuật, lại có thuyết bảo là của cụ Nguyễn Thượng Hiền mà chỉ là một đoạn giữa rất ngắn thiếu đầu và đuôi. 57

58 Mưu hùm thiêng lo lũ cáo già, Non sông thẹn với nước nhà, Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu. Nỗi diệt chủng vừa thương vừa sợ, Nòi giống ta chắc có còn không? Nói ra, ai chẳng đau lòng, Cha con tủi nhục, vợ chồng thở than. Cũng có lúc căm gan tím ruột, Vạch trời cao mà tuốt gươm ra. Cũng xương, cũng thịt, cũng da, Cũng hòn máu đỏ con nhà Lạc Long. Thế mà chịu trong vòng giam buộc, Bốn mươi năm nhơ nhuốc lầm than. Thương ôi! Bách Việt giang san, Văn minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa. Hồn mê mẩn, tỉnh chưa, chưa tỉnh? Anh em ta phải tính nhường sao? 1 Chúng tôi xin giới thiệu thêm hai bài ca khuyết danh cho phụ nữ học, mà tôi cho rằng đã mở đường cho những bài hát Anh Khóa sau này của cụ Trần Tuấn Khải, mặc dù thể thơ khác nhau: VỢ KHUYÊN CHỒNG Tình thân ái là tình trong phu phụ, Nợ anh hùng là nợ cũ non sông! Nghĩ nguồn cơn, ngán với Âu phong 2 Tưởng nông nỗi than cùng Á vũ. 3 Ai lăn lóc chen trong đài múa 1 Chắc tới đây chưa hết. 2 Nghĩa là gió Âu mưa Á, tức biến chuyển dữ dội ở châu Âu, châu Á. 3 Giống như trên. 58

59 Trò diễn ra: nào hiểm, nào ác, nào hoan nào lạc, nào tráng nào bi. Nực cười thay! Mây nước tới kỳ, Kìa hiệp nữ, nọ kiện nhi đâu máu lạnh? Tỉ diện, Cách mi quân đối kính, 1 Qua tình, La tứ thiếp lâm trang. 2 Thiếp tôi đây, đâu có nhi nữ chi thường, Anh tai mắt, mong nở nang trong vũ trụ. Đường ưu thắng, anh thênh thang vó ngựa, Gánh văn minh, em sớn sở lưng ong. Đôi ta vợ vợ chồng chồng, Nước non nhẹ gót tang bồng này chăng? Xem trong phu phụ ai bằng! Hai câu mở đột ngột, bi mà hùng. Điệu hát nói của ta thường chỉ để diễn cái vui hưởng nhàn, ít có bài nào cổ động quốc dân mà giọng thiết tha như bài này. KHUYÊN CON Mẫu dĩ tử quí 3 Con ra người thì mẹ đặng tiếng khen. Thôi thôi đừng bạc trắng lòng đen, 4 Tham danh lợi nỡ quên người một giống. Xưa mẹ ông Vũ Mục 1 khuyên con giúp Tống, 1 Soi gương chàng không thẹn với mặt Tỉ Tư Mạch (Bismark, nhà chính trị thống nhất nước Đức, sau khi thắng Nã Phá Luân đệ tam) và (lông) mày Cách Lan Tư Đốn (Gladstone, nhà chính trị Anh đã duy trì được địa vị bá chủ của Anh ở cuối thế kỷ trước) 2 Tô điểm thiếp không thẹn với Qua Đặc (Jeanne D'Arc, nữ anh hùng Pháp, lãnh đạo nhân dân chống quân Anh) và La Lan phu nhân (Madame Roland), nhà nữ Cách mạng Pháp sau cuộc cách mạng Mẹ vì con mà được quí, nghĩa là con được vinh hiển, được tiếng thơm thì mẹ cũng được hưởng lây. 4 Đồng bạc trắng làm mờ ám lòng người. 59

60 Chữ tận trung báo quốc để ngàn thu. Khuyên con đừng nhẫn sỉ sự thù, 2 Ngàn muôn kiếp ai khen đâu Phùng Đạo? 3 Thân trâu ngựa mà cân đai áo mão, Vẻ vang này mẹ nghĩ càng đau! Này này, học chữ để đâu? * * * Ngoài những bài ca ái quốc ra, còn nhiều bài có tính cách khai trí, như khuyên canh nông, khuyên công nghệ, khuyên thương mại, dạy Sử ký, Địa lý..., đều dùng những thể bình dân như lục bát, song thất, vè.. Các cụ đã chống lại quan niệm lạc hậu nôm na là cha mách qué mà đề cao Việt ngữ: Phàm người trong nước đi học nên lấy chữ quốc ngữ làm phương tiện đầu tiên để cho trong thời gian vài tháng đàn bà con trẻ cũng đều biết chữ và người ta có thể dùng chữ quốc ngữ để ghi việc đời xưa và chép việc đời nay (.) Đó thực là bước đầu tiên trong việc mở mang trí khôn vậy. (Văn minh tân học sách) Các cụ một mặt khai thác vốn cũ của dân tộc, một mặt tiếp thu văn hóa phương Tây, mà dùng tiếng mẹ để làm chuyển ngữ. Chữ Tàu dịch lấy chữ ta. Chữ Tây cũng phải dịch ta chữ mình. 1 Vũ Mục tức Nhạc Phi, danh tướng đời Tống, hồi trẻ, mẹ xâm vào lưng bốn chữ: tận trung báo quốc. 2 Chịu nhục mà thờ kẻ thù. 3 Phùng Đạo là một gian thần đời Ngũ Đại, trải bốn triều đại, thờ 13 vua. Nước ta lúc này cũng không thiếu gì kẻ thờ liên tiếp bốn năm triều đại. 60

61 Ngày nay, cách các cụ đã sáu mươi năm - ba thế hệ - mà một bọn trí thức, giáo sư Đại học, vì quyền lợi, mạt sát tiếng Việt, ngăn cản sự phát triển của tiếng Việt, đọc tiểu sử của các cụ không biết có lấy làm thẹn không? Các cụ liệng bỏ cái tiến sĩ, phó bảng, cử nhân, hòa mình với dân chúng để dắt dẫn dân chúng còn họ thì cầu cạnh chức thạc sĩ hay tiến sĩ, lấy làm vinh dự rằng được ngoại nhân gọi là những đứa con tinh thần, rồi cố bám lấy địa vị để duy trì chính sách thực dân của bọn cha mẹ tinh thần, làm hại dân hại nước, điêu đứng cho cả một thế hệ thanh niên. Dưới đây chúng tôi xin trích đoạn đầu trong bài ca Địa lý do vài ba cụ hợp tác: Năm châu quanh mặt địa cầu, Á châu thứ nhất, Mỹ châu thứ nhì. Châu Âu, châu Úc, châu Phi. Mỗi châu mỗi giống sắc chia rành rành. Giống vàng, giống trắng tinh anh, Giống đen, giống đỏ, giống xanh (?) ngu hèn. Cuộc đời là cuộc đua chen, Giống khôn thì sống, giống hèn thì sa. 1 Lạc Hồng là tổ nước ta, Nước non từ trước gọi là Đại Nam Lịch niên hơn bốn ngàn năm Hoàng dân phỏng độ bốn trăm ức nguời. 2 Song có ảnh hưởng lớn nhất đến thời cuộc, làm cho người Pháp căm gan nhất, là bài Thiết tiền ca của cụ Nguyễn Phan Lăng, biệt hiệu là Đoàn Xuyên. 1 Sa là sa sút. 2 Thực ra lúc đó chỉ non hai trăm ức, nhưng các cụ thường phóng đại cho quốc dân tin ở sự hùng cường của nước nhà: một lối tuyên truyền! 61

62 Cụ không phải là hội viên của Nghĩa thục. Một hôm các giáo sư đương họp ở phòng Tu thư thì thấy một thầy đồ nghèo, đen đúa, mặt rỗ, tay cầm chiếc nón tróc hết sơn, chân đi đôi dép quai ngang, bận chiếc áo dài vải đen và chiếc quần trắng vải thô, khép nép bước vào, lễ phép chào mọi người. Không ai để ý tới, tưởng là người đến xin sách; sau một hội viên mời ngồi, hỏi chuyện. Thầy đồ vén áo ghé ngồi trên một chiếc đôn rồi móc túi lấy ra một tờ giấy đặc chữ nôm và nói: - Thưa các cụ và các ông, người Tây mới cho ra thứ tiền sắt, chúng tôi nghĩ hại cho dân lắm, vì khi dân đã dùng tiền sắt thì họ sẽ thu lại tiền đồng và tiền kẽm, nên chúng tôi đặt bài ca này, xin trình các cụ, các ông phủ chính cho. Các giáo sư ngạc nhiên, xúm lại đọc. Bài ca giọng nồng nàn, mạnh bạo, hô hào dân chúng tẩy chay tiền sắt. Ai nấy đều khen, lúc đó mới niềm nở hỏi thăm thầy đồ thì thầy chỉ nhũn nhặn thưa là quê làng Tây Tựu huyện Hoài Đức (Hà Đông) chứ không cho biết tính danh. Nghĩa thục bèn xin bản đó, phiên âm ra quốc ngữ, cho in ba trăm bản gởi đi khắp nơi. Một người truyền cho mười, mười truyền cho trăm, từ kẻ chợ đến thôn quê, không ai chịu dùng tiền sắt nữa. Chính phủ Pháp ra lệnh bắt giam một số, nhưng càng đàn áp, dân chúng càng nghi kị, có nơi gần như bãi thị. Tiền phát cho quan lại, họ miễn cưỡng nhận, mang về giao cho vợ con, vợ con đem ra chợ tiêu không được, tình hình muốn nghiêm trọng, chính phủ phải chịu thua, thu tiền sắt về. Công đó là của cụ đồ Tây Tựu, một người chân thành ái quốc hoàn toàn không háo danh, vì cụ chỉ tới Nghĩa thục lần đó và một lần nữa rồi thôi không ra mặt. Thực là một người giúp sức kín đáo và đắc lực của trường. Khi Nghĩa thục bị đóng cửa, cụ viết báo ở Hà Nội, năm 1925 những bài Tiếng cuốc kêu, Mơ tổ mắng, được nhiều người chú ý. 62

63 Thi sĩ Tản Đà phàn nàn, về cái việc kiếm tiền, bút lông không nhọn 1 chút nào cả. Đúng vậy. Cụ Lê Đại, văn hay chữ tốt nổi danh Hà Thành, mà khi ở Côn Đảo về viết câu đối thuê làm văn mướn cũng chỉ đủ để chi tiêu về khoản trà thuốc, nếu không được bà vợ buôn muối, mắm thì tất phải túng quẫn. Nhưng quét nổi một chế độ, làm cho kẻ thù mạnh gấp trăm mình phải tái mặt, có khi thúc thủ, thì bút lông há nhường súng đạn, gươm đao? Trung Quốc có bài hịch của Lạc Tân vương chống Võ Tắc Thiên, bài hịch của Trần Lâm chống Tào Tháo; nước ta cũng có bài hịch chống Minh của Nguyễn Trãi và bài Thiết tiền ca của thầy đồ Tây Tựu. Bài dùng thể song thất lục bát, dài non trăm câu (coi phụ lục I, đoạn đầu giọng rất chua xót và phẫn uất: Trời đất hỡi! dân ta khốn khổ, Đủ trăm đường thuế nọ thuế kia, Lưới vây chài quét trăm bề Róc xương, róc thịt còn gì nữa đâu? Chợt lại thấy bắt tiêu tiền sắt Thoạt tai nghe bần bật khúc lòng! Trời ơi có khổ hay không? Khổ gì bằng khổ mắc trong cường quyền Họ khinh lũ đầu đen không biết, Lấy mẹo lừa giết hết chúng ta Bạc vào đem sắt đổ ra, Bác kia thu hết sắt mà làm chi?... 1 Mất chú thích. 63

64 CHƯƠNG VI DIỄN THUYẾT Hồn đã tỉnh, bảo nhau cùng dậy. Người Pháp rất ghét những bài ca ái quốc của Nghĩa thục, mà cũng không ưa gì những cuộc diễn thuyết, nhưng các cụ cứ diễn thuyết bừa đi, xem họ phản ứng ra sao. Như trên tôi đã nói, đợi lâu quá không được phép, các cụ mở trước những lớp dạy Quốc ngữ. Vài tháng sau, phủ Thống sứ mới ký giấy cho mở trường, nhưng không phải khi không họ ký đâu, mà phải nhờ một cuộc diễn thuyết làm vang động cả Hà Thành, họ mới chịu nhượng bộ. Cuộc diễn thuyết đó do Dương Bá Trạc và Lương Trúc Đàm, hai thanh niên rất hăng hái, đứng ra tổ chức ở đền Ngọc Sơn. Chắc nhiều độc giả đã biết đền này là một thắng cảnh ở ngay trung tâm Hà Thành, cất trên một cù lao giữa hồ Hoàn Kiếm. Vài nhịp cầu gỗ cong cong - cầu Thê Húc - nối đền vào bờ. Trong sân đền, ngay ở mí nước, dựng lên một nhà thủy tạ, mỗi chiều rộng chừng tám thước, trên có nóc nhưng bốn bên trống. Hồi đó đền có lệ cứ đến ngày Thượng nguyên, đón một vị Hòa thượng đến thuyết pháp cho thiện nam tín nữ nghe 1. Hai cụ Bá Trạc và Trúc Đàm lợi dụng ngay chỗ đó để diễn thuyết cho có đông thính giả. Tin truyền miệng ra rất mau, nhiều người khuyên đừng làm e sẽ thất bại. Cụ Trúc Đàm khảng khái đáp: 1 Người mình không có óc cố chấp về tôn giáo, nên đền thờ Quan Công mà cũng đón rước các Hòa thượng. 64

65 - Mình làm việc chính đại quang minh, họ không thể giết mình được. Chiều ngày rằm tháng giêng năm Đinh mùi (1907) hàng trăm người có cảm tình đợi sẵn ở sân đền. Lại thêm những người đi lễ, thành thử chen chân không lọt, nhiều người tới trễ phải đứng cả ở trên cầu và trên bờ ngó vào. Vị Hòa thượng sắp giảng kinh thì cụ Trúc Đàm lại xin nhường chỗ cho cuộc diễn thuyết. Tức thì cụ Dương đăng đàn, giọng sang sảng hô hào đồng bào bỏ cái học cử nghiệp đi mà noi gương duy tân của Nhật Bản. Mọi người đương chăm chú nghe, tới tiếng chuông, tiếng mõ cũng ngưng thì bỗng thiên hạ ào ào, la hét: Đội xếp, đội xếp! rồi tranh nhau chạy. Nhưng chạy đâu? Đền chỉ có mỗi một lối ra là cầu Thê Húc thì cảnh binh đã chặn rồi. Chắc các cụ lúc đó mới thấy rằng mình khờ, lựa ngay cái rọ mà đưa đầu vào. Đã đành chính hai cụ đâu có sợ gì mật thám cùng cảnh binh, nhưng còn thính giả thì sao? Cảnh hỗn độn không thể tả: người ta kêu khóc, quay cuồng, nhớn nhác, xô đẩy nhau, giẫm lên nhau, nón bẹp, giầy văng, khăn xổ, áo toạc. Có kẻ hổn hển nằm rạp sau hai bức tượng Châu Xương và Quan Bình; có kẻ chui xuống dưới gặm bàn thờ; quýnh quá, một số nhảy ùm xuống hồ, chới với vì không biết lội. Hai cụ Bá Trạc và Trúc Đàm vẫn ngang nhiên đứng giữa nhà thủy tạ với vài chục người bình tĩnh. Cụ Dương la: - Xin anh em chị em đừng sợ! Nhưng nào mấy ai chịu nghe? Một cảnh binh Pháp tiến từ cầu vô, vẻ mặt hầm hừ, xì xồ ít tiếng. Người thông ngôn dịch ra, hỏi: - Ai cầm đầu? Hai cụ đồng thanh tự nhận: - Tôi. Tôi. 65

66 Tức thì tiếng vỗ tay vang rền, tiếp theo là một loạt roi đập đôm đốp lên lưng, lên đầu quần chúng. Cảnh binh dẫn hai cụ về sở Cẩm Hàng Trống tra hỏi, tới tối mới thả ra. Ít bữa sau, hai cụ được giấy mời lên phủ Thống sứ. Người Pháp thời đó mới lập xong cơ sở ở nước mình, còn muốn thu phục nhân tâm, nhất là bọn nhà nho được dân trọng vọng, nên thường có cử chỉ cũng khá nhã, không như bọn thực dân hồi sau nầy. Có lẽ một phần cũng nhờ ảnh hưởng của bức thư chân thành do cụ Tây Hồ gởi mấy tháng trước cho họ. Nguyên sau khi từ biệt cụ Lương Văn Can để về Quảng Nam, cụ Tây Hồ đã có định kiến, quyết tranh đấu ở ngoài ánh sáng. Cụ thảo một bức thư chữ Hán dài hai chục trang, vạch ba cái tệ của chính phủ: một là dung túng bọn quan lại thành ra cái tệ quan dân coi nhau như mẹ chồng con dâu; hai là khinh dể kẻ sĩ, gây ra cái tệ xa cách giữa nhà cầm quyền Pháp và các nhà trí thức Việt; do hai tệ đó mà gây ra cái tệ thứ ba là để quan lại hà hiếp dân. Cuối thư, cụ yêu cầu chính phủ Bảo hộ tổ chức lại quan trường, mở mang dân trí, khuếch trương thực nghiệp. Người Pháp trọng tinh thẩn ngay thẳng của cụ, thấy lời lẽ ôn hòa mà hữu lý nên nể các nhà nho chân chính ái quốc và tiếp hai cụ Dương Bá Trạc, Lương Trúc Đàm một cách có lễ độ. Viên Thống sứ Bắc Việt mời hai cụ ngồi rồi ôn tồn hỏi: - Sao các ông làm nhiễu loạn trị an của chính phủ như vậy? Các ông có nhận là có lỗi không? Cụ Dương đáp: - Nước Pháp đặt nền Bảo hộ ở đây đã hai chục năm, tự nhận công việc khai hóa cho chúng tôi mà tới nay chưa mở mang dân trí được chút nào, nên chúng tôi phải đứng ra lãnh lấy nhiệm vụ, như vậy là chúng tôi thành tâm tiếp tay chính phủ, chứ sao gọi là nhiễu loạn cuộc trị an được? 66

67 Chúng tôi chỉ khuyên dân duy tân để theo kịp người Âu, chú trọng đến thực nghiệp để nước được giàu, như vậy là lợi cho chính phủ, sao gọi là lỗi? Vả lại chúng tôi đã xin phép chính phủ mở trường và diễn thuyết mà hai tháng rồi, thấy chính phủ làm thinh, chúng tôi nghĩ là chính phủ đã mặc hứa, như vậy thì chúng tôi đâu phải là không biết trọng phép của chính phủ? Gục gặc đầu suy nghĩ một chút, viên Thống sứ nhã nhặn phủ dụ: - Hai ông có lòng yêu nước An Nam thì cũng như người Pháp chúng tôi yêu nước Pháp vậy, nào tôi có muốn ngăn cản. Sở dĩ tôi chưa cho phép được là còn phải đợi ý kiến quan Toàn quyền. Thôi hai ông về đi, tôi sẽ đem việc đó nhắc lại với ngài và chắc ngài cũng không hẹp lượng gì đâu. Viên Thống sứ giữ lời hứa và khoảng hai tháng sau, Nghĩa thục được giấy phép. * * * Từ khi trường có tính cách hợp pháp, những cuộc diễn thuyết được tổ chức thường hơn, mới đầu ở Hà Thành rồi lần về các miền lân cận như làng Nhị Khê, làng Quang, làng Mọc, làng Bưởi, tại những nơi có đình chùa rộng và hội viên sốt sắng. Cảnh thực tưng bừng và phấn khởi: dưới những gốc đa, những tàng muỗm, các ông già bà cả, các thanh niên trai gái chăm chú nghe các cụ, như nuốt từng lời của các cụ, tìm trong đó cái hy vọng ở tương lai rực rỡ của non sông. Tình thân mật giữa các sĩ phu và bình dân chưa bao giờ đậm đà như vậy: người trên thì biết lãnh trách nhiệm, nêu gương cho người dưới, người dưới thì tin cậy, quí mến người trên. Đẹp như lời trong Hải ngoại huyết thư: Chữ tâm một phút đâu đâu cũng đồng. Trong những buổi diễn thuyết ở Nghĩa thục, số thính giả lần nào cũng rất đông, có khi thiếu ghế, phải kê mễ mà cũng không đủ chỗ 67

