SỐ 3 HUYỀN-DIỆU

Size: px
Start display at page:

Download "SỐ 3 HUYỀN-DIỆU"

Transcription

1 Hay là TAM BỬU (TẬP 01) Tây-Ninh Thánh Địa, mùa hoa Đạo nở. Ngày 01 tháng 03 Vía Đức Cao Thượng-Phẩm (Tháng 4 năm 2007) Nữ Soạn-giả NGUYÊN-THUỶ 1

2 Trọng giá của TAM-BỬU mà CHÍ-TÔN ưa chuộng để dâng Đại Lễ cho Ngài là nguyên-nhân chấm dứt cái hoạ tranh thù đã gây nên trường oan-nghiệt cho toàn Thế-giới (Đức Hộ-Pháp) 2

3 Lời nói đầu Đức Thượng-Sanh dạy KHI VIẾT SÁCH ĐẠO nên qui-kết vào trọng -tâm của Cao -Đài Đại -Đạo để xiển dương Chơn-lý Chánh-truyền, Đức Ngài nói rằng: Khi Qua ở Sài-Gòn, nghe khách bàng-quan trích điểm về Giáo-lý Cao-Đài nhiều lắm. Bởi lẽ người trong Đạo chưa viết được một quyển sách đúng với Giáo lý Chơn-truyền; hầu hết các sách viết trước do hạn-chế và lý luận về nguồn gốc Đạo Tam-Kỳ nên họ chỉ viết cái mà họ biết được: *Người gốc theo Đạo Phật, thì họ cho Đạo Cao-Đài là Phật-Giáo chấn-hưng. *Người gốc theo Đạo Khổng, thì họ cho Đạo mới là Nho-Tông Chuyển-thế. *Người gốc theo Đạo Lão, thì cho là Thiên-khai Huỳnh-Đạo. Thật ra là ĐẠO CAO-ĐÀI! Muốn hiểu bổn-nguyên tư-tưởng phải lấy Thánh ngôn, Kinh sách Kỳ ba Phổ-Độ mà giải-thích. Đạo Cao-Đài như một bức khảm xà-cừ: - Nhìn thẳng thấy màu trắng, - Nhìn nghiêng bên phải thấy màu xanh phơn-phớt, - Nhìn xuống phía dưới thấy màu vàng nhạt. Các màu xanh, đỏ, vàng chỉ là những cách thể hiện các giai-đoạn ban sơ của Đạo. Thật sự ĐẠO CAO-ĐÀI là MÀU TRẮNG. Phải hiểu Đạo Cao-Đài là tinh-hoa bổ n-nguyên triết-lý của chính nền Đạo mới này (Lời của Đức Thượng-Sanh) 3

4 Triết lý và con người Một thi-sĩ xứ Perse gọi triết-lý là bản-thảo lúc đem in đã bay mất hai trang: đầu và cuối. Triết-lý thường gồm ba loại vấn đề sau: - Nhân-sinh hà tại? Tại sao tôi sinh ra ở trên đời? Vì nguyên-nhân nào? - Tại thế hà như? Và sinh ra để làm gì? -Tức là triết lý nhân-sinh. - Hậu thế như hà? Sau này sẽ ra sao? - Tức là vấn đề cứu cánh của con người. Trong ba loại đó thì v ấn đề nguyên-thuỷ vạn-vật cũng như về loài người và cứu cánh cuối-cùng của con người thuộc trang đầu và trang cuối đã m ất, nghĩa là không thể tìm ra câu trả lời thỏa-mãn cho trí khôn Thế nên, triết-lý hiện nay dù phức-tạp, lòng ngư ời còn chia cách, nhưng biết xây-dựng trên nền tảng hoà hiệp lo gì không tiến đến một nền Triết-lý ĐẠI ĐỒNG. Bởi: - Đại-Đồng là dung nạp, dang tay đón nhận với sự không so-đọ lọc lừa. - Chủ-thuyết Đại-Đồng tuyệt-đối không cưỡng bức, không chấp nhận lấy một bỏ một. - Chủ-thuyết Đại-Đồng không chấp nhận có kẻ thù mà tất cả là đồng-sanh, đồng-hành, là huynh đệ. TRIẾT LÝ CAO ĐÀI hôm nay sẽ trả lại cho hai trang đầu và cuối đã mất, để tất cả cùng đi đến Đaị Đồng: - Đại Đồng nhân chủng. - Đại-Đồng Xã hội. - Đại-Đồng Tôn giáo. Chủ-trương của Đạo Cao-Đài là phải thực hiện một Tôn-Giáo Đại-Đồng, như Đức Chí-Tôn đã hứa. 4

