1 汉语和越南语形容词的体 ỨNG DỤNG THUYẾT ĐA TRÍ TUỆ TRONG VIỆC GIẢNG DẠY TIẾNG TRUNG TẠI KHOA ĐÔNG PHƢƠNG ThS. Hoàng Thị Thu Thủy Bộ môn Trung Quốc học, khoa Đông phương học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh Tóm tắt. Bài viết trình bày việc ứng dụng thuyết đa trí tuệ của của nhà tâm lý học Mỹ Howard Gardner (1983) trong việc giảng dạy ngoại ngữ theo xu hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính chủ động và sáng tạo ở người học. Phát triển các năng lực (dạng thức thông minh) ở người học để tìm ra các phương pháp dạy học phù hợp, cũng giúp người học tự phát hiện ra khả năng và năng lực trí tuệ ở bản thân. Ngoài ra bài viết cũng giới thiệu phương pháp giảng dạy ngoại ngữ mới mà có thể đổi mới căn bản từ quan niệm, quy trình, kỹ thuật, cách thức thực hiện<trên cơ sở kết hợp đa phương pháp, đa thông tin, đa giác quan, đa phương tiện, đa hoạt động. Từ khóa. Thuyết đa trí tuệ, phương pháp dạy ngoại ngữ, tiếng Trung. I. Thuyết đa trí tuệ Vào những năm 80 một nhà tâm lý học người Mỹ Howard Gardner, Tiến sĩ tâm lý học phát triển của trường đại học Harvard, đã đưa ra Thuyết đa trí tuệ, ở Việt Nam thường được biết với tên: thuyết đa trí tuệ đa năng lực, lý thuyết trí khôn nhiều thành phần, thuyết trí thông minh đa dạng. Trong hơn 20 năm trở lại đây, thuyết này được áp dụng rất nhiều trong các nền giáo dục bậc mầm non ở các quốc gia Châu Âu, Châu Mỹ, và một số nước Châu Á, và đã đạt được những thành công nhất định. Thuyết trí tuệ truyền thống cho rằng trí tuệ của con người gồm năng lực ngôn ngữ, và năng lực toán học (logic), còn Thuyết đa trí tuệ cho rằng: thông minh là khả năng giải quyết các vấn đề hoặc đưa ra những sản phẩm mới có giá trị trong một hay nhiều nền văn hóa khác nhau (Gardner & Hatch, 1989). Ban đầu Howard Gardner đưa ra 7 trí thông minh, 2 trí thông minh đầu tiên có giá trị điển hình trong trường học; 3 trí thông minh tiếp theo thường được gắn với nghệ thuật, và 2 trí thông minh cuối được ông xếp vào trí thông minh cá nhân, đó là: thông minh về ngôn ngữ, thông minh toán học, thông minh âm nhạc, thông minh thể chất, thông minh hội họa không gian, thông minh nội tâm, thông minh về giao tiếp xã hội. Trí thông minh về toán học/logic (mathematical/logical): những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua các lập luận logic, thích toán học, lập trình, chơi xếp hình,< Trí thông minh về ngôn ngữ/lời nói (verbal/linguistic): những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua việc nói và viết, thích đọc, chơi ô chữ,< Trí thông minh về thị giác/không gian (visual/spatial): những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua hình ảnh, đồ vật, sử dụng tốt bản đồ và định hướng tốt trong không gian,<chúng ta không nên nghĩ rằng trí thông minh này chỉ gắn với thị giác vì Gardner tin rằng đối với các trẻ em khiếm thị thì trí thông minh về không gian này cũng phát triển.