68 ngồi. Cụ Lương chủ tọa, ngồi bên cạnh diễn giả, rồi tới các giáo sư của trường và các nhà danh vọng Hà Thành. Thính giả đàn ông ngồi một bên, đàn bà ngồi một bên, sau lưng phụ nữ là học sinh. Nửa thế kỷ trước mà có những cuội hội họp nam nữ như vậy thật là duy tân lắm. Đầu đề các cuộc diễn thuyết thường là bàn về phương sách tự cường, cứu quốc, một đôi khi cũng xét về những vẩn đề văn hóa, kinh tế. Các giáo sư như Dương Bá Trạc, Nguyễn Quyền, Nguyễn Văn Vĩnh thay phiên nhau đăng đàn, nhưng nhà hùng biện nhất vẫn là cụ Tây Hồ. Mỗi lần ở Quảng Nam ra thì cụ đều lại Nghĩa thục để diễn thuyết. Cụ hay nghiên cứu lẽ suy vi của dân tộc, tìm được nguyên nhân gì, cụ hăng hái trình bày ngay. Có lần chuông mới rung, cụ vào đề ngay: Nước Đại Nam chúng ta ngày nay sở dĩ yếu hèn là vì thiếu tinh thần tôn giáo. Tôn giáo luyện cho ta đức hy sinh, coi nhẹ tính mạng, phá sản vì đạo; không có tinh thần tôn giáo chúng ta không biết cương cường xả thân vì nghĩa, chỉ bo bo giữ cái lợi riêng của mình. Này bà con thử xét đời Trần sao dân tộc ta hùng dũng như vậy; quân Nguyên thắng cả Á cả Âu, nuốt trọn Trung Hoa mà qua đến nước ta thì bại tẩu, nào bị cướp sáo ở Chương Dương độ nào bị bắt trói ở Hàm Tử quan, rồi ôm hận ở trận Vạn Kiếp, chịu nhục ở trận Bạch Đằng, như vậy chẳng phải là nhờ đạo Phật ở ta thời đó rất thịnh ư, nhờ cái tinh thần tôn giáo của ta ư? Rồi cụ thao thao dẫn thêm chứng, lấy trong cổ sử Đông Tây. Khi cụ mới tạm ngừng, cụ Phương Sơn đứng đậy đưa tay xin phản đối: - Thưa cụ, chúng tôi e lời cụ chưa chắc đã đúng hẳn. Đọc sử vạn quốc, chúng tôi được biết tinh thần tôn giáo không đâu mạnh bằng Ấn Độ, mà Ấn Độ cong lưng nô lệ Anh Cát Lợi hơn hai thể kỷ nay. Cụ đã nói đến quân Nguyên thì chúng tôi cũng xin xét về quân Nguyên. Cái lẽ bách chiến bách thắng của họ có nhờ 68

69 tinh thần tôn giáo của họ đâu, vậy thì ta đuổi họ ra khỏi cõi, cũng vị tất nhờ tinh thần Phật giáo của ta. Vả lại, nói đời Trần thắng Nguyên nhờ Phật giáo thịnh, thì những đời sau, Phật giáo còn thịnh nữa đâu mà ta cũng diệt được Minh, được Thanh? Hai cụ tranh biện với nhau khá lâu, sau cụ Lương đứng ra hòa giải: - Cụ Tây Hổ và ông Phương Sơn mỗi bên đều có lý hết. Hôm nay hội họp cũng đã lâu rồi, xin để đến phiên sau. Một lần khác, cụ Tây Hồ cho chính cái nho học làm cho Việt Nam suy nhược. Cụ thảo một bài nhan đề là: Bất phế Hán tự, bất túc dĩ cứu Nam quốc, 1 đem bao nhiêu tội đổ lên chế độ khoa cử rồi kết luận là phải bỏ Hán tự. Cụ đưa bản nháp cho cụ Phương Sơn và nói: - Kỳ sau, tôi sẽ bàn về vấn đề này đây. Vừa đọc xong nhan đề, cụ Phương Sơn đã đặt tờ giấy xuống, đáp: - Nếu cụ diễn thuyết về đầu đề đó thì chúng tôi lại xin phép cụ phản đối cụ nữa. Chúng tôi sẽ nói: Bất chấn Hán học, bất túc dĩ cứu Nam quốc 2. Chế độ khoa cử hủ bại ta phải bỏ, chúng tôi đồng ý với cụ về điều ấy, còn Hán học đã đào tạo biết bao anh hùng, liệt sĩ, thì sao lại phế nó đi? Ngay lúc đó, cụ Lương Trúc Đàm ở đâu lại, nghe rõ câu chuyện, cũng biểu đồng tình với cụ Phương Sơn. Cụ Tây Hồ tinh thần quân tử, khoáng đạt, cười: - Hai tiên sinh đều phản đối thì tôi xin thôi, để tôi xét lại xem. 1 Không bỏ chữ Hán thì không cứu được nước Nam. 2 Không chấn hưng Hán học thì không cứu được nước Nam. 69

70 Mỗi khi các diễn giả nhắc đến chuyện tiền bối xả thân cứu nước, thính giả, nhất là phái nữ, đều rớt nước mắt. Một tối, cụ Tây Hồ hăng hái quá, nói: - Người ta sở dĩ sợ chết ham sống là vì có nhà cao, cửa rộng, vợ đẹp, con khôn, cho nên cắt tình không được, còn bọn chúng ta đây, bất quá chỉ có thượng xỉ hạ đạn, còn sợ gì nữa mà không làm, còn quyến luyến gì nữa mà sợ chết? Cụ Nguyễn Hữu Tiến, ngồi bên nghe, cảm động, đọc ngay hai câu thơ của cụ Sào Nam: Giang sơn tử hĩ, sinh đồ nhuế, Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si. Rồi ôm mặt khóc. Một hồi lâu, trong phòng chỉ còn nghe tiếng sụt sịt của thính giả. Có những lúc khóc như vậy thì cũng có những lần thính giả ôm bụng mà cười. Làm cho mọi người cười thì cũng vẫn là cụ Tây Hồ. Hô hào đồng bào theo người Âu, cắt búi tóc đi, cụ nói: - Mấy ngàn năm trước, dân tộc ta đoạn phát văn thân 1. Từ khi bị Triệu Đà cướp nước, mới nhiễm tục Trung Hoa, nhưng chỉ một số người ở thành thị theo họ thôi. Tới khi nhà Minh chia nước ta thành quận huyện, cưỡng bách toàn dân ăn mặc như họ, thì trai mới bới tóc, gái mới mặc quần hai ống, và người mình thành người Tàu. Ngày nay - chỗ này cụ lớn tiếng - may mà Trời mở lòng người, một sớm thức tỉnh, cả nước duy tân, anh em cát phăng cái búi tóc đi, khiến cho cái lũ xuẩn xuẩn vi trùng 2 không còn đất thực dân trên đầu ta mà hút máu ta thì há chẳng phải là đại khoái ư? Sao, anh em mình sao? 1 Cắt tóc, xâm mình. 2 Cụ muốn nói mấy con chấy mà ám chỉ thực dân. 70

71 Tiếng cười, tiếng hoan hô vang cả phòng. Lần đó cụ thành công nhất. Khoảng nửa tháng sau, tại Hà Thành, đi đâu cũng nghe thấy có người hát bài Húi hề, không biết của ai. Tay trái cầm lược, Tay phải cầm kéo. Húi hề! Húi hề! Thủng thẳng cho khéo. Bỏ cái ngu này, Bỏ cái dại này Ngày nay ta cúp Ngày mai ta cạo. 1 Rồi ở Hà Tĩnh, một thanh niên hai mươi tuổi, mỗi buổi chợ phiên, cầm kéo ra chợ, gặp ai còn bới tóc cũng năn nỉ: Lạy anh, xin anh cho tôi cắt cục tóc bảo thủ này đi cho rồi. Phong trào lan rất nhanh ở Trung và Bắc, trong Nam có phần chậm hơn. Các cụ cắt tóc ngắn không phải chỉ vì vấn đề tiện lợi, mà chính là để tỏ cái ý đoạn tuyệt với hủ tục. Cắt tóc theo các cụ là duy tân, là ái quốc. 1 Tác giả bài này là Phan Khôi ( ) sáng tác vào các năm ở Quảng Nam (BT). 71

72 CHƯƠNG VII PHONG TRÀO DUY TÂN Chưa học bò, vội chạy đua theo. Cụ Tây Hồ là người mở đường cho phong trào duy tân ở nước nhà. Lập Nghĩa thục, một phần công lớn là của cụ, gây tư tưởng mới ở Quảng Nam là cụ, đi khắp nơi diễn thuyết là cụ, khuyên quốc dân cắt tóc là cụ, liệng cái phó bảng mà ra lập hiệu buôn cũng là cụ, bỏ tục nhuộm răng, vận âu phục bằng nội hóa thì người đầu tiên cũng lại là cụ. Phong trào cắt tóc lan mạnh nhất ở Hà Thành. Người thì nhờ bạn bè, người thì tự cầm dao cứa đại cái búi tóc. Có người không muốn, nhưng bị thân hữu cưỡng bách rồi cũng chịu. Nhiều việc xảy ra hơi vui vui, chúng tôi xin chép lại đây một chuyện để độc giả thấy lòng bồng bột duy tân và tính nghịch ngợm của vài cụ thời đó. Ta cứ tưởng các nhà nho ái quốc nửa thế kỷ trước phải nghiêm trang, đạo mạo lắm; nhưng không, các cụ nhỏ tuổi cũng giỡn như chúng ta ngày nay và có khi cuộc vận động duy tân đối với các cụ chỉ là một trò chơi hứng thú. Một buổi sáng cuối thu, cụ Phương Sơn, mới tung chăn ra, gọi giật người em trai 1 : 1 Tức cha của cụ, tên Bí, hiệu Đặc Như. Về việc đi cắt tóc, cụ viết trong Hồi kí như sau: Cha tôi không chính thức gia nhập Đông Kinh nghĩa thục như bác Cả, bác Ba tôi, và nhà cách mạng Đỗ Cơ Quang (hiệu là Chân Thiết - con cụ Đỗ Uẩn và là em con cô con cậu với cha tôi) nhưng cũng giúp đỡ ít nhiều cho nghĩa thục. Trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục, 72

73 - Chú Tư, tiết sắp qua đông rồi, cái loại xuẩn xuẩn vi trùng đó sắp được thuận thiên thời mà sinh sản mãnh liệt. Ta phải diệt chúng giùm cho anh Hy Thanh chứ? Cụ em vỗ tay reo: - Phải lắm. Nhưng hai anh em mình sợ không đủ sức. Phải thêm ngoại viện, anh nghĩ sao? - Ai bây giờ? - Thì chú Ba Đỗ (tức cụ Đỗ Chân Thiết). - Được. Sửa soạn đi thôi. Thế là hai cụ thắng bộ âu phục đúng mốt Tây Hồ, nghĩa là một cái áo bành tô và một chiếc quần bằng vải nội hóa Quảng Nam nhuộm đen; thắt cái cà vạt cũng bằng vải đen, đi đôi giày dôn 1 mỏ vịt, và đội cái nón cát 2 trắng rồi khoác tay nhau, y như tây, bước ra cửa, mỗi cụ phì phèo một điếu thuốc Quả đất. 3 Tới hàng Bạc, hai cụ rẽ vào một hiệu kim hoàn, nện này cồm cộp, nói bô bô: - Chú Ba đâu? Còn ngủ ư? Dậy mau, dậy mau, việc trọng đại. - Cụ Chân Thiết vùng dậy, hỏi. Khi đã hiểu chuyện thì cười ha hả, bận áo dài, chít khăn rồi cả ba cụ cùng ra bến xe điện ở Bờ Hồ. Tới Ô Chợ Dừa, ba cụ xuống xe, rẽ vào làng Thịnh Hào tìm nhà cụ Hy Thanh. Chủ nhân chăm chú ngó bộ đồ tây mỉm cười. chương VII, tôi có chép một chuyện vui về việc cắt tóc một cụ Đồ mà bác Ba tôi, cụ Đỗ Chân Thiết và cha tôi dự vào. (Goldfish). 1 Giày da vàng. Mốt Tây Hồ là mốt của cụ Phan Châu Trinh. 2 Casque. 3 Globe. 73

74 Thấy cuốn Tả Truyện đặt trên bàn, cụ Phương Sơn hỏi: - Vẫn còn thích vác lều chõng sao? À lúc này, anh còn tới trường cụ Thám nữa không? Cụ Hy Thanh bẽn lẽn, cười gượng: - Chú thì chỉ được cái thế. - Chịu khó tập được cái giọng thơ của cụ đi, tôi cam đoan với anh là nắm chắc cái thủ khoa trong tay. Bài hát nói đó ra sao nhỉ. Có phải: Ngô khởi hiếu biện tai, ngô bất đắc dĩ dã 1 không? Ai nấy ôm bụng cười, còn cụ Hy Thanh tái mặt: - Đồ quỷ. Nhắc lại làm gì chuyện đó? Thật là Ngũ kinh tảo địa 2 rồi. Một cao đệ cửa Khổng sân Trình mà như vậy, nhục cho nho lâm quá... ái, ái! Làm gì thế? Buông người ta ra! Thì ra ba cụ kia thừa lúc cụ Hy Thanh sơ ý, đè nghiến cụ ra, một người ôm mình, một người khóa chặt hai tay, một người móc túi 1 Cụ Thám Vũ Phạm Hàm người làng Đôn Thư (Hà Đông), đậu thám hoa cùng khoa thi đình với cụ Nguyễn Thượng Hiền, rất ưa thú ả đào, làm một bài hát nói trong đó cụ đã láo xược đến cực điểm, dùng ngay một lời nghiêm trang nhất của Mạnh Tử (Ngô khởi hiếu biện tai? Ngô bất đắc dĩ dã: Ta có thích biện thuyết đâu? Ta bắt đắc dĩ vậy) để chỉ cái việc mà nhà Nho cho là tục tằn nhất, việc hợp hoan. Bài hát đó ở miệng mấy ả đào phố hàng Giấy truyền ra, nhiều nhà Nho chau mày và số môn sinh của cụ Thám thưa lần. Người ta còn truyền hai câu thơ này cũng giúp ta hiểu thêm tính tình của nhà thơ lăng mạn ấy: Hà nhân thọ ngã hoàng kim bách, Khứ tác tiên sinh hiệu Bạch Vân (Nào ai tặng tớ vàng trăm lạng, Để ẩn như ông hiệu Bạch Vân). Bạch Vân cư sĩ tức Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm. 2 Đem Ngũ kinh ra quét đất. 74

75 lấy ra cái kéo cắt búi tóc cụ. Búi tóc rớt xuống đất, cụ được buông ra, chạy đi lấy gương coi, rồi phì cười, yêu cầu hớt gọn hai bên cho dễ coi. Cụ Phương Sơn vỗ tay: - Có thế chứ! Lẽ nào thời nay mà còn nuôi hoài lũ thực dân ấy ở trên đầu trên cổ nữa. * * * Một lát sau, cả bốn cụ bắc ghế ra ngồi dưới giàn hoa lý ở trước sân. Cụ Chân Thiết nói: - Mấy bữa trước, chủ hiệu Vĩnh Phong phố Hàng Bồ cho tôi coi một bài trong tờ Tân Dân của Tàu. Thằng cha nào viết bài đó thực có giọng chua cay. Nó chửi khoa cử hết điều, bảo khoa cử có lục tự (sáu cái giống): khi lại trường thi, phải đeo lều, chõng, bầu, tráp, có khác chi tù đeo gông đâu, thế là nhất tự tù (thứ nhất: giống tù); lúc vào cửa, bị lính lục xét, y như xét ăn trộm, thế là nhị tự đạo (thứ hai: giống quân ăn trộm); suốt ngày ngồi trong lều thỉnh thoảng ló đầu ra, như con chuột trong hang, tam tự thử nhé? (thứ ba: giống con chuột); lều che kín, ngồi trong đó ăn uống, y như con mèo, thế là tứ tự miêu (thứ tư: giống con mèo); khi coi bảng, người nào thấy tên mình thì sướng quýnh, nhẩy choi nhoi như con tôm, vậy là ngũ tự hà (thứ năm: giống con tôm); còn kẻ nào không thấy tên mình thì buồn hiu, co ro như con giun, lục tự dận (thứ sáu: giống con giun). Về hình thức, khoa cử xấu xa như vậy mà về tinh thần thì làm cho nước yếu, dân hèn, anh còn luyến tiếc nữa làm chi? Cụ Hy Thanh chỉ cười. Cụ Chân Thiết lại tiếp: - Hôm qua, tôi với nhiều anh em trong Nghĩa thục bàn với nhau thảo một lá đơn tỏ rõ những lý do cần bãi bỏ khoa cử và yêu cầu chính phủ dùng chương trình thực học của phương Tây. Đại ý như vầy: Nước Nam chúng tôi có khoa cử đã gần một ngàn năm là do 75

76 bắt chước Trung Hoa. Gần đây chính các nhân sĩ Trung Hoa đã xin Thanh triều bãi bỏ khoa cử và mở học đường theo Âu tây, nên chúng tôi nghĩ không còn lẽ gì để giữ cái học từ chương vô ích cho nhân dân đó nữa. Vậy chúng tôi xin chính phủ bãi bỏ khoa cử và mở ngay Cao đẳng học đường để đào tạo nhân tài. Anh em ai cũng tán thành, nhưng khi đơn thảo xong, anh em bỏ về cả, chỉ còn anh cử Dương, anh Trúc Đàm và tôi đứng tên ký. Sĩ khí của mình kể ra kém thật. 1 Đơn đó, ngày mai tôi sẽ gửi. Anh Hy Thanh nghĩ sao? Cụ Hy Thanh trầm ngâm một lát rồi đáp: Việc anh em làm đó được lắm. Tôi cũng không thích gì khoa cử nữa. Chẳng qua tôi muốn làm vui lòng các cụ tôi một chút. Cụ Phương Sơn nói: - Anh nói vậy, làm tôi nhớ khoa trước, Trần Trọng Tuấn, học trò của thầy tôi, đậu cử nhân, tôi mừng y đôi câu đối nầy: Khoa đệ diệc tầm thường, kim nhật vị vi quân nhất hạ. 2 Y mới nghe tới đó, trợn mắt hỏi tôi: khoa đệ mà tầm thường thì cái gì mới quan trọng? Tôi không đáp, đọc nốt vế sau, để vuốt ve y: Môn lư đa khí sắc, cao đường hỉ kiến tử chi thành. 3 1 Ít năm sau, cụ Trúc Đàm mất vì bệnh, cụ Phương Sơn điếu hai câu ám chỉ việc diễn thuyết ở đền Ngọc Sơn và việc gửi thư cho người Pháp đó: Ngọc Sơn diễn thuyết, đồng bào dậy, Pháp phủ đầu thư, chí sĩ theo. 2 Khoa đệ cũng tầm thường, hôm nay tôi chưa vì anh mừng đâu. 3 Cửa nhà nhiều vui vẻ, cha mẹ già mừng thấy con thành danh. Sau cụ Trần Trọng Tuấn học lớp hậu bổ, vì khí khái, cụ với một giáo sư, xin thôi, về quê làm tổng sư, dạy mươi đứa trẻ ở chùa làng, dán trước cửa nhà hai câu đối này: Phật khả huynh hô duyên cận tự. Nhân năng tử thị vị truyền kinh. (Phật mà được kêu bằng anh là nhờ gần ở chùa, Người mà coi như con, vì truyền cho đạo) 76

77 Miễn có tinh thần coi khoa đệ là tầm thường, rồi vì nhà mà có muốn thi thì cũng được. 1 Nhưng này, anh đã hạ búi tóc rồi, phải có cái mũ Tây mà đội chứ? Để tôi lại Hàng Bông mua biếu anh một chiếc nhé. Cụ Hy Thanh xua tay: - Thôi, Tây với Tàu gì? Để tôi đội cái nón dứa cũng được. * * * Đơn của ba cụ Bá Trạc, Trúc Đàm và Chân Thiết gởi phủ Thống sứ được ít lâu thì cụ Đào Nguyên Phổ chủ bút tờ Đại Việt tân báo chạy lại Nghĩa thục cho hay tin Toàn quyền Beau sắp cho mở trường Đại học ở Hà Nội. Cụ nào cũng mừng rằng vận động có kết quả, không ngờ chỉ là một đòn của người Pháp. Cũng tại các cụ còn khờ, chưa biết chút gì về nền giáo dục Âu tây cả. Hồi đó, Trung và Bắc chỉ có những trường tiểu học, và hai trường thông ngôn, một ở Huế, một ở Hà Nội, trung học chưa mở, mà các cụ đã đòi lập ngay Đại học thì người Pháp làm sao thuận cho được. Toàn quyền Beau đọc đơn của ba cụ, chắc mỉm cười nghĩ: - A, các chú muốn mở đại học? Tốt lắm. Để ta mở cho. Trường đại học mở thật, không rõ là văn khoa hay luật khoa, y khoa, chỉ biết hôm khai trường, một số nhà tân học và cựu học 1 Cụ Lê Đại cũng bỏ thi (nếu không, cụ có thể đậu đại khoa được), và khi hay tin một người cháu thi đỗ, cụ gởi mừng đôi câu đối: Có mây không gió, lơ lửng giữa giờ chiều, một đôi khi nhắn đôi lời, thường hỏi thăm cả làng cả xóm, cả thân thích họ hàng, gắng sức đua tài, còn vẫn mơ hồ trong cựu giới; Chẳng lợn thì gà, qua loa xong buổi chợ, mười lăm tuổi học mươi lăm chữ, nếu biết nghĩ đến nước đến nhà, đến ông cha chú bác, giỏng tai giương mắt, thôi đừng tấp tểnh cái hư danh. Lợn, gà, trong vế sau, do chữ Hán kê đồn, trỏ tú tài và cử nhân. 77