5 CHƯƠNG I KHÁI NIỆM VỀ TAM BỬU Khi đưa mắt nhìn khắp trong trời đất thì thấy Cái khuôn luật thiên nhiên mà ta đã ngó thấy trước m ắt, nếu có Cha và có Mẹ thì mới có Ta, bằng như thể thiếu một trong hai yếu tố ấy thì không thể thành hình được. Dù cho dưới hình thức thụ thai nhân tạo đi nữa cũng không thể thiếu cái tế bào tinh trùng ấy. Không có nó không thể tạo nên hình hài. Qua lý lẽ trên buộc ta phải nhận rằng: Cơ thể hữu hình thế nào thì cơ thể vô hình cũng vậy. Thế nên, từ khi mới chào đời cho đến lớn khôn thông thường con cái đều gọi Đấng sanh thành ra mình là Ba, người Bắc gọi Bố, người Pháp gọi là Papa, người Anh gọi là Father. Nhưng tại sao gọi là Ba? Còn một, hai ở đâu? Hẳn nhiên cái điều bí-mật ấy mọi người không thể từ chối được. Bởi cái hạnh phúc luôn bao trùm trong một gia đình là gồm đủ số: Cha - Mẹ- Con. Ngày nay Đạo Cao-Đài cho biết rõ: - Ngôi một là Đức Thượng-Đế, là Đức Chí-Tôn còn gọi là Đại-Từ-Phụ. - Ngôi hai là Đấng Mẹ Sanh của nhân loại, tức là Đức Phât-Mẫu Diêu-Trì, là Đại Từ Mẫu. - Ngôi Ba tức là Cha Mẹ phàm thể này đây. Vậy về quyền năng của ba ngôi ấy thì: - Ngôi Chí-Tôn là Phật tạo ra Chơn linh hay linh hồn, tức là Ngài ban cho điểm linh quang sáng suốt, mà con người hơn con vật và đứng đầu cả chúng sanh. - Ngôi Phật-Mẫu là Pháp, tạo ra Chơn thần, tức là trí não, nhờ đó mà có học mới hay, mới hiểu biết mọi việc. - Ngôi Tăng là Cha Mẹ, là Đấng sanh thành tạo ra 5

6 xác thể này đây (tức là ngôi Ba ) Chính ngôi Ba này là Đấng Thay Trời tạo thế giữ giềng nhơn luân làm đạo trọng vậy. Do đó mà đạo pháp đến với con người bằng tất cả tinh thần yêu ái, âm vang trong nghĩa đồng Đạo, đồng bào, đồng loại, hầu như nó rung động bằng một thứ tình cảm nồng ấm đến buồng tim, thớ thịt. Thế nên, một lời than của Đức Thượng-Đế, của Đấng Cha lành, dù chưa thấy mặt, nhưng con tim vẫn xao xuyến, bồi hồi, rung động:là tiếng thỏ-thẻ của tình cha con Ngày 27-4-Ðinh Mão (dl: ) THẦY, các con. Hội Thánh là vầy các con há? Áo não! Thảm thay! Thầy tưởng khi chẳng lẽ phải cần nói ra; đợi cho Thánh chất các con tăng thêm đặng chút nào, lại càng thấy đặng khổ não của Thầy vì các con mà đeo đuổi từ ngày khởi lập nhơn loại đến chừ, chẳng dè phàm chất các con nó mạnh mẽ thế nào đè khuất trọn vẹn chút mảy mún Thánh-chất Thầy để vào lòng các con, nên nay Thầy buộc mình phải nói rõ. Các con ôi! Thầy hỏi vậy chớ mỗi phen độ rỗi cho đặng các con, các con có bi ết Thầy chịu khổ não dường nào chăng? Quyền hành Chí-Tôn của Thầy, các con nếu hiểu thấu thì các con sẽ thấy nó là một hình phạt rất nặng nề, chẳng khác nào như gông với tróng. Thầy lập nhơn-loại là giòng-giống các con, chỉ tưởng rằng ban đặng phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật nơi cõi thế giới càn khôn, đặng làm cho rõ Thánh-chất mạnh mẽ hơn phàm chất; nào dè còn lại đặng chẳng đủ một phần triệu đấng, thì thế nào Thầy không đau lòng cho đặng? Thầy chưa hề biết hành phạt các con bao giờ. Từ 6