2 汉语和越南语形容词的体 Trí thông minh về vận động (bodily/kinesthetic): Những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua cách vận động và sử dụng động tác, cảm thấy thích thú khi vận động cơ thể, chơi thể thao< Trí thông minh về âm nhạc/giai điệu (musical/rhythmic): Những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua các giai điệu, âm nhạc, thích chơi nhạc cụ, hát, đọc truyền cảm các tác phẩm,< Trí thông minh hướng ngoại (interpersonal): Những người sở hữu trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua sử dụng các kỹ năng xã hội, giao tiếp, hợp tác làm việc với người khác, thích gặp gỡ và trò chuyện, có khả năng thông hiểu người khác,< Trí thông minh hướng nội (intrapersonal): Những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua tình cảm, cảm giác, điều khiển và làm chủ tốt việc học của mình, hiểu rõ các suy nghĩ của bản thân, từ đó có thể hiểu được cảm xúc, tình cảm của người khác,< Vào năm 1996, Gardner có bổ sung thêm 2 loại trí thông minh mà ông và đồng nghiệp đang nghiên cứu: Trí thông minh hướng về thiên nhiên (naturalist): người có khả năng học tập thông qua hệ thống sắp xếp, phân loại, yêu thích thiên nhiên, các hoạt động ngoài trời,< Trí thông minh về sự tồn tại (existential): người có khả năng học tập thông qua việc thấy bức tranh tổng thể, thông qua những câu hỏi như Tại sao chúng ta tồn tại ở đây?, Vai trò của tôi trong thế giới này là gì?, Vai trò của tôi trong gia đình, nhà trường và cộng đồng là gì?. Loại trí tuệ này tìm kiếm sự kết nối giữa những kiến thức mới học với các ứng dụng, các kiến thức trong thực tế. Trí thông minh theo nghĩa truyền thống: Trí thông minh là khả năng lĩnh hội/năng lực học tập; Trí thông minh là cái lĩnh hội được; Trí thông minh là khả năng thích ứng với môi trường, đặc biệt là trong những môi trường mới; Trí thông minh là khả năng thực hiện tư duy trừu tượng. Còn quan điểm hiện nay về trí thông minh theo Alfred Binet và Theodore Simon là những người đầu tiên phát minh ra cách kiểm tra trí thông minh vào đầu thế kỷ 20 ở Pháp. Mục đích của trắc nghiệm này là để phân biệt trẻ thông minh bình thường với trẻ có nhu cầu đặc biệt bằng chỉ số thông minh IQ. 1 Nhưng theo H.G trí lực không còn chỉ là trí thông minh logic - toán học truyền thống mà là những yếu tố giáo dục được nhấn mạnh như: năng lực thực tiễn, sức sáng tạo; ông cũng cho rằng trí lực không thể dùng một tiêu chuẩn đo lường chung để đánh giá mà nó còn lệ thuộc vào môi trường văn hóa xã hội mới có thể tạo ra một năng lực đặc thù nào đó; theo ông, trí lực cũng không thể chỉ gồm 1 loại năng lực nào đó hay một loại năng lực nào đó làm trung tâm, mà là một tổng hợp nhiều loại trí tuệ khác nhau mà thành. Từ những lý luận của ông chúng ta có thể hiểu con người sở hữu nhiều loại trí tuệ, mỗi cá nhân sở hữu các trí tuệ ở những trạng thái không giống nhau cho nên cách giải quyết vấn đề chắc chắn cũng không giống nhau. Thuyết đa trí tuệ 1 Một số vấn đề cơ bản về chậm phát triển trí tuệ, Trần Lệ Thu, Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội, Trung Tâm Đào Tạo và Phát Triển Giáo Dục Đặc Biệt, Khoá bồi dưỡng mùa hè cho các giáo viên dạy trẻ chậm phát triển.