78 Đông Kinh nghĩa thục lại nghe; nhưng may lắm chỉ có cụ Tốn, cụ Vĩnh là hiểu lõm bõm được ít nhiều, còn thì ù ù cạc cạc cả. Giáo sư Pháp đạo mạo chắp tay sau lưng, đi đi lại lại trong phòng, xì xồ từ đầu giờ đến cuối giờ, thỉnh thoảng lại mỉm cười, hỏi: Các ông nghe ra không? Không một ai đáp, ai nấy ngó nhau lắc đầu. Nhiều cụ muốn bỏ ra về ngay, sợ bị chê và vô lễ, gắng ngồi cho đến hết giờ. Khi tan học, một cụ tân học hỏi giáo sư: Ông có bài, có sách cho chúng tôi đọc không? Giáo sư đáp gọn thon thỏn: - Lại Thư viện mà kiếm. Thế là các cụ bẽn lẽn, cụt hứng. Không đầy một tuần sau, trường đại học đầu tiên của Việt Nam đóng cửa vì thiếu sinh viên. Thực dân được một phen cười ha hả, tự cho là đắc sách! 78

79 CHƯƠNG VIII CHẤN HƯNG CÔNG THƯƠNG Hóa hàng đủ cả Nam và Bắc 1 Cụ Nguyễn Quyền, trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục của Đào Trinh Nhất nói rằng đồng bào quyên trợ cho trường rất nhiều, nên muốn hành động gì cũng dễ, và tới khi trường đóng cửa, quỹ còn dư trên vạn đồng, một vạn đồng hồi đó bằng mấy triệu bây giờ. Lời ấy chỉ đúng một phần. Hồi mới, dân khí đương lên, ai nghe thấy nói một số nhà cựu học và tân học dắt tay nhau gây nên phong trào duy tân đầu tiên trong nước, cũng hoan nghênh, hăm hở giúp, kẻ công, kẻ của, có kẻ cả của lẫn công. Những nhà quyên nhiều nhất là hiệu kim hoàn Thế Xuân ở hàng Bạc, và hiệu hàng tấm 2 Phúc Lợi ở hàng Ngang, chủ nhân hiệu này là học trò cụ Lương. Hai nhà đó giúp mỗi lần hai, ba trăm đồng. Như tôi đã nói, cụ Lương giữ tiền, cụ Nguyễn Quyền giữ sổ sách. Nhà nho mà biết công việc kế toán là gì đâu, làm toán nhân toán chia sợ còn sai, nhất là lại bận nhiều việc khác trong trường, nên sổ sách tất có chỗ không được kỹ lưỡng, rành mạch, và đã có lần vài hội viên xin cụ Lương giao việc kế toán cho người khác, song cụ nhất định không nghe, bảo như vậy không có lợi cho tiếng tăm của trường. Nhiều người phục cụ ở chỗ đó. 1 Câu thơ này và câu thơ ở đầu chương sau trích trong một bài thơ của cụ Lương Văn Can mừng một hiệu thuốc bắc của một người trong Nghĩa thục. 2 Tức hàng tơ lụa vải. 79

80 Nghĩa thục càng mở mang thì chi phí càng nhiều mà số người hằng tâm có hạn, quyên nhiều lần quá, ai cũng ngán. Các cụ thiếu kinh nghiệm, thiếu tổ chức, không dự tính số thu và số chi cho từng khoản, đã không bắt hội viên đóng nguyệt liễm, học sinh đóng học phí, mà thấy việc gì nên làm cũng không từ nan, thành thử số thu mỗi ngày một giảm mà số chi mỗi ngày một tăng, nào tiền mướn nhà, tiền đóng bàn ghế, tiền giấy mực cho giáo sư và cả học sinh, tiền cơm buổi trưa cho mấy chục người ăn, tiền khắc bản gỗ, in sách và tiền giúp thanh niên xuất dương nữa. Như vậy nền tài chánh làm sao vững được, và sáu bảy tháng sau khi trường mở cửa, quỹ đã gần cạn; cụ bà Lương Văn Can phải bán một hiệu buôn, hiệu Quảng Bình An ở hàng Ngang, lấy số tiền 7000$ đưa cho cụ ông chi tiêu vào việc trường. Sau này, kể lại việc đó với một người thân trong nhà, cụ bà nói: - Tôi cầm bút ký tờ đoạn mãi mà tay run lên. Từ nhỏ, có bao giờ dám động tới di sản của tổ tiên đâu. Bán cửa hiệu đó xong, độ một tháng sau trường bị đóng cửa, nếu không, tôi không biết trường sẽ phải dùng cách nào để kiếm tiền. * * * Khi soạn các bài ca khuyến công, thương, hội cũng đã nghĩ đến việc mở các hiệu buôn và các xưởng để kiếm lời giúp quỹ. Nhưng hội không đủ tiền đề tổ chức những cơ quan đó nên chỉ khuyên hội viên ai có vốn thì đứng ra kinh doanh, rồi nếu có lời, tùy ý giúp hội bao nhiêu cũng được. Giải pháp đó có tính cách tạm bợ, vì sức lẻ loi của mỗi người khó cạnh tranh nổi với tổ chức của Hoa kiều. Nhất là các nhà nho có tâm huyết đâu phải là con buôn, thiếu kinh nghiệm, thiếu cả thực tế, mười phần thì thất bại chắc bảy, tám rồi; còn hạng con buôn thông thạo thì chỉ nghĩ sao thu thật nhiều, xuất thật ít, mấy ai chịu chia cho Nghĩa thục? Rốt cuộc, quỹ của hội không nhờ vậy mà đỡ nguy được phần nào. Nhưng về phương diện tinh thần thì hội đã thành công: chính vì lối làm việc hăng hái tài tử 80

81 của các cụ mà quốc dân mới có nhiều cảm tình, phong trào mới có tiếng vang lớn, và Nghĩa thục đã phá được cái tục khinh công, thương, từ mấy ngàn năm truyền lại mà đề cao hàng nội hóa làm cho nhiều người không nhắm mắt khen hàng Tây là đẹp, hàng Tàu là quí nữa. * * * Người đầu tiên chấn hưng thực nghiệp ở Trung là cụ Phan Tây Hồ. Cụ mở Quảng Nam thương hội mướn dệt những thứ vải dày, có thứ may âu phục được, rồi đích thân cụ làm gương cho đồng bào, cắt một bộ đồ tây bằng thứ vải nội hóa đó 1. Cụ đã thực hiện đúng lời khuyên đồng bào trong bài Tỉnh quốc hồn ca của cụ:... Người mình đã vụng về trăm thức, Lại khoe rằng sĩ nhất tứ dân, Người khanh tướng kẻ tấn thân, Trăm nghề hỏi có trong thân nghề nào? Chẳng qua là quơ quào ba chữ, May ra rồi ăn xớ của dân; Khoe khoang rộng áo dài quần, Tráp giày bệ vệ rần rần ngựa xe. Còn bực dưới ngo ngoe vô kể, Học cúi luồn kiếm kế vơ quào; Thầy tú lại bác kỳ hào, Gặm xương mút đũa lao xao như ruồi. Lại có kẻ lôi thôi bực giữa, Trên lỡ quan, dưới nữa lỡ dân, 1 Sau, bị đày ra Côn đảo, cụ học nghề làm đồi mồi, qua Pháp, học nghề sửa ảnh. Đậu phó bảng mà làm thợ, nước nhà chắc chỉ có cụ. 81

82 Ấy là học sĩ văn nhân, Ăn sung mặc sướng mà thân không làm.... Loài người đã không tài không nghiệp, Phải sanh ra nhiều kiếp gian nan; Đua chen dối trá muôn vàn, Gà bầy đá lẫn, cá đàn cắn nhau. Ngồi nghĩ lại càng đau tấc dạ, Hỡi những người chí cả thương quê, Mau mau đi học lấy nghề, Học rồi ta sẽ đem về dạy nhau. Nhưng ở Trung, dân thì nghèo mà tinh thần quan lại còn quá nặng, số người hưởng ứng lại ít, nên công việc cụ không phát đạt và phong trào chấn hưng công nghệ không tiến mạnh bằng ở Bắc. * * * Tại Bắc, một trong những nhà nho cách mạng đầu tiên đứng ra khuếch trương thương nghiệp có lẽ là cụ Đỗ Chân Thiết. Cụ là con một nhà gia thế ở làng Thịnh Hào (Hà Đông), người phốp pháp, tinh thần khoáng đạt, hào phóng, làm biếng học mà có tài văn thơ 1. Hễ lại thăm bạn bè, thấy ai đương đọc sách, cụ cũng 1 Hồi cụ còn trẻ, trong một cuộc thi thơ, vịnh về Thất tình (Bảy tình của con người), cụ có hai câu tả tình giận như sau: Hạng Bá nhân ca đầu bạo hổ. Liễu Tây thiếp mộng đả hoàng oanh. Xét theo quan niệm cổ về thơ thì hai câu đó rất hay. Câu trên nhắc tới tên một thiên sách là Hạng Bá, trong đó nói có kẻ bị người ta ghét đến nỗi giận dữ trả lại cho trời, trời không nhận, người ta phải liệng cho hổ dữ xé thây. Câu dưới mượn điển trong một bài thơ Đường tả nỗi giận của một chinh phụ đương nằm mê thấy đến đất Liêu Tây thăm chồng thì con oanh bỗng hót lên làm tan mất mộng đẹp. 82

83 giật lấy, liệng đi nói: Dũ học dũ ngu hoặc Hiền thánh liêu nhiên, tụng diệc si, rồi kéo người đó đi chơi. Cụ bà làm chủ một hiệu kim hoàn ở phố hàng Bạc, có phần phong túc, nên cụ được rảnh, hoạt động cho Nghĩa thục và cho phái bạo động của cụ Sào Nam. Cụ thi một lần không đậu, bỏ luôn khoa cử, nhân dịp vua Thành Thái đi bái yết lăng tẩm ở làng Gia Miêu (Thanh Hóa) năm 1904 (?), cụ cùng cụ Phương Sơn thảo một bản Hưng quốc sách xin vua Thành Thái xét lại hòa ước Giáp Thân (tức hòa ước Patenôtre) mà đòi quyền tự trị về mình. Đại ý hai cụ viết: Trong hòa ước đó, có nói rõ Trung, Bắc lưỡng kỳ là đất bảo hộ mà theo công pháp thì trong một xứ bảo hộ, chính chủ địa phương được quyền tự trị, chánh quốc chỉ giữ quyền binh bị và ngoại giao thôi. Nước Pháp không thi hành đúng những điều đã cam kết vì thấy không có ai phản đối họ cả. Nếu Hoàng thượng cùng với bá quan, nhân dân cương quyết yêu sách, cho sứ thần qua Ba lê thương thuyết thì chánh chủ Pháp tất phải trả quyền tự trị cho ta mà có quyền đó ta mới dễ thực hành những cải cách ích quốc lợi dân như các cụ Trần Bích San, Nguyễn Trường Tộ đã đề nghị: bãi khoa cử, lập tân học đường, mở nghị viện, khuếch tương công nghệ... Bài thơ đó có bốn câu: Đả khởi hoàng oanh nhi, Mạc giao chi thượng đề. Đề thời kinh thiếp mộng, Bất đắc đáo Liêu Tê. (Chính là Liêu tây mà đọc là Liêu Tê cho có vần) Ném đuổi con oanh vàng. Trên cành, đừng hót vang, Làm tan giấc mộng thiếp, Chẳng đến Liêu thăm chàng. 83

84 Thảo xong, hai cụ lên xe lửa vào Thanh Hóa, xin yết kiến viên Tổng đốc, trình bản Hưng quốc sách và yêu cầu dưng lên vua Thành Thái khi xa giá tới. Viên Tổng đốc chối từ: - Việc các thầy bàn đó là việc bang giao đại sự, chỉ khi nào bệ kiến mới nên dưng, ở đây có tai mắt của người Pháp. Vả lại, bản chức không biết Pháp văn, không rõ tờ hòa ước đó nói sao, nên không thể đảm nhận được việc. Hai cụ bèn trở về Hà Nội. Ít năm sau, rủ nhau đi buôn, mướn thuyền về miền Hải Dương, Thái Bình mua gạo chở về Hà Nội bán. Nhưng đi buôn mà các cụ vẫn giữ cái vẻ quan cách. Thuyền về đậu ở bến cột Đồng Hồ. Mấy cô khách hàng xuống mua, lên tiếng hỏi: Chú lái, chuyến này có gạo tốt không?, rồi nhìn vào trong khoang, thấy nào là tráp khảm, điếu khảm, lại thêm mấy pho sách và hai thư sinh áo xuyến, khăn lượt chỉnh tề, các cô thẹn thùng, chạy một mạch lên bờ, tưởng là xuống nhầm thuyền của các thầy cử, thầy tú. Hai nhà nho ta hết hơi gọi: - Cứ xuống mua. Chúng tôi là lái buôn đây mà. Càng gọi, các cô càng chạy, cho là các ông ấy đùa. Thành thử thuyền đậu mấy ngày mà bán không được, sau phải nhờ một bà xuống ngồi bán giùm, chỉ nửa buổi đã hết. Thực các cụ không ngờ rằng đi buôn cũng phải học như học làm thơ, làm phú, mà cứ nghĩ hễ văn hay chữ tốt thì việc gì làm cũng được. Vụ đó thất bại, cụ Chân Thiết xoay cách khác, hùn với vài đồng chí được độ ngàn rưỡi, mở hiệu Đồng Lợi Tế ở phố Mã Mây. Cụ nghĩ: Người Tàu vơ vét hết quyền lợi thương mại của ta. Bây giờ ta ra tranh với họ, nhất định không bán sản phẩm của Trung Quốc, chỉ chuyên bán thổ hóa. Và cụ chuyên bán gạo cho tù, số lời cũng khá, giúp cho quỹ Nghĩa thục được đôi chút. Ít lâu sau, cụ mở thêm một hiệu thuốc Bắc, hiệu Tụy Phương ở gần ga Hàng Cỏ. Cụ và cụ Phương Sơn thay phiên nhau làm ông lang, nhưng trò cười ở bên gạo lại tái diễn trong hiệu thuốc. Thầy lang trẻ quá, mới trên hai chục tuổi, lại có vẻ sang trọng đẹp trai, 84

85 nên phe phụ nữ tới hốt thuốc, bẽn lẽn vội trở ra hết, gọi gì cũng không quay cổ lại. Cụ Chân Thiết đành yêu cầu một cụ Tú đứng tuổi (cụ Tú họ Phùng người làng Bưởi) và cụ Võ Hoành lại trông nom giùm. * * * Các đồng chí trong Nghĩa thục đều tán thành công việc thực nghiệp đó. Cụ Hoàng Tăng Bí mở hiệu Đông Thành Xương ở Hàng Gai, vừa buôn bán vừa làm công nghệ, lần đầu tiên dùng những khung cửi rộng dệt thứ xuyến bông phù dung lớn (kêu là xuyến bông đại đóa), rồi nhuộm đen, bán rất chạy. Cụ Hoàng còn chế ra các thứ trà tàu, trà mạn, trà hột ướp sen và một thứ giấy hoa tiên để cạnh tranh với Hoa kiều. Hiệu Cát Thành ở Hàng Gai và hiệu Hồng Tân Hưng ở Hàng Bồ, cũng mở vào lúc ấy. Rồi do cụ Tùng Hương 1, phong trào lan tới các tỉnh nhỏ. Hồi đó, tỉnh Phúc Yên 2 mới thành lập, cụ lên đấy mở hiệu Phúc Lợi Tế; lại xuống Hưng Yên mở hiệu Hưng Lợi Tế. Cụ thấy chuyên bán nội hóa thì ít hàng quá, không mau khá được, nên cụ đổi phương sách, bán đủ mọi thứ tạp hóa, bất kỳ nội hay ngoại. Cũng năm 1907, một đồng chí khác, cụ Nguyễn Trác, mở một hiệu ở Việt Trì, đặt tên là Sơn Thọ (tức Sơn Tây và Phú Thọ hợp lại). Hết thảy những hiệu ấy tuy là của riêng từng người hoặc từng công ti, nhưng đều đeo đuổi một mục đích: làm nơi tụ họp, liên lạc 1 Anh ruột cụ Phương Sơn, quê ở Phương Khê (Sơn Tây) nên trong Nghĩa thục thường gọi là Đại Phương để phân biệt với cụ Phương Sơn là Tiểu Phương. 2 Theo tác giả Huỳnh Thanh Bình, trong bài Vượt ngục về nước tiếp tục đấu tranh đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 29/04/2008, lãnh tụ ở Phúc Yên là ông Đỗ Văn Phong ( ). (Goldfish). 85

86 các đồng chí, tuyên truyền cho phong trào duy tân, cổ động dùng nội hóa, khuếch trương công nghệ, và có lời thì bỏ vào quỹ Nghĩa thục. Người làm trong hiệu chỉ được nuôi cơm, chứ không lãnh công. Hai hiệu Đông Thành Xương và Sơn Thọ, vốn lớn nhất, trang hoàng đẹp, bán nhiều đồ nội hóa như quạt lông, đồ tre đương tại làng Đại Đồng (Sơn-tây), khay trúc ở Nghệ An, giày Kinh, lãnh Bưởi, lãnh Sài Gòn. Phong trào kích thích đồng bào tới nỗi vài quan lớn đương thời cũng khảng khái xin nghỉ việc để về nhà đi buôn. Như cụ Nghiêm Xuân Quảng 1 đương làm án sát Lạng Sơn, cáo quan về mở hiệu buôn tơ ở Hàng Gai (hay Hàng Quạt?) và chính cụ ngồi cân tơ. Và như sau này độc giả sẽ biết, phong trào lan cả vào tới Nam: tại Sài Gòn có Minh Tân khách sạn của cụ Phủ Chiếu, có Chiêu Nam lầu của cụ Nguyễn An Khang; ở Bến Tre có hiệu thuốc bắc Tư Bình Đường của một nhà nho (khuyết danh) quê ở Quảng Bình; ở Chợ Thủ (Long Xuyên) có hiệu Tân Hợp Long (sau đổi là Tân Quảng Huệ) của cụ Hồ Nhựt Tân 2, ở Long Xuyên có một tiệm của cụ Nguyễn Đình Chung. 1 Cụ nhỏ tuổi mà đậu tam giáp tiến sĩ. Tại làng cụ có hai ông Tổng đốc già tranh nhau chức tiên chỉ, không ai chịu nhường ai, ông thì cậy mình đậu phó bảng, (nhưng chưa được thực thụ tổng đốc, ông thì cậy mình đã thực thụ tổng đốc (nhưng chỉ là ấm sinh, chứ không xuất thân khoa mục). Khi thanh niên họ Nghiêm vinh quy, hai ông già kia không dám tranh, phải nhường ngay ghế tiên chỉ cho chàng. Vì vậy có người tặng họ Nghiêm đôi câu đối: Địa mạch tam vương chung vượng khí, Quốc triều lưỡng chế nhượng anh niên, Mạch đất Ba Vua đúc nên khí vượng, Hai Tổng đốc quốc triều phải nhường người trẻ tuổi. (Mạch đất Ba Vua là nói về khoa phong thủy, giảng hơi dài giòng mà cũng vô ích, chúng tôi xin miễn chú thích). 2 Chính cụ sau này có lần tranh chức Tổng thống với Ngô Đình Diệm. 86