7 khai Thiên Thầy đã sanh ra các con, sự yêu mến của một ông Cha nhân từ thế quá lẽ làm cho đến đỗi con cái khinh khi, phản nghịch lại cũng như Kim Quan Sứ là A-Tu-La, Thánh-giáo gọi là Lucifer phản nghịch, náo động Thiên Cung. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cò n phàn-nàn trách cứ Thầy thay!. Các con ôi! Ðã gọi là Ðấng cầm cân, lẽ công bình thiêng liêng đâu mà Thầy đặng phép tư vị. Thầy lấy lẽ công bình thì tức nhiên phải chiếu theo Thiên điều, mà chiếu theo Thiên điều thì là con cái Thầy tức là các con, phải đọa trầm luân đời đời kiếp kiếp. Các con phải ngồi nơi địa vị Thầy, thì các con thế nào? Mỗi phen Thầy đau thảm khóc lóc các con, phải lén hạ trần, quyết bỏ ngôi Chí-Tôn xuống lập Ðạo, lại bị các con bạc đãi, biếm nhẻ, xua đuổi bắt buộc đến đỗi phải chịu cho các con giết chết? Ôi! Thảm thay! Thảm thay! Các mối Ðạo Thầy đã liều thân lập thành đều vào tay Chúa Quỉ hết, nó mê hoặc các con. Nhiều bậc Thiên-Tiên còn đọa; huống lựa là các C hơn thần khác của Thầy đương nắn đúc thế nào thoát khỏi. Thầy đã chẳng t rách phạt Kim Quan Sứ lẽ nào lại trách phạt các con. Song hình phạt của Thiên Ðiều, dầu chính mình Thầy cũng khó tránh. Các con tự lập hình phạt cho các con, cũng như Thiên Ðiều mà Thần, Thánh, Tiên, Phật lập thành đó vậy. Thầy đã cho kẻ thù Thầy đặng hưởng ân điển của Thầy lẽ nào truất bỏ phần của các con, song tại các con từ chối, đáng thương mà cũng đáng ghét. Mỗi phen Thầy đến lập Ðạo thì là phải cam đoan và lãnh các con, chẳng khác nào kẻ nghèo lãnh nợ. Các con làm tội lỗi bao nhiêu, oan nghiệt bấy nhiêu, Thầy đều lãnh hết. Các con đặng thong dong rỗi rảnh chẳng lo tu đức mà sửa mình, lại còn cả gan trước mặt Thần, Thánh, 7

8 Tiên, Phật, gây thêm tội lỗi nữa, thiệt là đáng giận. Thầy chẳng biết bây giờ đây Thầy phải bỏ Ðạo, liều đọa với các con, hay là đợi cho Ðạo bỏ Thầy đó các con? Cắt ruột ai lại không đau; nếu Thầy không cầu khẩn Thái-Bạch đình hình phạt lại cho tới ngày lập thành Tòa Thánh, các con lấy công mà chuộc tội, thì trong các con chẳng đặng còn lại một phần mười, các con nên lấy lời răn Thầy đây làm vị thuốc khử tội của các con, phải sợ mạng lịnh Thái Bạch. Thầy nhắc các con lại một phen nữa. Thầy ban ơn cho các con. Thầy thăng. 1- ĐẠI CƯƠNG VỀ TAM BỬU Trong cửa Đạo Cao -Đài ngày nay, người Tín hữu sùng thượng Đức Thượng -Đế bằng cách dâng Tam-Bửu cho Người, đó là dùng các vật làm biểu-tượng, như: - Bông, tượng trưng cho xác thân, ấy là TINH - Rượu, tượng trưng cho Trí não, ấy là KHÍ - Trà, tượng trưng cho linh hồn, ấy là THẦN. TINH. KHÍ. THẦN gọi là Tam bửu, tức là ba món quí báu nhứt của con người. Đức Hộ-Pháp nói: Trọng giá của TAM BỬU mà CHÍ TÔN ưa chuộng để dâng Đại Lễ cho Ngài là nguyên nhân chấm dứt cái hoạ tranh thù đã gây nên trường oan nghiệt cho toàn thế-giới. Ngày hôm nay Đức Chí -Tôn đến, Ngài biểu chúng ta dâng cho Ngài ba món gọi là Tam bửu là: Tinh Khí Thần. Ngài thể nó là Bông, là Rượu, là Trà. Bần Đạo tưởng nếu lấy vật ấy mà tưởng tượng thì nó không nghĩa lý gì hết. Ôi! Biết bao nhiêu quí hoá, nếu cả thảy con cái của Ngài biết Đức Chí-tôn muốn dâng cho Ngài cái gì thì của dâng ấy quí hoá không thể nói. 8