3 汉语和越南语形容词的体 của H.G nhấn mạnh ở tính khác biệt, tính thực tiễn, tính khơi gợi, tính tổng thể. Tính khác biệt: H.G cho rằng mỗi người đều sở hữu 9 loại trí thông minh (nghiên cứu trước mắt), và các trí thông minh này là những tổ hợp không giống nhau, ở những mức độ khác nhau trong mỗi con người. Tính khác biệt do hoàn cảnh môi trường và phương thức giáo dục không giống nhau tạo nên. Tính thực tiễn: H.G cho rằng trí thông minh là năng lực giải quyết vấn đề trong thực tiễn của cá nhân nào đó, cũng là năng lực sản xuất hay sáng tạo ra các sản phẩm có hiệu quả phù hợp nhu cầu xã hội. Ông nhấn mạnh trí tuệ không phải là một dạng vật chất trí não do ông trời tặng không cho số ít người may mắn nào đó, mà trí tuệ là phải do mỗi người ở phương diện nào đó, trong khả năng nào đó tự giải quyết những vấn đế thực tế trong cuộc sống. Tính khơi gợi: mức phát triển trí tuệ của cá nhân cao hay thấp then chốt nằm ở điểm này, sự dạy dỗ của thầy cô chính là phát triển sự giáo dục trí tuệ, khai mở đa trí tuệ của học sinh. Tính tổng thể: khi đã nhận biết các loại trí thông minh mà mình sở hữu, con người muốn phát huy tác dụng tối đa của các trí thông minh này thì không chỉ dựa vào 1, 2 trí thông minh mà phải biết kết hợp lẫn nhau trong quá trình giải quyết vấn đề. Vậy tóm lại từ thuyết đa trí tuệ của H.G cho chúng ta một cách thức mới đa dạng hơn, phong phú hơn để hiểu về trí tuệ của con người, từ đó khi chúng ta kết hợp những trí tuệ này để phục vụ cho công tác giảng dạy sẽ đạt hiệu quả hơn. Một là thông qua thuyết đa trí tuệ có thể kiểm tra xem năng lực thật sự của bản thân, tìm ra phương pháp giảng dạy hiệu quả hơn; hai là thông qua việc hiểu biết về năng lực trí tuệ của sinh viên để hiểu hơn về sức học của người học, ba là người dạy cần tự nghĩ ra cách thức, quá trình giảng dạy đặc biệt để dạy, cũng như để phù hợp yêu cầu cho những học sinh có trí tuệ đặc thù, bốn là có thể bồi dưỡng, hoặc tư vấn kế hoạch học tập cho sinh viên, năm là có thể đánh giá trình độ của sinh viên một cách hợp lý hơn. II. Thuyết đa trí tuệ trong việc giảng dạy ngoại ngữ Mỗi người đều sở hữu tất cả những trí thông minh kể trên, chỉ là mỗi người sẽ có những phương thức vận dụng các trí thông minh này không giống nhau. Thuyết đa trí tuệ đã phá vỡ những lý thuyết trí tuệ truyền thống, các khái niệm về thông minh sẽ không còn phụ thuộc vào chỉ số thông minh được đánh giá thông qua những bài trắc nghiệm IQ nữa. Chẳng những thế thuyết đa trí tuệ trở thành căn cứ cho quan điểm giáo dục hiện đại lấy con người làm trung tâm. H.G cung cấp cho mỗi người không gian trí tuệ rộng lớn hơn, mỗi học sinh đều có điểm mạnh, các phương thức học tập không giống nhau, kể cả tiềm năng học tập cũng có sự khác biệt. Việc ứng dụng thuyết đa trí tuệ vào giảng dạy ngoại ngữ sẽ giúp học sinh của chúng ta trở nên thông minh hơn, thậm chí sự thông minh của họ còn vượt quá những gì chúng ta có thể tưởng tượng. Bản thân thuyết đa trí tuệ đã bao gồm những cơ sở lý luận khoa học tiên tiến, có thể trị dứt điểm căn bệnh chung của những người Châu Á học ngoại ngữ: học thuộc lòng, tư duy ngoại ngữ theo ngôn ngữ mẹ đẻ< thông qua cách dạy theo thuyết đa trí tuệ có thể phát huy trí thông minh thiên phú về ngôn ngữ của người học, sử dụng các thông tin mà các giác quan thu nhận được để khai thác tiềm năng của bộ não, phát huy tối đa ưu thế trí thông minh nhất của người học. Ai ai cũng mong muốn khi học một ngoại ngữ bất kỳ thì mong muốn được sống, được tiếp xúc trực tiếp với ngoại ngữ đó, đó là môi trường học tập lý tưởng nhất. Tuy nhiên, việc hiện thực