87 * * * Vậy ta có thể nói kết quả về tinh thần rất đáng mừng. Nhưng kết quả về tài chánh cho Nghĩa thục thì không đáng kể, vì hai nguyên nhân: Nguyên nhân thứ nhất là các hiệu ấy, trừ hiệu Cát Thành, chỉ mở được ít năm, khi Nghĩa thục bị rút giấy phép thì cũng lần lượt đóng cửa, mà trong một hai năm đầu lợi chưa có mấy. Nguyên nhân thứ hai, quan trọng hơn là nhà nho buôn bán rất dở. Có cụ bệ vệ quá, khách hàng không dám lại gần. Chẳng hạn, một lần cụ Phương Sơn có dịp lên Việt Trì, lại thăm hiệu Sơn Thọ, tới cửa hiệu, thấy một đám tổng lý đương ngó tủ kính. Cụ mời các ông ấy vào chơi trong hiệu, các ông ấy đáp: - Chúng tôi không dám ạ. Hiệu này là hiệu các quan lớn, chúng tôi không dám. Cụ ngạc nhiên, nhưng khi bước chân vào thì hiểu ngay: ông chủ có vẻ quan lớn thật, ăn cơm mà có gia nhân cầm quạt lông đứng hầu, so với các ông chủ hiệu Hoa Kiều, khác xa quá. 1 Có cụ lại đa tình, không nỡ đòi tiền người đẹp. Khi cụ Chân Thiết bận việc về Nghĩa thục, cụ phải mượn một đồng chí trông nom hiệu Đồng Lợi Tế. Được vài ba tháng, một hôm cụ này nhất 1 Sau, phải để cho một người khác quản lý. Ông này thực tận tâm, nhiệt thành với hội, không mưu lợi riêng nên khi ông mất vì ra huyết quá nhiều lúc mổ tràng nhạc, một đồng chí điếu ông đôi câu đối: Dĩ thương hợp quần, quốc khả danh thê, ninh vị lợi? Lưu huyết ư bệnh, hồn đương tác lệ, vị quan tình. Buôn bán để hợp quần, nước là người yêu, đâu vì lợi? Huyết ra đến nỗi chết, hồn thành quỷ dữ, vị tình thương. 87

88 định xin thôi. Cụ Chân Thiết gạn hỏi mãi, cụ chỉ bẽn lẽn, ngập ngừng, hồi lâu mới dám thú: - Tiểu đệ tự xét không đủ tư cách, lãnh việc đó nữa e có tội với tôn huynh. Tôn huynh còn nhớ con mụ me Tây thầu gạo cho tù đó không? Nó cứ ỳ ra không chịu trả tiền. Nó thiếu hai ba trăm đồng rồi, hỏi lần nào nó cũng bảo nhà nước chưa làm măng đa, măng điếc gì đó, rồi hứa hết tuần này đến tuần khác. - Sao tôn huynh để cho nó thiếu nhiều như vậy? Bắt nó trả hết số cũ rồi mới bán thêm chứ. - Vâng, thì tiểu đệ vẫn tự nhủ lần sau sẽ nhất định không bán chịu. Nhưng lần sau nó tới, vừa mới ở trên xe bước xuống đã nhoẻn miệng cười, rồi lễ phép chắp tay chào đệ, yểu điệu bước vào, vén tà áo xuyến ngồi ở đầu sập mở cái tráp nhỏ của nó ra, hai bàn tay trắng nuốt như búp lan đỡ một miếng trầu thơm phức hoa bưởi, đưa ra mời đệ, thì hồn phách đệ đi đâu mất hết, không thế nào mở miệng ra đòi tiền nó được nữa; thế rồi nó xin khất đến kỳ sau, đệ cũng cho khất, nó lại xin cân thêm gạo, đệ cũng cho cân. Và khi nó về rồi, đệ mới giận đệ là ngu, là dại. Tôn huynh có thương đệ thì kiếm người khác thay đệ; chứ như vậy mãi đệ còn mặt mũi nào trông thấy anh em đồng chí nữa. Cụ Chân Thiết rũ ra cười: - Dại gái như tôn huynh mới có một. Thôi để tôi kiếm người khác thay tôn huynh. Tôn huynh kém Lương Khải Siêu xa. Lương, trong khi trôi nổi vì cách mạng, có lần gặp một mỹ nhân quyến luyến ông ta lắm. Ông ta quyết dứt áo ra đi, sau khi tặng nàng bốn câu này: Hàm tình khảng khái tạ thuyền quyên, Giang thượng phù dung các tự liên. 88

89 Biệt hữu pháp môn di khuyết hám 1, Đỗ lăng huynh muội diệc nhân duyên. Ngậm tình khảng khái tạ thuyền quyên. Sông bến phù dung cũng tự liên Còn có phép màu bổ chỗ khuyết, Anh em họ Đỗ đẹp nhân duyên. 2 Chúa đa tình là cái nòi cách mạng. Nhưng đa tình mà cắt được tình thì mới đáng là cách mạng. Tôn huynh chỉ mới được có một nửa. 1 Nguyên văn cả câu: 別有法門彌闕陷. Chữ 陷, Thiều Chửu đọc là hãm. (Goldfish). 2 Hai câu sau có nghĩa là đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ 89

90 CHƯƠNG IX KHUẾCH TRƯƠNG NÔNG NGHIỆP, KHAI MỎ Tư bản coi ra riêng cũng chung. Nghĩa thục còn khuyến khích đồng chí lập đồn điền để khuếch trương nông nghiệp. Về khu vực hoạt động này, công đầu về Độc tướng quân và cụ Bùi Đình Tá. * * * Không rõ Độc tướng quân tên họ là gì, chỉ biết cụ là con nhà khoa bảng, học giỏi, nhưng ghét thi cử, hưởng ứng phong trào duy tân, rời quê hương ở miền Nam (Hưng Yên hay Phủ Lý?) lên Yên Bái - mà hồi đó ai cũng sợ là nơi ma thiêng nước độc - để mở một đồn điền tại Yên Lập. Vì cụ Phương Sơn cho hay trước, nên Độc tướng quân ra đón cụ tại một ga nhỏ, rồi hai cụ cùng leo lên lưng một con ngựa, về đồn điền. Ngựa không có yên, mà cương thì bằng dây thừng. Đường đồi lúc lên lúc xuống, ngồi ngựa rất xóc, cụ Phương Sơn không quen, ôm cứng lấy bụng Độc tướng quân. Ngựa ngừng trước một trại nhỏ bằng lá cất trên bờ một con sông. Điền tốt độ mươi người, người nào cũng đen thui và ở trần. Chủ nhân dắt khách đi thăm trại, chỉ cho coi mấy chục mẫu rừng đương khai phá thành ruộng; rồi cả hai lại lên ngựa tiến sâu vô rừng, cách trại độ năm trăm thước, tới một cái chòi bên cạnh một lò hầm than. Không khí oi ả, hơi lửa của lò bốc ra hừng hực. Độc tướng quân xin lỗi khách, cởi áo, chỉ bận một cái quần cụt ngồi kể công việc làm ăn cho khách nghe. 90

91 Đồn điền được năm chục mẫu. Cây đốn xuống, chất một nơi. Khi nào điền tốt rảnh công việc ruộng nương thì đốt than. Có thuyền chở than và lúa ra Yên Bái bán. Vì nước độc, điền tốt ở miền xuôi lên, ở được ít tháng, ngã nước, xin về, nên rất khó kiếm nhân công. Trong trại không có một người đàn bà nào cả. Tới bữa, điền tốt bưng lên một phạn cơm gạo đỏ và một đĩa thịt muối. Vừa sẩm tối, muỗi đã bay mịt trời, đưa tay ta quơ được cả chục con mỗi lần. Độc tướng quân phải hun khói, rút thang rồi chủ và khách chui cả vào trong chòi, đóng cửa lại. Không quen chịu cực, sáng sớm hôm sau, cụ Phương Sơn cáo biệt, về tới Hà Nội, tả cảnh cô độc của chủ đồn điền cho bạn bè nghe, và từ đó trong Nghĩa thục ai cũng gọi chủ đồn điền là Độc tướng quân, riết rồi quên hẳn tên thật. * * * Sau Độc tướng quân, là cụ Bùi Đình Tá ở ngỏ Phất Lộc, cùng với một người bạn là cụ Phán Tứ (người Nam Việt) hùn nhau khai phá một đồn điền ở Mỹ Đức, gần chùa Hương. Hồi người Pháp mới mở trường ở Bắc Việt, phát không sách vở giấy bút cho học trò mà cũng rất ít gia đình chịu cho con đi học. Những nhà khá giả đều giữ lề lối cũ, ghét và khinh cái học tây u mà các cụ gọi là cái học vong bản. Chính phủ bắt buộc quá, các quan phủ huyện phải ép các tổng lý cho con đi học. Cụ Bùi Đình Tá chính là một trong những người bị bắt buộc học tiếng Pháp như vậy. Nhờ tư chất thông minh, cụ đỗ đạt, được bổ thông phán rồi thăng tham tá. Nhưng cụ không vong bản như phần đông các quan tham quan phán thời đó, vẫn giữ tính tình nho nhã, chung thân bận quốc phục, nhiệt tâm muốn khai hóa thanh niên, chẳng những dạy giúp Nghĩa thục mà còn lập một cô nhi viện đầu tiên ở Việt Nam. Việc mở đồn điền ở Mỹ Đức chính là để có phương tiện nuôi trẻ mồ côi. Cứ buổi sáng cụ dạy các em đó học vần Quốc ngữ, buổi chiều cho chúng tập 91

92 công việc đồng áng, tùy sức và tùy tuổi của mỗi em. Sáng kiến đó rất mới mẻ, chỉ tiếc cụ không đủ vốn, thất mùa một hai vụ, phải bán cả đồng hồ, bàn ghế trong nhà để chi phí cho cô nhi viện mà vẫn thiếu hụt, rốt cuộc công việc phải bãi bỏ. Thời đó biết bao nhiêu người có thiện chí, chỉ vì thiếu kinh nghiệm và hoạt động lẻ loi mà thất bại. Từ khi đồn điền Yên Lập và Mỹ Đức phải dẹp vì lỗ vốn, chương trình khuếch trương nông nghiệp của Nghĩa thục không được tiếp tục nữa. * * * Một việc ít người biết mà không ai ngờ, là nửa thế kỷ trước các cụ trong Nghĩa thục, ngoài kinh sử ra, có biết chút gì về địa chất học đâu, mà cũng rủ nhau đi tìm mỏ ở miền thượng du Bắc Việt, và đã tìm được nhiều mỏ: than, chì kẽm, lưu hoàng... Các cụ lên miền rừng núi, hỏi dò thổ dân, thấy chỗ nào nghi là có quặng thì đem về ít cục đá đất giao cho phòng thí nghiệm phân tích sau khi đóng tiền 5đ. mỗi lần. Nếu phòng thí nghiệm bảo là có quặng, các cụ đóng thêm tiền đón kỹ sư tới tận nơi xét xem mỏ sâu hay nông, nhiều quặng hay ít; sau cùng lại mướn người cắm mốc bốn bên, vẽ bản đồ xin đóng thuế khai mỏ. Công việc mới bắt đầu thực hành thì phải dẹp vì Nghĩa thục đóng cửa; chỉ còn cụ Bùi Xuân Phái, giáo học Ninh Bình, tiếp tục khai một mỏ than nhỏ ở Nho Quan. Than nằm ngay trên mặt đất, nhưng còn non, người Pháp chê, nên mỏ mới còn lại mà về tay cụ. Cụ đem bán cho Huê kiều, được họ chia cho một phần hùn. Than rất nhẹ, bán rất rẻ, nhưng mỗi tháng cụ cũng được chia lời chừng trăm bạc. Được vài năm cụ mất, người trong nhà bán đứt cho Huê kiều, thì năm sau, họ đào sâu xuống, gặp những lớp than cứng, tốt, rất được giá. Trong sự doanh nghiệp, Huê kiều quả thực bền gan hơn mình nên thường thành công hơn. 92

93 CHƯƠNG X PHÁI BẠO ĐỘNG Khi lên như gió thổi diều, Trong hò xin thuế, ngoài reo hãm thành. Khi cụ Lương Văn Can đứng ra hòa giải hai cụ Sào Nam và Nguyền Quyền mà nói: Theo ý tôi, ngoại viện và tự cường phải đồng thời tiến hành với nhau mới được, cụ đã có ý cùng với cụ Tây Hồ và một số đồng chí trong nước chuyên lo việc duy tân, tự cường; còn việc cầu ngoại viện và bạo động, để Kỳ Ngoại Hầu với cụ Sào Nam đảm nhận. Cụ Sào Nam hiểu như vậy nên từ đó về sau, ít liên lạc trực tiếp với cụ Lương và cụ Tây Hồ, sợ trở ngại cho công việc hai cụ này. Tự nhiên, hai phái ôn hòa và bạo động vẫn ngầm giúp nhau. Hồi đó tinh thần đảng phái ít hơn ngày nay, có thể nói là gần như hoàn toàn không có. Vậy trong Đông Kinh nghĩa thục vẫn có một số đồng chí hoạt động ngầm cho phái bạo động. Hoạt động ngầm thì không hại, nhưng nhiều cụ lại quá hăng hái làm cho người Pháp để ý, chỉ chờ cơ hội để đóng cửa Nghĩa thục. * * * Trong số quá khích, ngay nhà cụ Lương cũng đã có ba người rồi. Lương Trúc Đàm, chắc độc giả còn nhớ, đã cùng với Dương Bá Trạc tổ chức cuộc diễn thuyết ở đền Ngọc Sơn rồi lại cùng với Đỗ Chân Thiết đầu thư xin chính phủ Pháp lập ngay nền đại học Việt Nam. 93

94 Lương Ngọc Quyến thì một mình trốn qua Nhật (1905) học trường Chấn Võ khi thành tài được cụ Sào Nam phái về nước hoạt động, do một tên phản đảng tố cáo, bị Pháp bắt giam ở Thái Nguyên, tra khảo tới què chân, tháng 8 năm 1917 mưu với Đội Cấn phá ngục và tấn công Thái Nguyên. Sau này, chúng tôi sẽ có dịp nhắc lại chuyện đó. Còn Lương Nghị Khanh, cũng qua Nhật học, bị chứng tràng nhạc, chữa không hết, sợ khí hậu lạnh bên đó, năm 1916 bèn qua Xiêm, lén về Nam Vang (cụ Lương Văn Can đương bị an trí tại đây) rồi chết, hồi 30 tuổi 1. Ngoài họ Dương và ba anh em họ Lương, ta nên kể thêm cụ Võ Hoành, cụ Đỗ Chân Thiết và cụ Nguyễn Tùng Hương. Cụ Võ là con cụ Tú ở làng Thịnh Liệt (Hà Đông). Nhà cụ có hai người làm cách mạng. Một người chị của cụ - mà hồi đó đồng chí gọi là Chị Bảy - biết chữ Hán, gia nhập nghĩa thục, làm liên lạc viên, thường đi từ Bắc vô Nam, từ Nam qua Tàu, mua bán thổ sản mỗi nơi, kiếm tiền quyên trợ cho du học sinh. Bọn trành 2 thấy là đàn bà, vả lại quen mặt, không nghi ngờ gì cả. 1 Trước khi về Nam Vang, cụ cải trang làm Huê Kiều, tìm lại thăm cụ Phương Sơn anh rể cụ, đương mai danh tại miền Đốc Vàng Thượng ở đồng Tháp Mười. Gặp tết Nguyên đán, cụ khẩu chiếm một bài thơ Đường luật: Cái duyên bèo nước gặp nhau đây, Mười một năm nay chén rượu này. Ý khí tung hoành trong bốn biển, Tinh thần thông suốt ngoại ngàn mây. Vịt hầm chả nướng phong lưu cũ, Kẻ Huế người Ngô nghĩa bạn dầy Năm mới hôm nay ngày cũng mới, Cùng nhau chúc chén rượu cho say. Trong câu sáu, kẻ Huế chỉ cụ Phương Sơn vì người nơi đó gọi cụ Phương Sơn là thầy Huế, còn người Ngô là cụ Nghị Khanh tự chỉ mình. 2 Tiếng lóng của các cụ thời đó chỉ bọn mật thám. 94

95 Người thứ hai là cụ. Cụ cao mà gầy, gân guốc, đặc biệt nhất là tiếng nói sang sảng và lưng ngay như cây cột. Hình như cụ không khom lưng được, nên lúc về già, thường nói với người thân: Chính vì cái lưng tôi nó không cong được nên tôi mới bị Hoàng Trọng Phu nó sai lính căng nọc tôi ra, nhưng rồi nó cũng chẳng làm gì nổi tôi cả. Cụ thi vài khoa, không đậu, 1 vào Nghĩa thục quyên tiền và tuyên truyền cho trường. Rất nóng nảy, khảng khái thường tự nhận là đầu gáo 2, không sợ chết, rất thích ngâm bài thơ dưới đây của Tây Hương Long Thạnh, một nhà ái quốc Nhật (coi phụ lục III). Tuy nhiên, cụ chưa có cơ hội hoạt động thì năm 1909 đã bị Pháp đày ra Côn Đảo. * * * Hai cụ ngấm ngầm mà hoạt động khá tích cực là cụ Đỗ Chân Thiết và cụ Nguyễn Tùng Hương. Cụ Đỗ liên lạc với cụ Sào Nam, dùng ngôi nhà số 2 ở ngõ Phất Lộc của cụ Tùng Hương và Phương Sơn làm chỗ chứa súng lục và thuốc phiện lậu 3. Ngôi nhà này rất tiện cho việc chứa đồ quốc cấm. Nó ở trong một ngõ hẻm, lại tối om om, sâu hun hút, bề ngang không đầy ba thước mà chiều dài non năm chục thước, có hai ba cái TRÀNH vốn là chữ Hán, một bên chữ NHÂN đứng, một bên chữ TRÀNG là dài, nghĩa là ma cọp. Theo mê tín thời xưa, hễ ai bị cọp ăn thịt thì hồn phải theo cọp để dắt cọp đi ăn thịt kẻ khác như vậy hồn mới thoát. Bọn mật thám dắt Pháp bắt đồng bào nên các cụ gọi là trành. 1 Sau này, bị an trí ở Sa Đéc, nguời ta thấy cụ hay chữ, nên gọi là cụ cử. 2 Ngày xưa, những người bị chém và bêu đầu thì thân nhân chỉ được xin thây về, rồi lấy sọ gáo dừa thay đầu mà chôn 3 Từ hồi nào tới nay, ở nước ta mà có lẽ cũng ở toàn cõi Á đông nữa, đảng cách mạng nào cũng buôn thuốc phiện lậu để có tiền. 95

96 gác xếp, phải khòm lưng, rờ từng bước mới leo lên được, phía sau cùng lại có một cái vườn nhỏ thông qua ngôi nhà số 4 1, mà ngôi nhà này rất rộng, có tới hai ba lớp vừa mái lá vừa mái ngói, mỗi lớp có bốn năm cái phòng mà nhiều chỗ ánh sáng mặt trời không bao giờ lọt tới. Thật là ngoắt ngoéo như một mê thất. Lính kín mà có dò la ra, mới vào được nhà số 2, còn mò mò từng bước để tiến thì chủ nhân đã có đủ thì giờ chuyền những đồ quốc cấm qua nhà số 4 rồi đóng cánh cửa thông hai nhà lại và từ nhà số 4 lại chuyền qua những nhà khác một cách rất dễ dàng 2. Vì cụ Sào Nam liên lạc với bọn Vân Nam du học sinh ở phố hàng Bún, và lập một hội tên là Song Nam Đồng Minh hội, 3 nên cụ Đỗ cũng quen biết bọn đó. Lần đầu tiên lại thăm họ, cụ đi với cụ Phương Sơn. Vì Hán văn lưu lợi, cụ Phương Sơn được cử ra bút đàm. Hai bên chào hỏi nhau xong, Hà Thiệu Tăng 4 thay mặt du học sinh, cầm bút hạ ngay câu: Đệ dữ chư huynh giai vong quốc nhân dã (Em và các anh đều là người mất nước) rồi thao thao bất tuyệt, thảo một hơi hai trang giấy để bàn về tình hình Hoa, Việt. Cụ Phương Sơn mới đọc câu đầu đã tấm tắc khen là vào đề gọn mà hùng, rồi càng coi tiếp càng thán phục họ viết hơn mình xa. Mình chỉ quen gò đẽo thơ phú, còn phóng bút bàn về thời sự, quốc tế thì họ viết được bốn, mình viết chỉ được một. Sau này, Tôn Văn có lần qua Hà Nội, Hải Phòng quyên tiền được mười vạn đồng, hình như có hội đàm với cụ Đỗ Chân Thiết. 1 Nhà số 4 của cụ Đặc Như, thân phụ của cụ. (Goldfish). 2 Hai ngôi nhà đó đều của cụ Tú họ Lê ở Đan Loan (Hải Dương), cụ ngoại của tác giả. 3 Song Nam là Việt Nam và Vân Nam. Hội này chỉ có danh chớ không có thực. 4 Sau làm trong bộ Ngoại giao Ở Thượng Hải. 96