9 Tinh: là Ngài biểu dâng hình thể của ta tức nhiên dâng xác thịt ta, nghĩa là dâng cái sống của ta nơi mặt thế gian này đặng cho Ngài làm khí cụ, đặng Ngài phụng sự cho con cái của Ngà i, nó thuộc về Tinh tức nhiên Bông đó vậy. Phải dâng cho Ngài cái hình xác chúng ta cho đẹp đẽ, cho trong sạch, cho thơm tho, cho quí hoá như Bông kia mới được. Tưởng tượng Ngài muốn cho chúng ta trong sạch như vậy là vì Ngài mong con cái của Ngài biết thương yêu lẫn nhau, rồi lại tự mình tu tâm dưỡng tánh thế nào cho đẹp đẽ mỹ miều như BÔNG kia đặng xứng đáng làm Thánh thể của Ngài, đặng phụng sự cho con cái của Ngài. Giờ nói về Rượu: Ngài thể cái Chơn thần của ta tức nhiên thể cái trí thức. Cái khôn ngoan của ta về Chơn thần, tượng ảnh trí thức khôn ngoan tức nhiên Ngài biểu cả trí não con cái của Ngài phải dâng trọn cho Ngài đặng làm khí cụ. Giờ phút nào toàn thể con cái của Ngài có trí óc khôn ngoan đặng phụng sự cho nhơn loại thay thế cho Đại Từ Phụ mà nói rằng: Chúng tôi không biết làm gì ngoài phận sự thiêng liêng của Đức Chí -Tôn giao phó. Ngày giờ nào toàn thể con cái của Ngài biết nói như thế đó, thì ôi, hiến cho Đức Chí -Tôn một vật quí hoá không thể nói gì được. Nói về Trà: Ngài thể Trà là tâm hồn tức nhiên Ngài biểu cả tâm hồn của ta hiệp lại làm một khối với nhau. Giờ phút nào toàn thể con cái của Ngài hiệp cả tâm hồn làm một, cái tâm hồn này sẽ làm tâm hồn của mặt địa cầu này, cho trái đất này, nó sẽ làm tâm hồn của toàn thể nhơn loại. Ngày giờ nào cả toàn thể con cái của Ngài tượng ảnh tâm hồn cho toàn thể nhơn loại được, thì ngày giờ ấy có thể Thánh-thể của Ngài mới phụng sự cho Vạn linh tức nhiên con cái của Ngài hạnh phúc được. Chỉ ngày ấy mới 9

10 có thể nói rằng: Nhơn loại hưởng được hồng ân đặc biệt của Ngài, mà hưởng được hồng ân đặc biệt của Ngài thì ngày ấy mới mong hưởng được Hoà bình và Đại Đồng Thế giới (Đức Hộ-pháp đêm Nhâm Thìn Tam bửu là gì? Danh-từ TAM BỬU mới nghe qua như đơn giản mà thật sự lý lẽ đã bao trùm khắp cả Càn khôn vũ trụ, đó là giai đoạn thành hình một cách hoàn chỉnh nhứt, từ một con vật tế vi cho đến con người và cả thế giới qua không gian cũng như thời gian vô tận. - Trời có Tam bửu: NHỰT- NGUYỆT- TINH, tức là sự hình thành nên các Thiên tượng như mặt trời, mặt trăng và các vì Tinh tú. Khi đã có đủ Tam bửu thì có sự phân hoá bởi Âm Dương mà thành ra Ngũ Khí là Vân (mây), Vũ (mưa), Vụ (sương mù), Lôi (Sấm), oanh (sét). - Đất có Tam bửu: THUỶ (nước), HOẢ (lửa), PHONG (gió). Ba yếu tố nước, lửa, gió rất quan trọng để tác động nên lý Ngũ Hành: Kim ( kim-loại), Mộc (cây), Thuỷ (nước), Hoả (lửa), Thổ (đất). - Người có Tam bửu: TINH- KHÍ- THẦN và do Âm Dương phối hợp tạo thành Ngũ Tạng: Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận. Bởi người là một sản phẩm hoàn chỉnh nhất của Thượng-Đế đã nắn đúc nên hình. Thế nên người khôn ngoan nhất trong vạn loại và đứng đầu chúng sanh, mới xứng đáng là Thượng-Sanh, vì thế người Môn -đệ của Đấng Chí-Tôn khi cỗi xác trần về với Hư vô được hiên ngang ngự trên phướn Thượng -Sanh mà về chầu Bạch Ngọc. Đó là Tam tài: Thiên- Địa- Nhân, nên người mới: - Trên thông Thiên-văn. - Dưới đạt Địa-lý. - Giữa quán Nhân sự. 10