4 汉语和越南语形容词的体 môi trường học tập này thật không phải dễ dàng chút nào. Do đó, nhiệm vụ của giáo viên dạy ngoại ngữ là phải cố gắng tạo ra thật nhiều cơ hội tiếp xúc ngoại ngữ để người học được kích thích, được thực hành và tạo hứng thú với ngôn ngữ mới mà họ đang học. Có 3 bước có thể tác động trực tiếp đến người học ngoại ngữ: thu hút sự chú ý, nghiên cứu, kích hoạt 2 mà một buổi học cần có. Thu hút sự chú ý: là khởi điểm trong quá trình dạy học, nhà tâm lý học hiện đại người Thụy Điển Jean Piaget đã nói: All intellectual work depends on one s interest (tất cả những công việc trí óc đều phải dựa vào cảm hứng). Người dạy cần cố gắng kích thích mối quan tâm, sự chú ý của người học bằng trò chơi, hình ảnh, màu sắc, âm thanh< Nghiên cứu: là những hoạt động đưa người học tập trung vào các hiện tượng ngôn ngữ cụ thể. Cùng một chủ đề, một cấu trúc ngữ pháp người học có thể tự tiếp cận từ nhiều góc độ, nhiều phương pháp khác nhau để tìm ra kết quả cuối cùng, giáo viên là người đánh giá cho các kết quả nghiên cứu của người học. Kích hoạt: là bước áp dụng kiến thức vào bài tập và các hoạt động được thiết kế nhằm giúp người học sử dụng tiếp cận với môi trường thực tiễn nhất. Phương pháp giảng dạy truyền thống với vai trò người thầy làm trung tâm phát thông tin, và học trò bị động tiếp nhận thông tin đã trở nên lạc hậu trước yêu cầu đào tạo xã hội, khi các giá trị được kỳ vọng từ xã hội là năng lực tư duy sáng tạo và khả năng tự tiếp thu cái mới, hay cao hơn nữa là khả năng tự hoàn thiện. Nếu theo cách dạy cũ, các kỹ năng được truyền đạt một chiều thì tiềm năng của mỗi người sẽ không được phát huy triệt để, càng không tạo được hứng thú cho học sinh, không đảm bảo hiệu quả của buổi học. Lúc này ứng dụng thuyết đa trí tuệ vào công tác dạy ngoại ngữ dường như rất phù hợp với chủ trương lấy hoc sinh làm trung tâm đề xướng cách dạy để người học tự phát hiện và vận dụng các trí thông minh của bản thân nắm vững bài học, đảm bảo hiệu quả và sự hưng phấn của người học trong học tập. Vd: Một số học sinh có trí thông minh về hội họa khi học một số từ vựng tiếng Anh thì có thể biến chữ thành hình vẽ như: eye,pot,body ; như: 德 Một số bạn có trí thông minh về ngôn ngữ rất thích phương pháp chiết tự để học chữ Hán Hay: 夫 Chim chích mà đậu cành tre Thập trên tứ dưới, nhất đè chữ tâm Thương em, anh muốn nên duyên Sợ e em có chữ thiên trồi đầu James Asher 3 cho rằng cảm xúc có vai trò quan trọng trong học tiếng. Vì vậy, để học sinh học tốt cần tạo cho họ một tâm trạng thoải mái, tích cực qua các hoạt động, trò chơi, các hoạt động không đòi hỏi tạo ra sản phẩm ngôn ngữ, không bị căng thẳng. Một người dạy giỏi là người có 2 Chuyên đề lý luận và phương pháp dạy ngoại ngữ: các vấn đề về lý thuyết và thực tiễn dạy học ngoại ngữ trong thế kỷ 20 và định hướng trong thế kỷ 21 - http://www.slideshare.net/englishonecfl/l-lun-v-phng-php-dy-ngoi-ng-1429554 3 Nhà soạn nhạc, sản xuất nhạc cụ người Anh, tập trung vào âm nhạc thế giới, nhạc trance, nhạc new age.