97 Cụ Nguyễn Tùng Hương tính tình điềm đạm, nhưng rất cương nghị, hoạt động kín đáo hơn. Cụ là con cụ Tú họ Nguyễn làng Phương Khê (Sơn Tây) 1 rất có hiếu, nghe lời cha, rán học hành cho tinh thông, nhưng không thích lối văn khoa cử, cũng không ứng thí một lần nào, ngày tết dán đôi câu đối ở cửa ngõ: Thực hoạch ngã tâm hoa sắc hảo, Si cường nhân ý pháo thanh oanh. (Tinh thần tươi trẻ màu hoa đẹp Ý chí tung hoành tiếng pháo vang.) Cụ sớm nuôi cái chí lớn, lấy Tổ quốc làm vợ như Mazzini 2, nên người thân khuyên bảo rồi ép buộc, cụ cũng không chịu lập gia đình, trốn đi ở chùa. Biết vậy, không ai cưỡng ý cụ nữa, và từ đó cụ chuyên lo quốc sự, lãnh chức giáo sư trong Nghĩa thục, làm liên lạc viên cho phái Đông du. Mới đầu cụ hoạt động kín đáo, sợ liên lụy đến cha già, sau Nghĩa Thục bị đóng cửa và cụ Tú đã mất, cụ qua Trung Quốc, theo cụ Sào Nam, và trong đại chiến thứ nhất, năm 1914 hay 1915, cụ cùng với cụ Huỳnh Trọng Mậu (người Nghệ An tục gọi là Tú Mậu), được Đức giúp tiền, mua ít khí giới, trở về nước tấn công một vài đồn nhỏ ở miền Lạng Sơn. Việc thất bại, cụ lẻn được qua Xiêm cải trang ở chùa ít lâu rồi cũng bị bắt. Còn cụ Huỳnh ở Trung Hoa, sau Trung Hoa vào phe Pháp chống Đức, đội quân của cụ bị giải tán. Vụ Thái Nguyên nổ, cụ tập hợp được ít quân, lại đánh vào Lạng Sơn, nhưng lính tập không hưởng ứng, cụ thua, định qua Xiêm, tới 1 Ông nội tác giả. 2 Mazzini: các nhà nho đương thời phiên âm là Mã Chí Nê, ông là nhà yêu nước lớn Ý, nguyện lấy tổ quốc làm vợ, suốt đời mặc y phục màu đen để để tang cho tổ quốc. Cụ Phan Châu Trinh rất hâm mộ ông, nên từng hi vọng làm được như ông, nên cụ Phan đặt biệt hiệu cho mình là Hi Mã (BT) (theo cụ Huỳnh Thúc Kháng). 97

98 Hương Cảng bị Pháp bắt, đem về Hà Nội bắn (1916). Khi sắp chết cụ ngâm đôi câu đối: Ái quốc hà cô, duy hữu tinh thần lưu bất tử, Xuất sư vị tiệp thả tương tâm sự thác lai sinh. Yêu nước tội gì, chỉ có tính thần là còn mãi. Ra quân chửa được, nguyện đem tâm sự gởi đời sau. Cụ Lương Văn Can thấy nhiều đồng chí hoạt động mỗi ngày một kịch liệt, ra ngoài hẳn đường lối của Nghĩa Thục (chẳng hạn mua và chở khí giới về Hà Thành, đưa thanh niên lên Yên Thế với Đề Thám...), sợ người Pháp ra lệnh đóng cửa trường mà tổ chức tan tành mất, không biết bao giờ mới khôi phục lại được, nên trong một cuộc hội họp, có đề nghị với hội viên tách ra làm hai phe, ai ôn hòa thì ở lại, còn ai muốn bạo động thì biệt lập ra. Đề nghị đó ai cũng cho là phải, song chưa kịp thi hành thì Nghĩa Thục đã bị thu giấy phép. 98

99 CHƯƠNG XI NGHĨA THỤC BỊ ĐÓNG CỬA Cách hoạt động người mình còn dại. Sức cường quyền ép lại càng mau. Toàn quyền Beau được hả dạ một chút sau cái vụ mở trường Đại học trong một tuần, nhưng vẫn căm gan vì bài Thiết tiền ca đã phá tan kế hoạch kinh tế của ông. Người Pháp biết chắc rằng tác giả bài đó là một người trong Nghĩa thục, song chưa nắm được bằng cớ rành rành, nên còn để ý dò la; tới khi thấy các nhà ái quốc của ta hoạt động mỗi ngày mỗi hăng, mà ảnh hưởng tới dân mỗi ngày mỗi lớn, họ thẳng tay đàn áp liền. Đầu năm 1908 (tháng chạp năm Đinh Mùi), họ thu giấy phép của Nghĩa thục, lấy cớ rằng có thể làm cho lòng dân náo động. Tính ra trường hoạt động trước sau được khoảng một năm, những tháng đầu không có giấy phép, chín tháng sau có giấy phép. Tin chưa ra, các cụ đã đoán được trước, thủ tiêu hết những giấy tờ quan trọng, nhất là bản in các bài ca ái quốc và những sách của cụ Sào Nam gởi về; còn một số sách học nào có thể làm lụy cho hội viên thì giấu kỹ, nên khi nhân viên sở Liêm phóng tới xét, không bắt được gì cả, và hội viên không ai bị giam cầm. Có lẽ hồi đó họ xét không kỹ như hồi sau này và cũng còn đương bủa lưới, đợi lúc bắt trọn một mẻ. Họ sai những tên trành rình hàng tháng ở chung quanh Nghĩa thục. Bọn này thay phiên nhau đứng ở máy nước đầu phố hàng Bạc, ngó qua nhà cụ Lương, thấy ai khả nghi ra vào thì bắt đưa giấy thuế thân, ghi tên họ và địa chỉ liền. Họ còn khờ, làm công khai như vậy, nên các nhà cách mạng biết mà đề phòng, rốt cuộc không bắt được ai, họ chán và một tên trành phàn nàn với bạn 99

100 đồng nghiệp: Có thấy gì đâu, mà chúng nó cũng bắt chúng mình ngồi rình suốt ngày, tới nửa đêm như thế này. Mưa phùn lạnh buốt xương. Đợi lúc trường bớt bị dòm ngó, cụ Lương sai người chuyển lần những sách của thư viện trong trường qua nhà cụ Phương Sơn ở số 2 ngõ Phất Lộc. Ngày nào cụ Phương Sơn cũng nhận được những quả 1 sơn son do các u già đội lại, nói là của cụ Tú này, cụ Phán nọ cho đem bánh lại biếu, mở ra thì toàn là sách. Cụ Phương Sơn phải đốt trọn ba đêm mới hết. Một người bồi ở với tây, từ trên gác nhà bên cạnh, ngó xuống thấy ngọn lửa cháy suốt đêm, phải hỏi: Nhà bên đó nấu bánh chưng hay làm gì vậy? * * * Vậy công việc dạy học và diễn thuyết phải dẹp, còn công việc chấn hưng công nghệ vẫn tiến hành, nhưng ít lâu sau những hiệu buôn cũng lần lần phải đóng cửa vì nhiều cụ tạm lánh mặt, nên thiếu người quản lý. Như ở Hà Thành, hàng hóa ở các hiệu Đồng Lợi Tế, Tụy Phương... dồn cả về hiệu Hồng Tân Hưng ở hàng Bồ và giao cho cụ Võ Hoành trông nom. Hiệu này có sáng kiến đón học sinh trường bách nghệ để đúc các đồ đồng như bình bông, hoặc sơn những khay trà, làm cho nền tiểu công nghệ nước nhà tiến được một bước. Muốn lung lạc các giáo sư trong Nghĩa Thục, viên Thống sứ ra nghị định bổ hai cụ Hoàng Tích Phụng 2 và Nguyễn Quyền trong ti Giáo huấn. Cụ Nguyễn trước làm huấn đạo, nay thăng Giáo thụ, nhưng không được ở Lạng Sơn nữa mà phải về một phủ nhỏ ở Phú Thọ. 1 Tức những hộp lớn bằng cái mâm, cao độ một gang, có nắp, làm bằng gỗ. 2 Cụ là thân sinh của Hoàng Tích Chu, một nhà báo nổi danh thời trước, đã có công dùng một lối văn gọn gàng, có khi gọn quá, để viết, tờ Đông Tây. 100

101 Hai cụ Lương Trúc Đàm và Dương Bá Trạc vì đậu cử nhân, được bổ tri huyện, song cả hai đều từ chối. * * * Các nhà nho tưởng như vậy đã yên, không ngờ mấy tháng sau, ba biến cố quan trọng xảy ra trong nước làm cho các cụ bị lụy. Trước hết là vụ kháng thuế ở Quảng Nam. Vụ này ảnh hưởng lớn quá, mở đầu cho những cuộc biểu tình vĩ đại về sau. Hàng vạn người, đều hớt tóc, kéo nhau lại vây tòa sứ Quảng Nam để xin giảm thuế. Viên Công sứ không chấp đơn, ra lệnh giải tán, vô hiệu, phải cho lính bắn vào đám biểu tình làm một số người chết. Phong trào từ Quảng Nam lan vào các tỉnh miền Nam Trung Việt. Chính phủ Pháp đổ tội cho các cụ Sào Nam, Tây Hồ, Trần Quí Cáp, Huỳnh Thúc Kháng đã xúi dân nội loạn. Cụ Sào Nam lúc đó ở Nhật, chúng không làm gì được, cụ Trần Quí Cáp mà các quan lại Việt ghét nhất vì tính khinh mạn của cụ, bị chém ở Nha Trang 1, cụ Huỳnh Thúc Kháng bị bắt ở quê đem giam tại Hội An và cụ Tây Hồ đương ở Hà Nội, cũng bị còng tay giải về Huế 2. 1 Cụ Trần Quí Cáp hô hào cho tân học, muốn qua Nhật, vì có mẹ già chưa đi được thì đã bị họa, nên cụ Huỳnh Thúc Kháng có điếu cụ một bài thơ chữ Hán rồi lại tự dịch ra. Bốn câu bài đó như sau: Quyết đem học mới thay nô kiếp, Ai biết quyền dân nẩy họa nguyên? Bồng Đảo gió chưa đưa giấc mộng, Nha Trang cỏ đã khóc hồn thiêng. (Bồng Đảo tức Nhựt Bản) 2 Cụ Tây Hồ không nhúng tay vào vụ này, vì cụ vẫn tuyên bố: Không trông người ngoài, trông người ngoài thì ngu; không bạo động, bạo động thì chết; ai là kẻ đồng nhân đồng bào ta, ai là kẻ thật yêu tự do, ta chỉ có một vật rất quý để tặng: chi bằng học! 101

102 Sau vụ xin sưu này, một nhà nho (khuyết danh) làm một bài văn tế ngày nay chỉ giữ được một phần trong đó tả cảnh khốn đốn của dân quê khi chạy sưu: Sưu chưa kịp, phòng chánh đến, phòng phó đến mà phòng cai đến; buộc nhành thắt cổ, phút xui nên nọc nọc vồ vồ. Thuế chưa có ra, bán gà đi, bán lợn đi, lại bán bò đi, bán trốt lột xương, tay mới khỏi gông gông trói trói. Cám cảnh nhẽ tiền không gạo hết, lấy gì nuôi con trẻ thơ ngây; Xót thay thịt nát xương mòn, lấy gì cấp mẹ cha yếu đuối? Vụ thứ nhì là âm mưu bạo động của Đề Thám. Khi người Pháp cho Đề Thám lập ấp ở Nhã Nam, cả hai bên đều nghĩ đó chỉ là một giải pháp tạm bợ. Không lẽ nào trên lãnh thổ Việt Nam lại có một khu vực tự trị ở Yên Thế, có quân đội riêng, hành chánh riêng, tài chánh riêng được. Trước sau gì hai bên cũng phải một còn một mất. Năm 1908, Pháp dò la, biết Đề Thám vẫn giao thiệp với Sào Nam, thu dụng thêm nghĩa binh ở miền Thanh Nghệ, lập thêm đồn, mua thêm khí giới, bèn ra tay trước; tháng sáu 1908, xử tử mười hai người hoạt động cho Đề Thám rồi đầu năm sau, tấn công nghĩa quân. 1 Vụ thứ ba là vụ đầu độc quan binh Pháp ở Hà Nội cũng năm 1908, có lẽ do đảng viên của Đề Thám chủ mưu. Việc thất bại, Bếp Hiên và sáu người nữa trong cơ lính nhà bếp bị xử tử. Bài thơ lục bát Hà Thành đầu độc 1908 (khuyết danh) làm năm 1912 đã chép lại từng chi tiết của vụ này; nhưng chỉ ghi bốn nhà liệt sĩ: Nguyễn Chí Bình, Nguyễn Cốc, Đặng Nhân, Nguyễn Đức A (tức cai Nga), đều ở trong đội lính khố đỏ, và bà hàng cơm, Nguyễn Thị Ba bị giết lây: 1 Nghĩa quân tan rã và không bao lâu sau, (1913) Đề Thám bị phản và hạ sát trong khi ngủ. 102

103 Ôi thương thay! Ôi thương thay! Kể sao cho xiết chết lây những người. Văn mình thật đã lạ đời, Đàn bà giết cả đến người hàng cơm. Thôi thôi trâu béo cỏ rơm, Trăm nghìn phó một mũi gươm là rồi. Khen cho liệt sĩ bốn người, Một lòng vì nước, muôn đời tiếng thơm. Trong nước đã náo động và Pháp muốn trừ hậu họa, cho bắt hết thảy các nhà cách mạng Nghĩa thục. * * * Một nhân viên sở Liêm phóng tới mời cụ Lương vào trình Hoàng Trọng Phu ở Thái Hà ấp. Trong nhà, nhiều người lo cho cụ, cụ cười và nói: tôi đã bảy chục tuổi rồi, họ làm gì tôi?. Thực ra, cụ lúc đó mới 54, 55 tuổi, nhưng râu tóc bạc phơ, người không biết đều tưởng cụ đã thất tuần. Có lẽ nhờ vậy mà Hoàng Trọng Phu đối với cụ nhã nhặn, bảo cụ khai mọi việc, cụ chỉ ôn tồn đáp: - Chúng tôi mở Nghĩa thục để giúp chính phủ khai hóa dân trí, và chính phủ đã cho phép. Từ khi chính phủ rút phép, thì chúng tôi thôi, không hoạt động gì cả. Hoàng Trọng Phu vỗ về cụ mấy câu rồi để cụ về, nhưng tới năm 1913, sau vụ ném tạc đạn ngày 23-4, người Pháp cho là do nhóm Nghĩa thục cầm đầu, bắt giam cụ ít lâu rồi đưa cụ đi an trí Nam Vang mười năm. Cụ Võ Hoành vì quá khảng khái, bị Hoàng Trọng Phu sai lính căng nọc nhưng chỉ dọa chứ không đánh. Cụ Dương Bá Trạc hay tin, trốn được, người Pháp sai bắt cụ Khóa là thân sinh của cụ để tra khảo. 103

104 Cụ Khóa vẫn vui vẻ viết thư cho con, có câu: Tổ quốc khả dĩ vô ngã, bất khả dĩ vô nhi 1, có ý khuyên con đào tẩu; nhưng vì lòng hiếu, cụ Dương ra mặt để cha được thả. Cụ Nguyễn Quyền lúc đó đương làm Giáo thụ ở Phù Ninh cũng bị bắt đưa về Hà Đông để lấy khẩu cung. Cụ Lê Đại mà chính phủ rất ghét vì những bài ca của cụ bị buộc tội là đồ đảng của Đề Thám và dự cuộc âm mưu đầu độc ở Hà Thành. Hai cụ Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Duy Tốn bị bắt sau mấy ngày, cũng bị dẫn vào Hà Đông, nhưng chỉ bị giam một ngày rồi được thả, có lẽ vì Hoàng Trọng Phu biết hai cụ không hề bạo động. Cụ Hoàng Tăng Bí nhờ nhạc gia là cụ Cao Xuân Dục 2 đương làm Học bộ thượng thư bảo lãnh nên được thả và chỉ bị an trí ở Huế. Ở đó, nhân gặp một khoa thi Hội, cụ nộp quyển và đậu phó bảng. Còn những cụ khác không bị để ý tới lắm, lén lút trốn được. Những cụ bị bắt đều phải ra tòa Đề hình, và bị kêu án trảm giam hậu, 3 sau đổi làm chung thân khổ sai mà đày ra Côn Đảo (1909). Tới Côn Lôn, các cụ gặp hai cụ Tây Hồ và Huỳnh Thúc Kháng. Cụ Tây Hồ bị Nam triều thâm oán vì trong bức thư gởi lên Toàn quyền năm 1906, cụ mạt sát quan lại quá dữ, phải mang cái án trảm quyết. 4 Nhưng nhờ hồi ở Hà Nội, cụ chơi thân với Babut, chủ nhiệm tờ Đại Việt tân báo, và có chân trong hội Nhân quyền, nên 1 Tổ quốc không có cha không sao, không có con thì không được. 2 Cụ Cao Xuân Dục cũng khảng khái, hồi làm Tuần phủ Sơn Tây, cự nhau với viên Công sứ về vấn đề thuế má, viên Công sứ giận, giơ ba toong lên, cụ cũng xách ngay ghế định phang lại. Viên Công sứ nén giận, tỏ vẻ hòa nhã, và xét lại vấn đề. 3 Nghĩa là bị tội chém, nhưng chưa chém ngay. 4 Nghĩa là chém ngay. 104

105 được Babut tận tâm can thiệp, lên thẳng phủ Toàn quyền xin tái thẩm, phủ Toàn quyền ra lệnh cho Nam triều xử lại và Triều đình đổi án trảm quyết ra án trảm giam hậu; Babut lại can thiệp nữa, Triều đình lại bắt buộc phải đổi làm án Côn Lôn ngộ xá bất nguyên, nghĩa là bị đày Côn Đảo, dù gặp dịp ân xá cũng không được hưởng. Khi bước chân ra khỏi cửa lao Phủ Thừa cụ ngâm bốn câu bất hủ: Luy tuy 1 thiết tỏa xuất đô môn, Khảng khái bi ca thiệt thượng tồn. Quốc thổ trầm luân, dân tộc lụy 2, Nam nhi hà sự phạ Côn Lôn. mà Phan Khôi dịch ra như sau: Mang xiềng nhẹ bước khỏi đô môn, Hăng hái cười reo lưỡi vẫn còn. Đất nước hãm chìm dân tộc héo, Làm trai chi sá thứ Côn Lôn. Từ khi cụ Võ Hoành bị đày, cụ Hoàng Tăng Bí bị an trí, hiệu Hồng Tân Hưng và Đông Thành Xương ở hàng Gai đóng cửa luôn. Rốt cuộc chỉ còn hiệu Cát Thành mà chủ nhân là một nhà buôn chỉ có thiện cảm với Nghĩa thục chứ không phải là hội viên, thì đứng vững hoài cho tới đầu thế chiến vừa rồi. Những vụ bắt bớ đó làm những nhà chí sĩ có cảm tình với Nghĩa thục hoặc liên lạc với cụ Sào Nam cũng bị liên lụy. Trong số những 1 Luy tuy (nguyên văn chữ Hán là: 縲綏 ): sách in là Luy luy; tôi sửa lại theo Wikisource. (Goldfish). 2 Luỵ (nguyên văn chữ Hán là: 纍 ): sách in là: tuỵ; tôi sửa lại theo Wikisource. (Goldfish). 105

106 nhà chí sĩ ấy, ta nên kể cụ Nguyễn Thượng Hiền và cụ Ngô Đức Kế. Cụ Nguyễn hiệu là Mai Sơn 1, người bé nhỏ, trắng trẻo, thanh nhã như con gái, tính tình điềm đạm, đã thông minh lại ham học, ngay từ nhỏ đã khăn áo tề chỉnh như người lớn, 16 tuổi đậu cử nhân, năm sau thi Hội, đỗ Đình nguyên, nhưng chưa kịp truyền lô thì kinh thành thất thủ (1885), khoa đó xóa bỏ. Năm 1892 thi lại, đậu nhị giáp tiến sĩ (Hoàng giáp) còn Vũ Phạm Hàm đậu nhất giáp tiến sĩ, làm Toản tu ở Quốc sử quán. Văn thơ cụ rất lưu loát, thanh dật, có giọng xuất trần, khác hẳn giọng tình tứ, bóng bảy của họ Vũ. Thi đậu ít lâu, cụ được bổ đốc học Ninh Bình, rồi đổi đốc học Nam Định, năm 1907 chính phủ Bảo hộ phế vua Thành Thái, cụ đến tận phủ Toàn quyền để kháng nghị, rồi bỏ quan về vườn. Pháp ghét cụ; nhưng vì lẽ này lẽ nọ chưa hạ thủ, thì ít tháng sau biết ở nữa sẽ không yên, cụ bí mật ra đi, không cho một ai hay, cả cụ bà cũng không biết. Cụ cải trang làm đàn bà, do đường Mông Cái qua Quảng Đông tìm cụ Tôn Thất Thuyết là nhạc gia của cụ. Sau cụ liên lạc với cụ Sào Nam, qua Nhật rồi lại về Trung quốc, cho tới khi chán ngán vì bọn trành mà đồng chí sa lưới gần hết, cụ đầu cửa Phật ở Hàng Châu (tỉnh Chiết Giang), rồi mất ở đó (1925). Chúng tôi xin giới thiệu dưới đây một bài thơ chữ Hán của cụ mà ít người biết: LỮ NGÔ Thặng thủy tàn sơn lạc nhật dao, Quốc hồn diểu diểu cánh nan chiêu. Sinh vi độc hạc qui hà ích? Tử hóa ai quyên hận vị tiêu! Hoàng hải nộ đào thu phủ kiếm. 1 Sinh năm 1868 ở làng Liên Bạt (Hà Đông). 106