11 Khi được Thiên lương dẫn đường cho kiếp sống này tức là làm Chủ được mình. Khi đã làm chủ được mình, chính là làm chủ vũ-trụ. Phật Thích-Ca nói: Thắng một vạn quân không bằng tự thắng lấy mình. Ngày nay Đức Thượng-Đế đến mở Con Mắt thứ ba cho nhơn loại để tự biết mình và biết người, tức là biết thờ Thiên-lương vậy. Ngài cũng đã đem Tam bửu của Trời là Nhựt, Nguyệt, Tinh đặt trong Hội-Thánh Cửu -Trùng-Đài trình trước thiên lương của nhân loại để cùng biết nhìn Ngài là Đấng Cha chung của Càn khôn vạn loại. Ba báu: NHỰT, NGUYỆT, TINH là ba ảnh tượng của người đại diện trong thời Nhơn sanh ư Dần, là ba vị Đầu-sư của ba phái thay vì là Thái, Thượng, Ngọc, được ân phong đầu tiên là: - Thượng Đầu-Sư Thượng Trung Nhựt - Ngọc Đầu-sư Ngọc Lịch Nguyệt. - Thái Đầu-sư Thái Nương Tinh và Thái Minh Tinh Mặt trời, mặt trăng mỗi thứ chỉ có một, nhưng Tinh là sao thì rất nhiều, có đến 3072 ngôi sao, nên phải có hai vị mang chữ Tinh. Số 3 là do số 1 và 2 hỗn hợp lại mà biến ra 3. Số 3 là con số căn bản trong tất cả các số. Chính nó là một con số Huyền diệu và nhiệm-mầu nhứt. Thế nên đề tài TAM BỬU này cũng chỉ nói riêng về SỐ 3 ấy và là: SỐ 3 HUYỀN DIỆU 3- Lý uyên nguyên của Tam bửu: Nếu đem cộng ba lần con số của ba bửu trên lại thì thành ra 9 =(3+3+3) hay là ba bình phương cũng vậy. Bấy giờ số 9 là số Cửu Thiên Khai hoá mà thiêng liêng đã định cho vào Cửu phẩm Thần Tiên, nhìn nhận công quả lúc sanh tiền nơi Cửu-Trùng-Đài, mà mỗi người lập vị. 11