5 汉语和越南语形容词的体 khả năng kiểm soát toàn bộ hoạt động trong suốt thời gian đứng lớp và tạo ra một không khí sôi nổi trong khi học. Người dạy nên áp dụng thuyết đa trí tuệ trong buổi học bằng hàng loạt các hoạt động khác nhau để kích thích người học cùng tham gia hoạt động, thay đổi không khí buổi học. Quá trình một buổi học có thể diễn ra như sau: - Hãy bắt đầu với một vấn đề có thể thu hút sinh viên tham gia, đó là cách hiệu quả nhất để hướng sự chú ý của sinh viên vào chủ đề, ví dụ như chuẩn bị một trò chơi liên quan đến bài giảng để học sinh cảm thấy hứng thú ngay từ đầu giờ học. - Tạo ra các hoạt động nhóm. Ví dụ, một bài giảng hai mươi phút, tiếp theo một cuộc thảo luận nhóm mười phút, tiếp theo là một bài giảng hai mươi phút có thể được nhiều hiệu quả hơn 50 phút của bài giảng thẳng. Công việc nhóm có thể là một bài tập đơn giản như "thảo luận-chia sẻ" hoặc một nhóm hoạt động phức tạp hơn với những câu hỏi khó hơn. - Sử dụng công cụ trực quan. - Cuối buổi học có thể chia nhóm cho sinh viên làm bản đồ tư duy để tổng kết bài học< Mỗi học sinh đều có thế giới riêng, đều có ngôn ngữ và cách nhìn về sự vật riêng, để người học tự căn cứ vào góc độ, ngữ nghĩa lý giải của bản thân giải quyết vấn đề mới chính là giúp người học mở ra lòng tự tin của mình trong việc học. III/ Ứng dụng tại khoa Đông phƣơng học, trƣờng ĐH KHXH & NV Việc dạy và học ngoại ngữ tại Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21 đã có nhiều đổi mới tích cực với chủ trương lấy người học làm trung tâm. Tuy vậy, trong các trường học vẫn tồn tại tình trạng giáo viên là trung tâm. Cách giảng dạy ngoại ngữ ở Việt Nam chú trọng việc tích lũy kiến thức, nắm vững từ mới, ngữ pháp. Trên lớp, học sinh chỉ đủ thời gian ghi chép nội dung bài giảng, cố gắng tìm câu trả lời cho các câu hỏi của giáo viên< Tình trạng này không thể giải quyết trong một sớm một chiều, cũng không thể chỉ hô hào khẩu hiệu lấy người học làm trung tâm là đủ. Nhất là khoa Đông phương học thuộc về khối chuyên ngành nhân văn, để đáp ứng việc tăng cường tinh thần tự học, tự nghiên cứu của sinh viên, giảm tải chương trình học bằng cách giảm số tín chỉ.., thì số tín chỉ các môn ngoại ngữ trong chương trình bị giảm đầu tiên để đảm bảo tính toàn diện cho chương trình đào tạo cử nhân Đông phương. Với số lượng hơn 30-40 học sinh/ lớp (khoa Đông phương) cũng không phù hợp điều kiện lý tưởng của một lớp học ngoại ngữ, hoặc thời lượng 1 buổi học thường là 4-5 tiết sẽ khiến cho sinh viên mất tập trung v.v.. Vậy để ứng dụng thuyết đa trí tuệ trong giảng dạy ngoại ngữ ở khoa Đông phương nên thực hiện thế nào? Thuyết đa trí tuệ cung cấp cho chúng ta phương thức khảo sát sinh viên, giáo viên cũng cần phải có kỹ năng, chiến lược giảng dạy tương đối tốt: Bước 1: xác định rõ những hoạt động trong giờ học ngoại ngữ, sau đó phân loại theo thuyết đa trí tuệ: Trí thông minh ngôn ngữ: 1 từ vựng và ngữ pháp: học từ vựng ngữ pháp và ứng dụng chính xác trong các hoạt động hàng ngày; 2 nghe kể chuyện, đối thoại, thuyết giảng; 3 đối thoại chính thức hoặc phi chính thức, như: dùng các từ vựng, điểm ngữ pháp, mẫu câu để tiến hành