107 Ngô môn hàn nguyệt dạ xuy tiêu. Duy dư tráng trí hồn như tạc, Vạn trượng hồng nghê quán tử tiêu. Ở TRỌ ĐẤT NGÔ Nước thẳm non xa, lặn bóng chiều, Chơi vơi hồn nước biết nơi nào Sống làm hạc lẻ về vô ích, Thác hóa quyên sầu hận chửa tiêu! Hoàng hải chống gươm, thu sóng réo, Ngô môn thổi sáo 1 tối trăng treo. Còn chăng, tráng chí nguyên như cũ? Lên vút từng mây muôn trượng cao! Đông Xuyên dịch Giọng thơ của cụ vừa bi hùng, vừa phiêu diêu, nửa như tiếng hạc, nửa như tiếng quyên, nửa như tiếng sóng, nửa như ánh trăng, thật đúng với đời của cụ. Còn cụ nghè Ngô Đức Kế ( ) hiệu là Tập Xuyên bị đày Côn Đảo trên mười năm, 1921 mới được thả. Cụ quê ở làng Trảo Nha, Hà Tĩnh, con nhà thế gia ba đời đậu tiến sĩ. Khi được trả tự do, cụ ra Hà Nội làm chủ bút tờ Hữu Thanh, rất ghét văn thơ lãng mạn, cực lực bài xích Phạm Quỳnh trong việc hô hào kỷ niệm Nguyễn Du và Truyện Kiều. Thơ của cụ có giọng chua cay, như thơ cụ Huỳnh Thúc Kháng, khác hẳn giọng cụ Mai Sơn. Năm 1923, Khải Định làm lễ tứ tuần đại khánh, cụ làm bốn bài bát cú Đường luật mà tôi xin chép lại hai bài đầu: 1 Ngũ Tử Tư đi trốn, đến Lăng Thủy, đói, vỗ bụng, thổi sáo, xin Ngô thị cho ăn. 107

108 HỎI GIA LONG Ai về địa phủ hỏi Gia Long, Khải Định thằng này phải cháu ông? Một lễ tứ tuần vui lũ trẻ, Trăm gia ba chục 1 khổ nhà nông. Mới rồi ngoài Bắc tai liền đến, 2 Năm ngoái qua Tây ỉa vãi cùng. 3 Bảo hộ trau dồi nên tượng gỗ Vua thời còn đó, nước thời không! Nước thời không có, có vua chi? Có cũng như không chả ích gì! Người vét đinh điền còn bạch địa 4 Ta khoe dụ chỉ tự đan trì! 5 Cấp tiền nguyệt bổng vinh nào có? 6 Ăn của quan trường, tệ lắm ri! Thọ lắm lại càng thêm nhục lắm. Nhỏ cu li, lớn cũng cu li! 1 Năm 1923, thực dân Pháp và triều đình Huế tăng thuế 30%. 2 Năm , Bắc Kỳ bị lụt. 3 Năm 1922, Khải Định đi dự đấu xảo ở Paris, làm nhiều việc nhục quốc thể, bị Phan Châu Trinh vạch tội bảy điều. 4 Người (tức Pháp) đánh thuế nặng quá, nông dân phải bỏ ruộng hoang. 5 Ta (tức Khải Định) ban chỉ dụ từ thềm son (chỗ vua ở). 6 Khải Định được Pháp cấp cho mỗi tháng một vạn đồng. 108

109 CHƯƠNG XII SAU KHI TAN RÃ Ngô thân bất thành, kỳ chi ngô tử 1 Chính phủ Pháp muốn tiêu diệt hẳn phong trào cách mạng, nên chẳng những đàn áp dữ ở trong nước mà còn tìm cách trừ những nhà ái quốc hoạt động ở hải ngoại. Một mặt họ tung ra một bọn trành qua Trung Hoa, Xiêm, Nhật để dò la tung tích các nghĩa đảng, một mặt dựa vào hiệp ước Pháp-Nhật mà yêu cầu chính phủ Nhật bắt giao cho họ những người đầu đảng và giải tán đoàn học sinh. Nhật còn muốn cầu thân với Pháp, sá gì những thanh niên Việt Nam mà chẳng hy sinh cho Pháp vui lòng? Vì vậy, sách vở, truyền đơn của đảng đều bị tịch thâu, hơn hai trăm du học sinh mà non nửa là người Nam bị trục xuất, chính cụ Sào Nam và Kỳ Ngoại Hầu cũng phải rời khỏi đất Nhật. 2 Nhắc lại thời hắc ám ấy của lịch sử cách mạng Việt Nam, cụ Sào Nam than thở: Cảnh thất bại của tôi lúc này thật là đau đớn, hình như con người bị lột da xé thịt, không còn chỗ nào lành lặn nữa! Phong trào Đông Du do cụ chủ trương mà nay hàng trăm thanh niên 1 Lời của một nhà cách mạng thời đó: thân ta không thành thì mong ở con ta. 2 Có sách chép một sinh viên, Trần Đông Phong, uất ức quá, tự ải sau khi đề lại hai câu tuyệt mạng: Thời dữ thế dị, sự dữ tâm di, Hư sinh đồ nhuế, hà dĩ vi sinh? (Thời với thế đổi việc với lòng khác. Sống thừa vô ích, sống để làm gì?). Nhưng theo cụ Phan Sào Nam trong cuốn Tự phán thì Trần Đông Phong tự tử vì cha mẹ giàu có mà không gởi tiền qua, chứ không phải uất ức vì bị Nhật đuổi. 109

110 tuấn tú, nhiệt thành của quốc gia sa vào cảnh bơ vơ, không biết nương tựa ở đâu, ruột nào mà không đứt? Hỡi ơi? Trời đất mênh mông rộng, biết kiếm nơi nào để đặt chân. 1 Thế là phong trào Đông Du đương lúc thịnh thì bị dẹp. Cụ đành thu xếp cho một số thanh niên qua Trung Quốc, một số qua Xiêm; năm 1909 cụ cũng qua Vọng Các còn Kỳ Ngoại Hầu cải trang làm bồi bàn về Nam Việt. Chuyến về nước này cực kỳ mạo hiểm, nhờ sự tận tâm che chở của hai đồng chí trong Nghĩa thục ở Sài Gòn mà Kỳ Ngoại Hầu được bình an. Như trên chúng tôi đã nói, do những liên lạc viên mà ảnh hưởng của Nghĩa thục lan vào tới Nam. Tại Sài gòn, hai nhà chí sĩ đầu tiên gia nhập phong trào là cụ Nguyễn An Khang và Nguyễn An Cư ở Hóc Môn 2, cụ Nguyễn Thần Hiến ở Cần Thơ. Trong chương sau chúng tôi sẽ xét hoạt động của các nhà ái quốc thời đó ở Nam, ở đây hãy xin kể tiếp truyện Kỳ Ngoại Hầu. Khi tàu tới Ô Cấp, Hầu bận áo trắng cụt, quần vải đen, đi giày tây, theo hai cụ Khang và Cư lên bờ, về Sài Gòn. Cụ Khang có hai người em gái cũng nhiệt tâm với quốc sự và đều có tên là cô Năm: cô Năm ta em ruột của cụ, quản lý Chiêu Nam lầu ở đường Kinh lấp cũ, sau đổi là đường Charner, bây giờ là đường Nguyễn Huệ; và cô Năm tây (chắc là em họ của cụ) có tiệm may ở đường Espagne (Lê Thánh Tôn), chồng là ông Perrot, một người Pháp có chân trong hội Tam điểm (Franc maçonnerie). 1 Tôi nhớ mài mại hai câu thơ của Nguyễn Bính làm khi ông tản cư, trời gần tối và chung quanh chỉ toàn rừng núi: Hỡi ơi! trời đất mênh mông rộng, Biết kiếm đâu ra một mái nhà. 2 Sách in: Nguyễn An Khang và Nguyễn An Cư, ở Hóc Môn. Ở trên tôi loại bỏ dấu phẩy (,) sau chữ Cư. Nguyễn An Khang là anh ruột của Nguyễn An Cư. (Goldfish). 110

111 Bà Perrot lúc đó đã góa chồng, sống với hai người con trai đều có Pháp tịch. Bà đón Kỳ Ngoại Hầu về ở Chiêu Nam lầu, rồi mướn ghe đưa Hầu xuống Mỹ Tho, lên Tân Châu. Tới đâu bà cũng giới thiệu Hầu là bà con ở Huế vô chơi, lại sai hai cậu con luôn luôn đi hộ vệ Hầu, không rời một bước, nhờ vậy lính tráng không nghi ngờ tra xét và Hầu được yên ổn để tuyên truyền và quyên tiền cho đảng. Số người hưởng ứng rất nhiều, nhất là tại Cao Lãnh, vì đồng bào Nam Việt thời đó còn cảm tình với nhà Nguyễn, thấy Hầu mà nhớ lại Nguyễn Ánh và Hoàng tử Cảnh những lúc phải bôn tẩu ở đất Đồng Nai, từ Biên Hòa tới Hà Tiên. Người ta còn lấy lễ quân thần để đãi Hầu, cũng quy bái, một điều chúa công, hai điều chúa công. Nhiều người ở Tân Châu kể rằng khi Hầu tới nơi đó, một ông Hội đồng và một ông Hương chủ hết sức phụng dưỡng Hầu, đem cả con gái ra dâng Hầu, kiên từ không được phải miễn cưỡng ưng. Cuộc tình duyên ghé bến đó không lâu, độ một tháng sau Hầu phải xuất dương, sợ ở lâu tung tích tất bại lộ. Những thói quy bái đó trước sau gì sao khỏi lọt mắt nhà cầm quyền? * * * Hầu rời khỏi xứ năm trước thì năm sau Nam Việt lại được tiếp nhiều nhà cách mạng ở Côn Đảo về. Trừ cụ Lê Đại bị giam tới mười lăm năm vì cái tài thơ nôm của cụ, còn các cụ Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc, Võ Hoành đều được thả cho về làm ăn ở Nam Việt: cụ Nguyễn ở Bến Tre, cụ Dương ở Long Xuyên, (trọ nhà ông Năm Khách, cũng gọi là biện Khách ở Cái Sơn, ngoại ô châu thành), cụ Võ ở Sa Đéc. Chánh Tham biện các tỉnh đó đều vỗ về các cụ: Các ông cứ yên ổn làm ăn, chính phủ sẽ để cho thong thả và muốn gì thì chính phủ sẽ giúp. Đừng đi đâu xa mà nếu có việc thật cần phải đi thì cho bổn chức hay trước. Khách xa lại, đừng nên tiếp là hơn. Họ lại tặng mỗi cụ 8đ. hay 10đ. mỗi tháng, nhưng chỉ riêng 111

112 cụ Nguyễn quyền nhận. Số tiền đó sau rút xuống 4đ. rồi đến thời kinh tế khủng hoàng (1929 hay 1930) thì bỏ luôn. Cũng trong năm 1910 hay 1911, nhờ những vận động của Babut, hội Nhân quyền ở Paris can thiệp với chính phủ Đông Pháp, cụ Tây Hồ được ân xá, nhưng phải an trí ở Mỹ Tho. Cụ không chịu sống trong cảnh giam lỏng đó, đầu đơn lên phủ Toàn quyền, đại ý nói: Nếu chính phủ xét tôi là vô tội thì hãy trả tự do hoàn toàn cho tôi, còn nếu xét tôi là có tội thì lại đưa tôi về Côn Đảo, chứ cái thái độ giam lỏng này là nghĩa lý gì? Pháp lại buộc lòng phải trả tự do hoàn toàn cho cụ, cụ bèn xin sang Pháp khảo cứu thêm về chính trị và vận động với chính khách bên đó cho nước nhà được hưởng một chế độ rộng rãi, dân chủ hơn, nhưng thất bại. Khi Khải Định qua Pháp, năm 1922, cụ viết một bức thư nổi danh kể bảy tội của hắn. Năm 1925, cụ về Sài Gòn, diễn thuyết vài lần rồi đau nặng, mất ngày Quốc dân làm lễ truy điệu cụ rất long trọng. * * * Thế là một số Hội viên của Nghĩa Thục đã vô Trung 1 và Nam; những cụ còn ở lại Bắc không thể gây lại được phong trào như cũ, hoặc hoạt động lén lút, hoặc trốn qua Tàu, qua Xiêm. Một buổi tối mùa đông năm Tân Hợi (1911), cụ Phương Sơn đương nằm đọc sách thì cụ Chân Thiết xồng xộc chạy vào, hỏi: - Nằm làm gì đó? Người ta thành công rồi đấy, có biết không? Người ta thành công rồi mà mình cứ vẫn nằm chờ chết ở đây ư? Nói xong, cụ ôm mặt, khóc hu hu. Cụ Phương Sơn ngạc nhiên, hỏi: 1 Tức Hoàng Tăng Bí. 112

113 - Chuyện gì thế? Ai thành công? - Tôn Văn chứ còn ai nữa? Họ thành công trước mình rồi. Cụ Phương Sơn vẫn bình tĩnh: - Tin tức ở đâu thế? Sao trong báo Tàu không thấy nói? - Đi với tôi thì biết. Bọn Hoa Kiều đương mở hội ở hàng Buồm để kỷ niệm ngày mùng mười tháng mười, dân quân thắng ở Vũ Xương. Lại mà xem. - Thế thì đi. Một lát sau, hai cụ vừa rẽ khỏi phố Mã Mây một chút, đã thấy người ta nô nức tiến về phía Hội quán Quảng Đông. Không nhìn cảnh chưng đèn rực rỡ ở cửa, cũng không nhận nét mặt hân hoan của Hoa Kiều, hai cụ len lỏi tới một chỗ dán những tờ báo cáo, đọc những tin cuối cùng về trận Vũ Xương rồi trở ra, xuôi về phố hàng Ngang. Cụ Chân Thiết nói trước: - Ngẫm người mà thẹn cho mình. Cụ Phương Sơn cười: - Việc gì mà thẹn? Người ta làm trước thì thành công trước, mình làm sau thì thành công sau, chứ gì? - Thành công cách nào? Cứ nằm chết rí ở đó mà đòi thành công? - Thế chú có chương trình gì không? - Tôi sẽ qua bên đó. Chắc Tôn Văn và bọn Vân Nam du học sinh còn nhớ tôi. Thế nào họ chẳng giúp mình? Tối hôm đó hai cụ đi lang thang hết những phố có Hoa kiều như hàng Ngang, hàng Bồ rồi trở về hàng Gai, hàng Đào mà bùi ngùi nhớ lại thời hoạt động của Nghĩa thục. Đồng chí nay đã mỗi người một nơi mà nước nhà thì biết bao giờ mới thay đổi! Khi chia tay nhau, cụ Chân Thiết bảo: 113

114 - Thế nào tôi cũng qua Trung Quốc. Càng sớm càng hay. * * * Hai tháng sau, cụ tới rủ cụ Phương Sơn lại đền Bạch Mã ở hàng Buồm. Cụ Phương Sơn hỏi: - Chú muốn xin thẻ về việc xuất hành chăng? - Vâng. Tôi đã trai giới mộc dục rồi, hôm nay thành tâm xin một quẻ. Một tuần nữa tôi sẽ đi. Tới đền Bạch Mã, cụ Chân Thiết xóc được quẻ: Tiểu chu xuất hải chi triệu 1 Cụ Phương sơn nói: - Quẻ xấu. Thôi chú hãy hoãn lại, ít tháng nữa tính lại xem sao. Cụ Chân Thiết vò nát lá xám, liệng xuống đất, đáp: - Quỷ thần an năng tri thử sự 2? Không, tôi cứ đi. Đãi Hà chi thanh, nhân thọ kỷ hà! 3. Cụ Phương sơn cười: - Hỏi Thánh, Thánh dạy, lại không tin thì hỏi làm gì? Cụ Chân Thiết không đáp, lẳng lặng đi ra. Tới cửa đền, cụ nói: - Tôi mới nghĩ được hai câu thơ này, đọc anh nghe: 1 Cái triệu thuyền nhỏ ra biền. 2 Câu đó trong bài Bốc Cư của Khuất Nguyên, nghĩa là: quỷ thần sao biết được việc đó. 3 Cũng là một thành ngữ, nghĩa là: Đợi cho sông Hoàng Hà trong lại (thì đợi làm sao được), đời người thọ được bao? Người Trung Hoa nói rằng sông Hoàng Hà cứ ba trăm năm mới trong một lần. 114

115 Anh hùng tự cổ nan vi phụ Hào kiệt hà nhân cánh cố gia? 1 Cụ Phương Sơn hiểu tâm trạng của bạn lúc đó đương nghĩ đến gia đình, chỉ gật đầu, khen hay và để mặc bạn trầm ngâm. * * * Qua Trung Quốc, cụ Chân Thiết gặp các cụ Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tùng Hương và Nguyễn Thái Bạt 2 rồi liên lạc với cụ Sào Nam, chở tạc đạn về nước để tổ chức vụ liệng bom vào nhà hàng Coq d Or (hay nhà Café Métropole?) ở Hà Nội năm Cụ bị Pháp bắt và xử tử. 4 1 Từ xưa, làm vợ anh hùng vẫn khó khăn vì bực hào kiệt có ai nghĩ tới nhà đâu. 2 Cụ Tùng Hương là anh cụ Phương Sơn. Nguyễn Thái Bạt là học trò cụ Lương, khi qua Trung Quốc, đổi tên là Lý Phục Hán, phải gánh thuê để kiếm ăn, nhờ có tài văn chương được cất nhắc lần lần làm Thiếu úy rồi làm bí thư cho Tôn Văn, lấy một người con gái nuôi của Tôn, sau về nước, bị Pháp bắt. Lúc dan díu với thiếu nữ đó, ông làm hai câu thơ: Thiên vị anh hùng tiểu muội khái, Cố giao hồng phấn bạn dong công. (Trời muốn cho người anh hùng đỡ sầu muộn, nên cho người mặt phấn làm bạn với anh làm mướn.) 3 Cụ viết trong Hồi ký: Ông nội tôi có một bà chị và một bà em, cùng lấy một chồng, cụ Đỗ Uẩn. Chú Ba Đỗ tôi là con bà thứ. Chú cưới vợ ở hàng Bạc, nhà có của, làm nghề kim hoàn. Chú ở trong Đông Kinh nghĩa thục như các bác, thuộc nhóm bạo động như bác Cả tôi, cũng qua Trung Hoa liên lạc với cụ Sào Nam, vô Việt Nam Quang Phục hội, phụ trách cơ sở Vân Nam, chở tạc đạn về nước, tổ chức vụ liệng tạc đạn vào khách sạn Coq d'or ở Hà Nội ngày , bị bắt và xử tử với một số đồng chí năm (Goldfish). 4 Một người con trai của cụ là Đỗ Bàng (bí danh là Chu Văn Vận) và một người con gái là Đỗ Thị Tâm sau nay gia nhập Việt Nam Quốc dân đảng. Sau vụ Yên Bái, Đỗ Thị Tâm bị Pháp bắt ở phố hàng Bột (Hà Nội), giam ở Hỏa Lò. Muốn khỏi bị tra khảo, bà lấy dây lưng thồn vô họng cho nghẹt thở mà chết. Đỗ Bàng cũng bị bắt và chết năm

116 Hết trông cậy được ở người Nhật, các nhà cách mạng của ta hướng về Trung Hoa và Đức. Cuối năm 1911, cụ Sào Nam qua Tàu và năm sau Kỳ Ngoại Hầu qua Đức rồi về Trung Quốc để cùng với cụ Sào Nam thành lập Việt Nam Quang Phục hội ở Quảng Châu, phát hành thông dụng phiếu và quân dụng phiếu để mua khí giới, tính tấn công Pháp. Đại chiến thứ nhất nổ, Đức giúp cho hội được một số tiền nhỏ. Các cụ vội vã hoạt động liền. Hai cụ Huỳnh Trọng Mậu và Nguyễn Tùng Hương lãnh sứ mạng chở khí giới vô biên cảnh, tấn công vài đồn nhỏ ở miền Lạng Sơn (1914). Việc thất bại. Năm 1917 lại có cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên, do Lương Ngọc Quyến và Trịnh Văn Cấn (tức Đội Cấn) chỉ huy. Lương Ngọc Quyến là người con kiệt hiệt nhất của cụ Cử Lương. Theo cuốn Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 của Đào Trinh Nhất 1 - Tân Việt thì năm 1911 ở Chấn Võ học hiệu ra, cụ qua Trung Hoa, nhằm lúc cuộc cách mạng Tân Hợi thành công, cụ giúp Hồ Hán Dân rồi Lê Nguyên Hồng để có dịp thực hành những điều học được. Năm 1914, thế chiến nổ, cụ thấy thời cơ sắp tới, về nước để hoạt động. Cụ về Sài Gòn rồi xuống Long Xuyên tiếp xúc với bạn cũ, cụ Dương Bá Trạc, bị an trí ở tỉnh đó và gặp cả Nguyễn Bá Trác bạn học ở Nhật, nay làm trành cho Pháp để lập công chuộc tội 2. Hai cụ gặp nhau ở nhà cụ Nguyễn Thượng Khách (tục gọi là cụ Năm Khách) 3 ở Cái Sơn (ngoại ô châu thành) để bàn định kế hoạch: cụ sẽ qua Xiêm khẩn ruộng và luyện quân, khi có thực lực rồi sẽ cử sự. 1 Họ Đào là con rể cụ Lương Ngọc Quyến. 2 Cũng hồi đó Nguyễn Bá Trác cũng qua miền Đốc Vàng Thượng (Long Xuyên) đề dò la và dụ dỗ cụ Phương Sơn, con rể cụ Lương. 3 Nguyễn Hữu Hiếu, trong bài Góp phần tìm hiểu hành trạng Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, bảo ông Năm Khách cùng với ông Võ Hoành đang an trí ở Sa Đéc lập trại ruộng ở Núi Sập (Ba Thê - An Giang) và ở rạch Mương Khai 116

117 Trước khi qua Xiêm, cụ ghé Nam Vang thăm cha (cụ Cử Lương) mới được mấy ngày thì tung tích bại lộ (do tên phản quốc là Nguyễn Bá Trác mật báo cho Pháp), không dám đi thẳng qua Xiêm, vì đoán thế nào Pháp cũng tra xét rất kĩ ở biên giới Miên - Xiêm, nên trở về Sài Gòn rồi qua Xiêm bằng đường Hương Cảng, nhưng bị cảnh sát Anh bắt ở Hương Cảng giao cho Pháp. Năm 1915 cụ bị giải về Hà Nội, giam ở nhiều nơi, sau cùng ở Thái Nguyên. Tên công sứ Thái Nguyên lúc đó là Darbes, đứng đầu trong tứ hung, tức bốn công sứ bạo ngược nhất đất Bắc: nhất Đặc (Darbes), nhì Ke (Ekert), tam Ma (Delamarre), tứ Bích (Bride); hắn sai dùi bàn chân của cụ để buộc xích sắt, nên cụ liệt hẳn một chân. Mặc dầu vậy, có lẽ chính là vì vậy mà chí khí của cụ càng nung nấu tôi luyện; cụ liên lạc được với viên đội khố xanh Trịnh Cấn, (tên thật là Trịnh Văn Đạt, người làng Yên Nhiên phủ Vĩnh Tường), một phần lớn nhờ công bà vợ của Trịnh, con nhà cách mạng Phùng Văn Nhuận ở Sơn Tây, có hai anh là Cả Thấu và Hai Vịnh - hoặc Hai Vị (?) - cũng bị giam ở Thái Nguyên. Quốc kỳ và quân kỳ Nam đầu tiên của nước ta 1 (giáp ngọn Tầm Bót), nay thuộc xã Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên) làm cơ sở kinh tài cho phong trào. (Website Hội Khoa Học Lịch Sử Đồng Tháp). (Goldfish). 1 Nguồn: Trần Viết Ngạc, Những đều chưa nói tới, tạp chí Kiến thức Ngày nay, số 720, ngày , trang (Goldfish). 117

SBD HO TEN Ngày Sinh Sửa đổi DOAN THI AI DAO THI AN DO VAN AN DO XUAN AN LE

SBD HO TEN Ngày Sinh Sửa đổi DOAN THI AI DAO THI AN DO VAN AN DO XUAN AN LE 30001 DOAN THI AI 05.01.1993 30002 DAO THI AN 17.05.1995 30003 DO VAN AN 09.08.1995 30004 DO XUAN AN 20.09.1993 30005 LE HONG AN 29.07.1992 30006 LE XUAN AN 19.02.1994 30007 MA MY AN 25.08.2005 30008 MAC

More information

SBD HỌ TEN Ngày Sinh Sửa đổi NGUYEN VINH AI DO XUAN AN HOANG VAN AN LUU LE HONG AN

SBD HỌ TEN Ngày Sinh Sửa đổi NGUYEN VINH AI DO XUAN AN HOANG VAN AN LUU LE HONG AN 40001 NGUYEN VINH AI 26.10.1995 40002 DO XUAN AN 03.05.1998 40003 HOANG VAN AN 25.09.1994 40004 LUU LE HONG AN 19.03.2003 40005 NGO THI THUY AN 17.11.2000 40006 NGUYEN CONG AN 07.07.1997 40007 NGUYEN HUU

More information

YLE Movers PM.xls

YLE Movers PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 18/11/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 BUI PHAM DANG NAM 11/06/2010 3 2 3 8 2 LE PHUC ANH 07/07/2009 2 4 2 8 3 VO GIA

More information

SBD HO N5 TEN NGAY SINH BUI NGOC AN HOANG THI NHI AN HOANG THI UT AN NGUYEN BINH AN

SBD HO N5 TEN NGAY SINH BUI NGOC AN HOANG THI NHI AN HOANG THI UT AN NGUYEN BINH AN SBD HO TEN NGAY SINH 50001 BUI NGOC AN 16.08.1989 50002 HOANG THI NHI AN 19.08.1993 50003 HOANG THI UT AN 19.08.1993 50004 NGUYEN BINH AN 15.12.1995 50005 NGUYEN HUU AN 06.10.1993 50006 PHAM THI AN 05.04.1984

More information

YLE Starters PM.xls

YLE Starters PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 08/12/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Starters 1 WANG NAN SIANG 28/02/2010 3 5 5 13 2 CHEN HSUAN BANG 08/04/2012 5 5 5 15 3 HUANG

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NG

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NG DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NGUYEN THI NGOC HUYEN NGUYEN VAN DAN NGUYEN QUANGMINH

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx277 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx111 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 3 DO DINH DAO 0943xxx000 03. TITANIUM STEPUP CREDIT

More information

Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/ /12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG G

Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/ /12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG G Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/2018-31/12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN 422076XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG GIANG 457353XXXXXX8460 1,000,000 3 NGO VAN PHUC 422076XXXXXX7476

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR Class: Pre- Intermediate 1 1 Tran Duc Anh 6.5 5.7 4.3 4.9 4.0 4.0 5.9 6.7 5.3 D 2 Tran Ngoc Van Anh 7.6 8.2 6.9 8.2 7.3 7.3 8.9 9.4 8.0 B 3 Pham Dai Duong 7.4 8.2 7.6 7.4 6.6 7.1 8.5 9.2 7.8 C 4 Le Xuan

More information

N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN LUU LE HONG AN NGUYEN CONG AN NGUYEN DINH NGAN AN

N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN LUU LE HONG AN NGUYEN CONG AN NGUYEN DINH NGAN AN N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN 23.10.1996 0002 LUU LE HONG AN 19.03.2003 0003 NGUYEN CONG AN 07.07.1997 0004 NGUYEN DINH NGAN AN 13.01.2000 0005 NGUYEN HAI AN 05.12.1995 0006 NGUYEN QUOC AN

More information

DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM "SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN" DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY ,403 2 NGUYEN THI

DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY ,403 2 NGUYEN THI DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM "SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN" DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY 025355865 152,403 2 NGUYEN THI HUONG HUYEN 320635110 1,500,000 3 HA DUY THANH 023146891

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER 1 SCHOOL YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER 1 SCHOOL YEAR Class: Pre- Intermediate 1 1 Tran Phuc An 8.6 6.7 6.8 6.5 6.9 7.4 8.7 8.4 7.5 C 2 Nguyen Manh Dan 9.1 8.4 7.9 6.9 5.2 6.7 9.5 6.7 7.6 C 3 Huynh Tuan Dat 8.7 7.4 6.8 6.3 4.1 7.7 9.7 7.6 7.3 C 4 Lam The

More information

YLE Movers PM.xls

YLE Movers PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 16/12/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 NGUYEN HUU XUAN KHANG 10/04/2009 4 4 5 13 2 TRAN LONG MINH DUY 01/10/2008 2 2

More information

N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH DUONG QUOC AI CHU MINH AN NINH VAN AN PHAM THI THUY AN

N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH DUONG QUOC AI CHU MINH AN NINH VAN AN PHAM THI THUY AN N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH 50001 DUONG QUOC AI 16.09.1993 50002 CHU MINH AN 14.08.1990 50003 NINH VAN AN 22.06.1994 50004 PHAM THI THUY AN 17.05.2000 50005 VUONG THI AN 03.09.1992 50006 BUI THI ANH 08.08.1997

More information

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx277 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx111 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 3 DO DINH DAO 0943xxx000 03. TITANIUM STEPUP CREDIT

More information

Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20, xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20, xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000

Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20, xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20, xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000 Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20,000 090xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20,000 093xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000 098xxxx068 3/3/2017 9:00 DO TUAN ANH 20,000 012xxxx122

More information

Mục lục 1.Chú ý an toàn 2.Danh sách các bộ phận 4~5 6 3.Chú ý trong thi công 7 4.Các bước thi công chính Chuẩn bị lắp đặt bồn tắm~lắp đặt bồn tắm (1)C

Mục lục 1.Chú ý an toàn 2.Danh sách các bộ phận 4~5 6 3.Chú ý trong thi công 7 4.Các bước thi công chính Chuẩn bị lắp đặt bồn tắm~lắp đặt bồn tắm (1)C NTE150 2013.10 HƯỚNG DẪN LẮP ĐẶT BỒN TẮM GANG TRÁNG MEN ĐẶT SÀN CÓ CHÂN FBY1756PWGE, FBY1756PWNE Để phát huy hết tính năng của sản phẩm, vui lòng lắp đặt đúng như bản hướng dẫn này. Sau khi lắp đặt, hãy

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Intermediate 1   RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PR Class: Intermediate 1 1 Dang Quang Anh 8.0 6.0 6.1 7.9 6.8 7.3 7.3 7.7 7.1 C 2 Nguyen Thuy Quynh Anh 8.3 6.4 6.0 7.5 6.6 7.3 5.4 9.1 7.1 C 3 Nguyen Tran Ha Anh 8.8 6.4 8.5 8.7 9.0 7.1 9.9 8.5 8.4 B 4 Chang

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM No. Class: Starter 1 Name RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM No. Class: Starter 1 Name RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR Class: Starter 1 1 Tran Nguyen Binh An 7.2 5.6 7.1 5.3 3.8 5.3 8.6 6.1 D 2 Phung Lam Ngoc An 7.8 8.2 8.6 7.6 4.3 7.1 9.3 7.6 C 3 Tu Pham Tieu Bang 7.5 8.3 9.2 7.4 4.4 7.9 9.6 7.8 C 4 Nguyen Thi Truong

More information

Movers PM.xlsx

Movers PM.xlsx BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 24/03/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 NGUYEN LINH CHI 31/12/2009 5 5 5 15 2 BUI HOANG QUAN 19/06/2008 5 4 5 14 3 BLINO

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1   RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Chemistry Mathematics 1 Dang Quang Anh 7.8 7.6 6.8 7.9 7.0 6.2 8.7 8.4 7.6 C 2 Nguyen Thuy Quynh Anh 7.6 8.7 6.7 7.3 6.5 6.1 6.8 7.3

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Elementary 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROG

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Elementary 1   RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROG Class: Elementary 1 1 Tran Nguyen Binh An 7.6 6.0 6.1 6.9 6.8 5.9 7.1 6.6 C 2 Phung Lam Ngoc An 8.2 6.8 8.1 7.9 8.2 6.4 8.7 7.8 C 3 Tu Pham Tieu Bang 7.4 8.1 8.4 8.4 8.6 8.3 9.3 8.4 B 4 Nguyen Thi Truong

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Flyers 1 RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR 2015

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Flyers 1 RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR 2015 Class: Flyers 1 No. Name Speaking Listening Grammar 1 PHAN DIEN KY BOI 8.3 9.1 8.8 8.9 7.6 7.8 8.6 7 8.3 Distinction 2 LUC PHU HUNG 8.5 9 7.9 8 7.3 6.8 9.1 7 8 Distinction 3 LUU DUONG BAO KHANH 7.5 9.6

More information

KET for Schools_ August xls

KET for Schools_ August xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE Kỳ thi ngày: 11/08/2018 Cấp độ: KET 0001 CONG CHIEN NGUYEN Pass 128 0002 BA RIN PHAM Z 0003 THI MAI ANH DO Council of Europe Level A1 112 0004 KHOI

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Upper-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YE

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Upper-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YE Class: Upper-Intermediate 1 History Economics Math Biology Physics Chemistry 1 Le Hai An 8.3 8.7 8.8 9.0 9.4 9.6 7.4 9.1 8.8 B 2 Hoang Truc Anh 7.1 5.5 7.2 7.4 8.0 7.7 6.0 6.9 7.0 C 3 Nguyen Phu Cuong

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLISH

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLISH Class: Movers 1.1 No. Name Speaking Listening Grammar Social Studies 1 NGUYEN CAO THIEN AN 7.7 9.3 9.8 8.8 9.7 8.9 8.9 9.6 9.1 High Distinction 2 LE PHUONG ANH 7.7 8.7 9.0 7.8 9.1 6.5 7.8 8.6 8.2 Distinction

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Date of issue: Ja

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Date of issue: Ja Class: Intermediate 1 Geograph Histor Econom ic Math Phsics Chenistr GPA 1 Vu Nhat Chuong 8.9 9.0 6.4 8.6 7.6 6.5 7.5 7.0 7.7 C 2 Nguen Tran Anh Du 9.0 8.9 6.7 8.3 8.7 8.4 7.6 8.2 8.2 B 3 Do Le Y Duen

More information

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name   Speaking Listening Grammar RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Chemistry Mathemati 1 Le Hai An 8.9 9.0 7.6 7.7 9.9 7.4 7.3 9.0 8.4 B 2 Le Minh Anh 7.1 5.6 6.6 5.4 7.3 7.7 7.7 5.3 6.6 C 3 Hoang Truc

More information

NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do

NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do - Hanh phuc Dia< M3D1 16/12/201 ~.98 T*. Khai,HaN6i

More information

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers 2.1 Name Speaking RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR List

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers 2.1 Name   Speaking RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR List No. Class: Movers 2.1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Writing Social Studies Science Maths 1 NGUYEN HOANG ANH 8.8 9.7 8.6 9.7 9.8 9.9 9.8 9.2 9.4 High Distinction 2 DOAN NGOC TRUC GIANG 8.6 9.8

More information

Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC

Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC DIEM 093xxxxx779 1,000,000 3 NGUYEN TIEN DUNG 090xxxxx796

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG H

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG H DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG HA 2,000,000 2 Sở giao dịch NGUYEN PHUOC MINH DUC 2,000,000

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Starters RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLIS

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Starters RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLIS Class: Starters 2.1 No. Name Speaking Listening Grammar Social Studies Science 1 PHAM HUYNH LOC AN 7.5 7.4 6.7 8.7 5.9 6.9 8.0 7.4 7.3 Pass with Merit 2 JI YOU BIN 7.8 10.0 10.0 9.5 9.0 7.5 9.3 9.3 9.1

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: TOEFL Beginner 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR 2

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: TOEFL Beginner 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR 2 Class: TOEFL Beginner 1 Speaking Listening Grammar Reading & Literature Geography History Economics Math Biology Physics Chemistry 1 Le Hai An 8.9 9.2 8.3 9.2 8.7 9.6 8.2 8.9 8.9 B 2 Hoang Truc Anh 8.7

More information

Final Index of Viet Ad Person.xls

Final Index of Viet Ad Person.xls 11000-001 Truong Tan Sang 11000-002 Nguyen Thi Doan 12100-001 Nguyen Phu Trong 12220-001 Nguyen Phu Trong 12220-002 Truong Tan Sang 12220-003 Nguyen Tan Dung 12220-004 Nguyen Sinh Hung 12220-005 Phung

More information

GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM NHCT SAM SON HUA THANH PHONG NHCT CA

GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM NHCT SAM SON HUA THANH PHONG NHCT CA GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN 1294090 NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM 6327127 NHCT SAM SON HUA THANH PHONG 0737415 NHCT CA MAU NGUYEN THI CAI 6532757 NHCT QUANG NINH NGUYEN

More information

THÔNG CÁO BÁO CHÍ

THÔNG CÁO BÁO CHÍ HỘI SỰ NGHIỆP TỪ THIỆN MINH ĐỨC Minh Duc Charitable Foundation (MDCF) 明德慈善事業基金會 Website: http://www.tuthienminhduc.com Địa chỉ: Chùa Trung Lâm, xã Tân Xã, Thạch Thất, Hà Nội Số 242A Minh Khai, Quận Hai

More information

Bốn bài thi của Phó đại sĩ

Bốn  bài  thi  của  Phó  đại  sĩ 1 Bốn bài thi của Phó đại sĩ Tác giả : Văn Thận Độc Dịch giả : Dương Đình Hỷ Phó đại sĩ (497-569) là một cư sĩ đời Tề, Lương người huyện Nhĩa Ô nay thuộc tỉnh Triết Giang. Năm 16 tuổi lấy Lưu thị, sanh

More information

DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG HO THI MY QUYEN NGUYEN THANH VINH LAM QUA

DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG HO THI MY QUYEN NGUYEN THANH VINH LAM QUA DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG 1 28342753 HO THI MY QUYEN 2 28259949 NGUYEN THANH VINH 3 28265356 LAM QUANG DAT 4 23156836 NGUYEN NGOC NHO 5 26231419 NGUYEN

More information

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng 5 nam 017 V/v huong din danh gia, hoan thanh h6 so BDTX nam hoc 016-017 Thuc hien KS

More information

UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIE

UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIE UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Xu- do - Hanh phiic Hd Tinh, ngdy/flf

More information

Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải

Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải 法輪大法義解 Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải 李洪志 Lý Hồng Chí Lời nói đầu Để làm tốt hơn nữa công tác phụ đạo Pháp Luân Đại Pháp, và theo yêu cầu của Hội Nghiên cứu và các trạm phụ đạo các nơi, [một số] giảng Pháp

More information

BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0CfflNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, n

BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0CfflNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, n BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0ClNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, nang cao chat hrong, hieu qua boat dong cua Lien hiep

More information

CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON XX

CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON XX CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON 457353XXXXXX8443 LE HONG THUY TIEN 230,000 2 HAI PHONG 478097XXXXXX3147

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH "HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA" Giai đoạn 1: Từ 28/4/ /5/2016 STT GI

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA Giai đoạn 1: Từ 28/4/ /5/2016 STT GI DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH "HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA" Giai đoạn 1: Từ 28/4/2016-27/5/2016 1 GIAI 01: MAY ANH VO TIEN HUY AN DUONG 2 GIAI 01: MAY ANH

More information

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG DỊCH VỤ SACOMBANK EBANKING Sacombank ebanking phiên bản Ngân hàng điện tử mới Ưu việt Thân thiện An toàn Hãy trải nghiệm các chức năng nổi trội của Sacombank - ebanking: Cá nhân hóa giao

More information

Tinh Tan Yeu Chi 3

Tinh Tan Yeu Chi 3 法輪大法 Pháp Luân Đại Pháp 精進要旨三 Tinh Tấn Yếu Chỉ 3 李洪志 Bản dịch tiếng Việt trên Internet http://phapluan.org http://vi.falundafa.org MỤC LỤC Lời chúc đến Pháp hội tại New York...1 Sư phụ chúc mừng năm mới...1

More information

Microsoft Word - VIETFAIR's EXHIBITION SCHEDULE 2018 (Vietnamese Version) - update 28.9

Microsoft Word - VIETFAIR's EXHIBITION SCHEDULE 2018 (Vietnamese Version) - update 28.9 KẾ HOẠCH HỘI CHỢ TRIỂN LÃM (CHỦ YẾU) NĂM 018 do Công ty VIETFAIR tổ chức thực hiện TẠI HÀ NỘI STT Tên Hội chợ, Triển lãm Thời gian Địa điểm tổ chức Nội dung, quy mô Đơn vị chủ trì, ủng hộ, phối hợp Ghi

More information

MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM)

MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM) MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM) TAP DOAN HOA CHAT VIET NAM CONG TY CO PHAN BOT GIAT

More information

Giáo trình tư duy thơ hiện đại Việt Nam

Giáo trình tư duy thơ hiện đại Việt Nam G'.0000016852 A I H O C Q U O C G I A H A NGUYEN BA THANH g i A o t r i n h i n DUY TH0 HIEN DAI VIET NAM O K ] O D G Ha NQI NHA XUAT BAN DAI HOC QUOC GIA HA NO' GIAOTRiNH TITDUY THAT HIEN DAI VIET NAM

More information

PHÁP LUÂN CÔNG 法輪功 Lý Hồng Chí 李洪志 MỤC LỤC Chương I Khái luận...1 I. Khởi nguồn của khí công...1 II. Khí và công...2 III. Công lực và công năng...3 1. Công lực là dựa vào tu tâm tính mà xuất lai...3 2.