6 汉语和越南语形容词的体 đối thoại, thảo luận, tranh luận; 4 hài hước và truyện cười, trong một chủ đề nào đó sáng tạo ra câu chuyện cười, thơ con cóc..; 5 diễn thuyết, đưa ra một chủ đề có liên quan lập tức diễn thuyết tại chỗ; 6 kể chuyện, kể một câu chuyện bất kỳ liên quan đến bài đọc; 7 đọc hiểu, đọc thầm, đọc to, đọc tập thể.. 8 viết, kiên trì tập viết, viết nhật ký, viết tổng kết bài học.. nhằm duy trì tư duy và suy nghĩ của người học; 9 viết mang tính sáng tạo: viết truyện ngắn, tiểu luận, thơ< Trí thông minh logic : 1 trò chơi logic: câu đố, trò chơi ráp chữ để học sinh tìm đáp án, hoặc ghép hình tìm chữ hoặc từ bị ẩn 2 giải thích, chỉ ra tính logic hoặc hệ thống thể hiện trong bài 3 giải quyết vấn đề: liệt kê trình tự giải quyết vấn đề thích hợp 4 suy luận: trong một chủ đề nào đó dùng phương pháp suy luận nếu < thì. Trí thông minh không gian: 1 sử dụng công nghệ thông tin: phim hoạt hình, tranh ảnh, tranh vẽ, biểu đồ, tranh dán, kẻ ô, điêu khắc, phim ảnh < để hỗ trợ việc giảng dạy, khuyến khích học sinh sử dụng các phương tiện công nghệ trong việc học 2 tưởng tượng: tìm những mối liên hệ giữa kiến thức, kinh nghiệm bản thân với sự tưởng tượng về mặt thị giác 3 tạo ra hoặc sắp xếp các hoạt động tư duy liên quan đến thị giác như: làm mê cung từ vựng, điền ô chữ... 4 khích lệ người học sắp xếp góc học tập, bảng học tập. Trí thông minh vận động: 1 thực hiện một số hoạt động cơ học như trò chơi: Simon says, gió thổi.. 2 ngôn ngữ cơ thể: dùng động tác để giải thích nghĩa từ, hoặc thể hiện cách nghĩ của bản thân 3 dùng hành động, cử chỉ, động tác thể hiện một sự việc nào đó 4 diễn kịch: viết một vở kịch ngắn rồi phân vai 5 tổ chức thi đấu giữa các nhóm 6 dã ngoại< Trí thông minh âm nhạc: 1 nghe bài hát 2 hát 3 phổ nhạc < Trí thông minh hướng ngoại: 1 giao lưu: thầy và trò, giữa các thành viên trong nhóm, trong lớp 2 khi được cung cấp thông tin về bài học, quan điểm, cách nghĩ của tác giả, học sinh sẽ phản hồi bằng ý kiến của bản thân 3 làm việc theo nhóm< Trí thông minh hướng nội: 1 nghiên cứu độc lập: khuyến khích sinh viên tự hoàn thành bài tập, bài nghiên cứu, kế hoạch học tập 2 tập trung nâng cao một kỹ năng bất kì trong khoảng thời gian ngắn 3 tư vấn mô hình học tập< Bước 2: tùy theo bài giảng và hoàn cảnh cụ thể mà đưa ra sách lược giảng dạy, kế hoạch giảng dạy cần phù hợp các yêu cầu: nhu cầu của sinh viên, trình độ sinh viên, cách học của sinh viên, tiềm năng học của sinh viên, nền tảng cá nhân của giáo viên, và cả trình độ về đa trí tuệ để khai triển. Bước 3: sử dụng đa trí tuệ trong thực tiễn, không nhất thiết mỗi tiết học đều sử dụng tất cả các trí thông minh. Qua thời gian áp dụng thuyết đa trí tuệ trong giảng dạy ngoại ngữ, tuy chưa phải phương pháp dạy ngoại ngữ phổ biến tại khoa Đông phương, người viết cũng chỉ mới thực nghiệm trên một số môn cơ bản có nội dung giảng dạy không quá nặng là môn đọc hiểu, môn viết năm 1, môn viết năm 2, môn đọc hiểu năm 3, kết quả thu được cũng không hẳn rất khả quan. Trước mắt qua thời gian thử nghiệm người viết có 1 số nhận xét như sau: Ưu điểm: - Nội dung bài giảng phong phú, tuy chỉ trong khuôn khổ 1 kỹ năng nhưng có thể phát triển thêm các kỹ năng khác như nói.