More information

UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi,

UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi, UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi, kiem ta danh gia tong cac ky thi ket thuc hoc phan

More information

* Tiểu kết chương CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ PHẬT GIÁO THỜI MINH MẠNG ( ) Đặc điểm Phật giáo thời Minh Mạng ( ).

* Tiểu kết chương CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ PHẬT GIÁO THỜI MINH MẠNG ( ) Đặc điểm Phật giáo thời Minh Mạng ( ). MỤC LỤC MỞ ĐẦU... 1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI... 1 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU... 2 3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU... 2 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU... 3 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN... 4 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN

More information

CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN

CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN CHUONG TRINH TAp HuAN Sau khi ky HQ'P dong tham gia ban hang da c~p voi Cong ty, Nha phan phoi c6 nghia vu hoan

More information

PwC 2

PwC 2 www.pwc.com/vn Sổ tay thuế Việt Nam 2016 PwC 1 PwC 2 Mục Lục Hệ Thống Thuế Tổng quan 5 Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp ( TNDN ) 7 Thuế suất Ưu đãi thuế TNDN Xác định thu nhập chịu thuế TNDN Các khoản chi không

More information

2015 Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES) Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gi

2015 Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES) Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gi TÀI LIỆU DỊCH TLD-11 TẦM NHÌN VÀ HÀNH ĐỘNG THÚC ĐẨY CÙNG XÂY DỰNG VÀNH ĐAI KINH TẾ CON ĐƯỜNG TƠ LỤA VÀ CON ĐƯỜNG TƠ LỤA TRÊN BIỂN THẾ KỶ XXI Cơ quan ban hành: Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia, Bộ

More information

2. Quê quán 3. Tên họ 4. Chức tước 5. Lão tử với Khổng tử có gặp nhau không? Khổng tử có hỏi Lão tử về lễ không? 6. Lão tử có phải là Lão Lai tử không

2. Quê quán 3. Tên họ 4. Chức tước 5. Lão tử với Khổng tử có gặp nhau không? Khổng tử có hỏi Lão tử về lễ không? 6. Lão tử có phải là Lão Lai tử không Nguyễn Hiến Lê Lão Tử Đạo Đức Kinh MỤC LỤC Vài lời thưa trước Phần I: ĐỜI SỐNG và TÁC PHẨM Chương I: Đời sống 1. Sự tích Lão tử 1 Lão Tử - Đạo Đức Kinh Nguyễn Hiến Lê www.thienquan.net 2. Quê quán 3. Tên

More information

TIEM LUC CAN BANG-BAOVE SINH THAI VA PHAT TRIEN NONG THON QUA XAY DUNG HE THONG CHAN NUOI GIA CAM DAC SAN TAI VIETNAM

TIEM LUC CAN BANG-BAOVE SINH THAI VA PHAT TRIEN NONG THON QUA XAY DUNG HE THONG CHAN NUOI GIA CAM DAC SAN TAI VIETNAM The role of Old Hungarian Poultry Breeds in development of poor regions with regards to agrarian environmental protection and gene conservation in Vietnam VAI TRO CAC GIONG GIA CAM CHAN THA HUNGARY TRONG

More information

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG DỊCH VỤ SACOMBANK EBANKING Sacombank ebanking phiên bản Ngân hàng điện tử mới Ưu việt Thân thiện An toàn Hãy trải nghiệm các chức năng nổi trội mới của Sacombank - ebanking: Cá nhân hóa

More information

_x0001_ _x0001_

_x0001_	_x0001_ 1 BAO DO 2 HO NGUYEN 3 TAM PHAM 4 MY LINH TONG 5 THU DO 6 HONG NGUYEN 7 THOM NGUYEN 8 BINH VO 9 MY LE VO 10 HAI DUONG NGUYEN 11 DAO THI NGUYEN 12 LAN NGUYEN 13 ROMAI THI NGUYEN 14 TOAN NGUYEN 15 PHI VO

More information

GU285_VNM_Cover.indd

GU285_VNM_Cover.indd GU285 Hướng dẫn Sử dụng www.lgmobile.com P/N : MMBB0353931 (1.0) ELECTRONICS INC. GU285 Hướng dẫn Sử dụng TIẾNG VIỆT 简体中文 ENGLISH Bluetooth QD ID B015843 Một số nội dung trong sách hướng dẫn này có thể

More information

hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng. Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một

hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng. Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một 1 Sự hình thành và phát triển Thiền phái Trúc Lâm Thích Như Pháp Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được gắn liền với tên tuổi của Ngài, với dòng Thiền do Ngài mở lối, là một đại nhân duyên không phải tầm thường

More information

Phục hồi chức năng bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não

Phục hồi chức năng bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não Cao D ing Y te Plu'i Thp - Tlur vi?n PGS.TS. BSCC TRAN VAN CHUONG PHUC Hdl CH LfC NANG b n h n h a n l i t n u a n g u o i D O T A I B IE N M A C H M A U N A O NHA XUAT BAN Y HOC Ha Noi - 2010 PGS. TS.

More information

So tay di cu an toan.indd

So tay di cu an toan.indd Bộ ấn phẩm: Sáng kiến phòng chống mua bán người và di cư không an toàn Sổ tay di cư an toàn World Vision International 2014 ISBN 978-0-918261-41-0 Tầm nhìn Thế giới (TNTG) là tổ chức nhân đạo Cơ đốc, thực

More information

2 汉语和越南语形容词的体 Trí thông minh về vận động (bodily/kinesthetic): Những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua cách vận động và sử

2 汉语和越南语形容词的体 Trí thông minh về vận động (bodily/kinesthetic): Những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua cách vận động và sử 1 汉语和越南语形容词的体 ỨNG DỤNG THUYẾT ĐA TRÍ TUỆ TRONG VIỆC GIẢNG DẠY TIẾNG TRUNG TẠI KHOA ĐÔNG PHƢƠNG ThS. Hoàng Thị Thu Thủy Bộ môn Trung Quốc học, khoa Đông phương học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

More information

CONG TY CP NHI/A BINH MINH CQNG HOA XA HQI CHU NGHIA VlfT NAM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DAI HQI CO DONG

CONG TY CP NHI/A BINH MINH CQNG HOA XA HQI CHU NGHIA VlfT NAM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DAI HQI CO DONG CONG TY CP NHI/ BINH MINH CQNG HO X HQI CHU NGHI VlfT NM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DI HQI CO DONG THUONG NIEN NM 2018 - Can cu Luat Doanh nghiep so 68/2014/QH13

More information

Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp

Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp chuyên môn của mình. Chúng tôi cùng nhau chuẩn bị

More information

LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI

LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI - DỰ BÁO V -NHẦM LẪN GIỮA CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG VI

More information

Liêt Tử Và Dương Tử

Liêt Tử Và Dương Tử Liêt Tử Và Dương Tử Tác giả: Thể loại: Trung Hoa Website: Date: 24-October-2012 Trang 1/54 NHÂN VẬT LIỆT NGỰ KHẤU Trước hết về bản thân Liệt tử, có một số học giả còn nghi ngờ. Như Cao Tự Tôn (thế kỉ XII),

More information

Viện nghiên cứu Phật học

Viện nghiên cứu Phật học Mục lục Lời nói đầu CHƯƠNG I Phần dẫn luận: Khái quát về 5 việc của Đại Thiên và phương pháp nghiên cứu CHƯƠNG II Thảo luận về những nguồn tư liệu liên quan đến Đại Thiên và 5 việc của ông 1. Vấn đề văn

More information

H

H H.T. THÍCH TRÍ THỦ Chủ trương LÊ MẠNH THÁT Chủ biên TỰ ĐIỂN BÁCH KHOA PHẬT GIÁO VIỆT NAM A Tập II Từ A Di Đà (Tịnh Độ Giáo) đến A Di Đà Tự Phật Lịch 2548 TL 2004 Lời Tựa Từ điển BÁCH KHOA PHẬT GIÁO VIỆT

More information

KINH VÀO HỌC

KINH VÀO HỌC KINH VÀO HỌC (Giọng nam xuân) KINH VĂN Đại từ phụ xin thương khai khiếu, Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ, Gần điều nên, lánh lẽ hư, 4. Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn. Dò đường Thánh khó khăn chẳng

More information

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa 觀無量壽佛經 疏鈔演義 Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Tịnh Không Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Giảo chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang Quán Vô Lượng Thọ

More information

Microsoft Word - Duoc Su_ready for print.doc

Microsoft Word - Duoc Su_ready for print.doc Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Thiển Thích Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Lược Giảng 1 Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch Tuyên Hóa

More information

TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ s

TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ s ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ TÒA THÁNH TÂY NINH TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Chú Giải TRẦN VĂN RẠNG 2010 TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info.

More information

font chữ Arial Unicode MS Standard hoặc Chu Nom Minh download ở đây: (arialuni.rar, độ lớn 13MB) hoặc (taifont.zip, độ lớn 5.3MB). Nói đến Kinh dịch d

font chữ Arial Unicode MS Standard hoặc Chu Nom Minh download ở đây: (arialuni.rar, độ lớn 13MB) hoặc (taifont.zip, độ lớn 5.3MB). Nói đến Kinh dịch d Kinh dịch - Đạo của người quân tử Nguyễn Hiến L ê Mục lục Lời nói đầu Lời nói đầu của Nguyễn Hiến Lê Chương 1 : NGUỒN GỐC KINH DỊCH VÀ NỘI DUNG PHẦN KINH Chương 2 : NỘI DUNG PHẦN TRUYỆN Chương 3 : CÁC

More information

UBND TINH SON LA SO' GIAO DUC VA BAO TAO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ttr do - Hanh phuc S6: 1341/KH-SGDDT Son La, ngay 28 thdng 9 na

UBND TINH SON LA SO' GIAO DUC VA BAO TAO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ttr do - Hanh phuc S6: 1341/KH-SGDDT Son La, ngay 28 thdng 9 na UBND TINH SON LA SO' GIAO DUC VA BAO TAO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ttr do - Hanh phuc S6: 1341/KH-SGDDT Son La, ngay 28 thdng 9 nam 2018 KE HOACH Boi duong thuong xuyen can bo quan

More information

CONG TY CP DAU TU^ THlTONG MAI SMC CONG HOA XA HQI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: /2015/SMC TPHCM, ngay 20 thang 07 nam 2015

CONG TY CP DAU TU^ THlTONG MAI SMC CONG HOA XA HQI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: /2015/SMC TPHCM, ngay 20 thang 07 nam 2015 CONG TY CP DAU TU^ THlTONG MAI SMC CONG HOA XA HQI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: 1 4 8 /2015/SMC TPHCM, ngay 20 thang 07 nam 2015 BAO CAO TINH HINH QUAN TRI CONG TY 06 THANG DAU NAM

More information

Luật hải quan Việt Nam và quốc tế

Luật hải quan Việt Nam và quốc tế TRl/CSNG DAI HOC KINH TE Q U O C DAN KHOA THLfflNG MAI VA KINH TE QUOC TE' Chu bien: PGS. TS. NGUYEN THlTA LOC WIMAN (XMf; NHA XUAT BAN DAI HOC KINH TE Q UO C DAN TRLTCJNG DAI HOC KINH TE QUOC DAN KHOA

More information

BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve d

BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve d BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve dy an Luat Nhap canh, xuat canh, cu tru cua ngiroi nircrc

More information

Microsoft Word - Sachvck1.doc

Microsoft Word - Sachvck1.doc OSHO OSHO Tín Tâm Minh Sách về Cái không HSIN HSIN MING The Book of Nothing HÀ NỘI 3/2010 @ OSHO INTERNATIONAL FOUNDATION Mục lục Tín Tâm Minh - Sách về cái không Copyright 2000 Osho International Foundation,

More information

Hình này cho thấy, từ giáp cốt văn đến kim văn, đại triện đều là dưới mái nhà có hình con heo. Tiểu triện và lệ thư có bộ 宀 (miên, nghĩa là mái nhà),

Hình này cho thấy, từ giáp cốt văn đến kim văn, đại triện đều là dưới mái nhà có hình con heo. Tiểu triện và lệ thư có bộ 宀 (miên, nghĩa là mái nhà), Gia đình, gia thất Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ấn định đường hướng mục vụ cho Giáo Hội tại Việt Nam trong năm 2014 là năm Tân Phúc-Âm-Hoá đời sống gia đình. Logo năm gia đình của Tổng Giáo Phận Tp.HCM là

More information

TONG CONG TY BIEN LI/C MIEN BAC CONG TY BIEN LU~C HA TINH CONG HOA XA H 0I CHU NGfflA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: J b /PCHT-TC& NS V/v th

TONG CONG TY BIEN LI/C MIEN BAC CONG TY BIEN LU~C HA TINH CONG HOA XA H 0I CHU NGfflA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: J b /PCHT-TC& NS V/v th TONG CONG TY BIEN LI/C MIEN BAC CONG TY BIEN LU~C HA TINH CONG HOA XA H 0I CHU NGfflA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: J b /PCHT-TC& NS V/v thong bao ket qua thi nang bac lirong dot 2 nam 2016

More information

Welcome To Kindergarten VIETNAMESE 2016.indd

Welcome To Kindergarten VIETNAMESE 2016.indd NGUN T LIU CA HC KHU StudentServices(SpecialEducation)5032618209 http://www.ddouglas.k12.or.us/departments/studentservices/ EnglishasaSecondLanguageandEquity5032618223 http://www.ddouglas.k12.or.us/departments/esl/

More information

Ngân hàng câu hỏi thi, kiểm tra môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

Ngân hàng câu hỏi thi, kiểm tra môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin TS. PHAM VAN SINH (Chu bien) NGAN HANG CAU HOI THI, KlfeM TRA MON NHUNG NGUYEN LY C(T BAN CUA CHU NGHIA MAC - LENIN (Dung lam tai lieu tham khao phuc vu thi, kiem tra cho cac trirang dai hoc, cao d^ng)

More information

I CONG TY CP DAU Tir THUONG MAI SMC CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu- do - Hanh phuc So: 1 3 /2016/SMC TPHCM, ngay 12 thang 01 nam 2016

I CONG TY CP DAU Tir THUONG MAI SMC CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu- do - Hanh phuc So: 1 3 /2016/SMC TPHCM, ngay 12 thang 01 nam 2016 I CONG TY CP DAU Tir THUONG MAI SMC CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu- do - Hanh phuc So: 1 3 /2016/SMC TPHCM, ngay 12 thang 01 nam 2016 BAO CAO TINH HINH QUAN TRI CONG TY NAM 2015 Kinh gu-i:

More information

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUG VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET Boc lap - Ty do - Hanh phiic NAM S6:^^0 /KH-GD&DT Khdnh San, ngay2, ^ th

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUG VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET Boc lap - Ty do - Hanh phiic NAM S6:^^0 /KH-GD&DT Khdnh San, ngay2, ^ th UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUG VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET Boc lap - Ty do - Hanh phiic NAM S6:^^0 /KH- Khdnh San, ngay2, ^ thdng 4 nam 2017 KE HOACH Xet duyet Sang kien kinh nghiem

More information

Khoa học xã hội và nhân văn: mười năm đổi mới và phát triển

Khoa học xã hội và nhân văn: mười năm đổi mới và phát triển r- 5. PHAM TAT DONG (C h u b ie n ) CK.0 0 0 0 0 6 0 0 3 9 Miroi n a m DDI MOI VA PHAT TRIEN n h A x u a t b a n k h o a h o c XA HOl HA NOl-1997 GS. PHAM TAT DONG (Chii bien) KHOA HOC XA HOI VA NHAN VAN

More information

Eyes of Compassion Relief Organization Ngày Nhận Check Date Tỉnh bang Province USD CAD VND Người Đóng Góp - Benefactor Chuyển tiền 16/01/2017 Transfer

Eyes of Compassion Relief Organization Ngày Nhận Check Date Tỉnh bang Province USD CAD VND Người Đóng Góp - Benefactor Chuyển tiền 16/01/2017 Transfer Eyes of Compassion Relief Organization Ngày Nhận Check Date Tỉnh bang Province USD CAD VND Người Đóng Góp - Benefactor Chuyển tiền 16/01/2017 Transfer date Rate: 22735 20-Dec-16 Phac Nguyen CA 400.00 23-Dec-16

More information

Microsoft Word - GKPH I net.doc

Microsoft Word - GKPH I net.doc GIÁO KHOA PHẬT HỌC cấp một Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc 1 GIÁO KHOA PHẬT HỌC Cấp Một (Sơ Cấp Phật Học Giáo Bản nguyên tác Hán ngữ của cư sĩ Phương Luân,

More information

TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN Nguyễn Minh Tiến biên soạn Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sa

TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN Nguyễn Minh Tiến biên soạn Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sa TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN Nguyễn Minh Tiến biên soạn Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sao chép, trích dịch hoặc in lại mà không có sự cho phép

More information

sdf.cdr

sdf.cdr CRYPTOPROFILE WHITE PAPER www.cryptopr.io 1 MỤC LỤC Tóm tắt Vấn đề và tình hình thị trường Tình hình thị trường.. Các vấn đề trong ngành công nghiệp tiền điện tử Vấn đề Cơ h i và u mô thị trường.... u

More information

Microsoft Word _09_04__DS_08__Part_1_Bai_So_00_09_Nghien_Cuu_Bien_Khao_Editing_OK.doc

Microsoft Word _09_04__DS_08__Part_1_Bai_So_00_09_Nghien_Cuu_Bien_Khao_Editing_OK.doc Một Cách Thiền Để Dưỡng Sinh Trong Thái Cực Quyền (Trích sách TẬP THÁI-CỰC DƯỠNG SINH, Let s Practice Nutri-Living TaiChi Exercises! Đỗ Quang-Vinh, Canada, 2013) Giáo Sư Đỗ Quang-Vinh 1-Thái-cực-quyền

More information

Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD)

Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD) Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD) 大越 國總覽圖 Trần Việt Bắc (Tiếp theo) Như đã trình bày trong phần trước theo như Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn đã ghi: - Là bản-đồ nước ta do hai Đại-tướng nhà

More information

Danh Sách Mã Dự Thưởng Chương Trình Bốc Thăm May Mắn Tháng 6/2018 Mã số dự thưởng cho Khách hàng tham gia chương trình bốc thăm may mắn tháng 6/2018 L

Danh Sách Mã Dự Thưởng Chương Trình Bốc Thăm May Mắn Tháng 6/2018 Mã số dự thưởng cho Khách hàng tham gia chương trình bốc thăm may mắn tháng 6/2018 L Danh Sách Mã Dự Thưởng Chương Trình Bốc Thăm May Mắn Tháng 6/2018 Mã số dự thưởng cho Khách hàng tham gia chương trình bốc thăm may mắn tháng 6/2018 Lucky draw entries for Lucky Draw Program for cycle

More information

Quy tắc mô tả tài liệu thư viện

Quy tắc mô tả tài liệu thư viện 0000023981 u EN THI KIM LOAN (Chu bien) HI HANH, LE THI NGUYET a * a a QUY TAC MO TA TAI LIEU THU5VIEN I a t NHA XUAT BAN THONG TIN VA TRUYEN THONG ThS. N G U Y E N THI KIM LO AN (Chu bien) PH A M TH I

More information

Dtf THAO CONG TY CO PHAN DICH VU XUAT KHAU LAO DONG VA CHUYEN GIA van k ien DAI HOI DONG CO DONG THtftfNG NIEN nam 2017 T hanh pho Ho Chi M inh, ngay

Dtf THAO CONG TY CO PHAN DICH VU XUAT KHAU LAO DONG VA CHUYEN GIA van k ien DAI HOI DONG CO DONG THtftfNG NIEN nam 2017 T hanh pho Ho Chi M inh, ngay Dtf THAO CONG TY CO PHAN DICH VU XUAT KHAU LAO DONG VA CHUYEN GIA van k ien DAI HOI DONG CO DONG THtftfNG NIEN nam 2017 T hanh pho Ho Chi M inh, ngay thang 04 nam 2017 D anh m uc tai lieu STT TEN TAI LIEU

More information