7 汉语和越南语形容词的体 - Người học tập trung hơn do không bị gò bó một chỗ mà còn có thể hoạt động tay chân, được vui chơi và thực hành tại chỗ cũng như được nâng cao năng lực làm việc tập thể. - Người học nắm bắt bài học nhanh hơn do bài được thực hành liền trong các trò chơi tập thể. - Người học cũng chịu nói nhiều hơn do bài học chỉ đơn thuần là các trò chơi ứng dụng, khắc phục được nhược điểm hay ngại ngùng trong việc học ngoại ngữ của người Việt Nam. Nhược điểm: - Người dạy phải đầu tư rất nhiều thời gian, tâm sức, và cả tiền bạc cho bài giảng. - Người dạy có thể rơi vào tình trạng lạm dụng quá nhiều chiêu trò trong giảng dạy, gây loãng nội dung bài học. - Trong lớp học ngoại ngữ bình thường tại Việt Nam có sĩ số trung bình từ >30 đến >40 học viên, việc sử dụng nhiều phương pháp đa trí tuệ sẽ tốn rất nhiều thời gian và sức khỏe của người dạy, nếu không khống chế thời gian người dạy có thể cháy giáo án liên tục. - Ngoài ra do số lượng sinh viên quá đông nên việc tổ chức sẽ gặp 1 số trở ngại như: không đủ không gian, không đủ thời gian, chia nhiều nhóm thì khi nhóm trước đã làm rồi đến các nhóm sau thực hiện sẽ gây nhàm chán. Tóm lại, phải thay đổi phương pháp giảng dạy, lấy người học là trung tâm, tạo nhiều không gian mở cho người học được thực hành tại chỗ< Từ những tiêu chí trên áp dụng thuyết đa trí tuệ của Horward Gardner thực sự là phù hợp và là hướng đi mới cho các thầy cô giáo dạy ngoại ngữ nói chung và giảng dạy tiếng Trung tại khoa Đông phương học, trường ĐH KHXH & NV Tp.HCM nói riêng. Tài liệu tham khảo [1] Hoàng Quốc Khánh, Vài nét về phương pháp dạy ngoại ngữ hiện đại, bộ môn Anh văn, khoa Khoa học cơ bản, ĐH Giao thông vận tải. http://tailieu.vn/doc/vai-net-ve-phuong-phap-dayngoai-ngu-hien-dai-471371.html [2] Howard Gardner, Lý thuyết trí khôn nhiều thành phần, dịch giả: Phạm Toàn, Phạm Anh Tuấn hiệu đính, Nxb Tri thức, 2012. [3] Nguyễn Thị Mai Lan, Ứng dụng lý thuyết trí tuệ đa nhân tố của Howard Gardner vào việc tìm hiểu các loại hình trí tuệ của học sinh tiểu học, Viện Khoa học Xã hội VN, Viện nghiên cứu con người, 2010. [4] Patrick Tanglin Yu, dịch giả: Nghiêm Thùy Hương, Vũ Thị Mỹ, Nguyễn Hồng Nhung, Bùi Huyền Trang, Tôi dạy tiếng Anh ở Mỹ, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2013. [5] PGS.TS Trần Khánh Đức, Lý thuyết đa thông minh và đổi mới phương pháp dạy học ở bậc đại học, ĐH Giáo dục, ĐHQG Hà Nội, 2013. [6] Chuyên đề lý luận và phương pháp dạy ngoại ngữ: các vấn đề về lý thuyết và thực tiễn dạy học ngoại ngữ trong thế kỷ 20 và định hướng trong thế kỷ 21, http://www.slideshare.net/englishonecfl/l-lun-v-phng-php-dy-ngoi-ng-1429554