12 Số 9 là số lão Dương, là con số huyền diệu, nó là cơ chuyển biến đến mực độ tận thiện, tận mỹ, toàn tri, toàn năng. Nó là 1+8 tức là cơ vận hành trong trạng thái tĩnh được lý Thái cực thúc đẩ y thêm cho nên năng tri sáng suốt. Nó cũng là ba bình phương, là cấp bực tam thừa biến hoá vận hành suốt thông trời đất. Đến số 9 là đến chỗ tột cùng vận động để hiệp về cơ qui nhứt. Phép toán học đến 9 khử rồi trở về 0 (Không) là vậy. Cùng cực cái động để trở về trạng thái tịnh nguyên thuỷ. Số 9 là Lão Dương, lão là già, già thì tất nhiên biến đổi. Khác với số 1 là số Thái Dương, là cái Dương cực thịnh. Bởi số 1 là số đầu tiên sau số 0, tức là cái nguồn sanh hoạt trước nhứt để biến vi hữu tướng. Đó là những con số để chỉ quyền uy tối thượng mà trong trời đất này không gì cao cả hơn quyền năng của Thượng -Đế ngự ở ngôi Thái-Cực Thánh-Hoàng. Ngài đã nắm cả Tam tài vào trong tay, nên con số này được lấy làm ngày Đại-lễ Đức Chí-Tôn thường năm vào ngày mùng 9 tháng 1 (giêng) Âm lịch, để chỉ quyền vi chủ là ngôi Dương. Cũng như con số Ngũ (5) là con số trung cung, điều hoà vũ trụ, vạn vật và con người. Gấp 3 lần con số ngũ sẽ được 15= (3x5) gọi là Thập Ngũ. Người nắm máy điều hoà trong cơ quan: Càn Khôn sản xuất hữu hình, Bát hồn vận chuyển hoá thành chúng sanh. Không ai khác hơn là quy ền năng của Phật -Mẫu. Phật Mẫu là Mẹ sanh của vạn vật, vạn loại. Phât-Mẫu nắm tám (8) đẳng cấp chơn hồn, do đó ngày Vía Đức Mẹ Diêu Trì là ngày (rằm) 15 tháng 8 Âm lịch hằng năm, đó là ngôi Âm, quyền năng Tạo hoá. Âm Dương tương đắc mới thống hiệp Tam tài là bởi đó. Do vậy: Đức Chí-Tôn và Đức Phật -Mẫu là hai 12

13 Đấng tự hữu, hằng hữu, tức là Đấng Tạo đoan, tạo nên Càn Khôn Thế giới, bất sanh, bất hoại nhiệm mầu, huyền huyền diệu diệu. Lấy những con số nhiệm mầu này làm biểu tượng mà làm ngày Vía hai Đấng Tạo đoan của Càn Khôn vũ trụ, chứ các Ngài đã nói rằng không sinh, không diệt thì làm gì có ngày thăng thiên hay giáng hạ mà làm ngày Vía (ngày giỗ) như các bậc Thánh, Tiên, Phật khác Tóm lại: Các ngày Cúng ễ lhằng năm Âm lịch tại Toà Thánh, trong ấy chỉ có hai ngày Lễ quan trọng nhứt: - Ngày 9 tháng giêng: Đại Lễ Đức Chí-Tôn - Ngày 15 tháng 8 Đại Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung Hơn nữa: Về Chơn-pháp cũng như về Bí -pháp thì mọi cơ cấu hữu vi trong cửa Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đều phải có đủ Tam Bửu: Tinh- Khí - Thần. Người đứng đầu trong chúng sanh gọi là Thượng Phẩm nhơn sanh phải có đủ Tam tài tức là Tam bửu vậy. Xưa Đức Khổng -Tử nói: Thiên Nhơn tương dữ, thiên nhơn tương đồng, nghĩa là trời và người hiệp một. Nay trong cửa Đạo Cao-Đài đã thể hiện điều ấy, tức nhiên: Trời Người đồng trị: Người trị xác, Trời trị hồn. Đó là tính cách Âm Dương hoà hợp. Ai dám bảo Đạo Cao Đài không phải bất cứ nơi nào cũng nói về lý Âm Dương? Đây không do con người gượng ép, mà tại vì chưa có dịp thấy, hoặc chưa tìm thấy, hoặc không muốn thấy. Thật ra ta càng đi sâu vào nguyên lý của vũ trụ, của trời đất là cốt để đưa tầm mắt hướng về vũ trụ mênh mông vô hạn định để con người cùng hoà nhập trong cái vô cùng tận ấy, tức là sống cho hợp lẽ Đạo. Nếu chúng ta không biết gì hết cũng sống, rồi vạn vật cũng sống, nhưng cái sống giữa sự biết và vô minh hai cái sống có khác nhau. Thăng đoạ cũng từ đấy, Thánh 13

14 phàm cũng từ đấy mà ra, luân hồi chuyển kiếp mãi cũng từ đấy! Bây giờ phải tìm học những gì? 4- Toà Thánh phải có ba Đài tượng Tam bửu: Ngày nay Đức Thượng-Đế đến với nhân loại, Ngài không có nhân thân phàm ngữ nên phải lập Hội Thánh ba Đài làm cơ thể hữu vi của Ngài. Tức là: Trong Đại-Đạo có ba Đài, có ba người làm Chủ: - Bát-Quái-Đài dưới quyền Đức Chí-Tôn, Ngài là Chúa của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cùng Vạn linh, chính ông chủ Bát-Quái Đài là Đức Chí-Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế. - Cửu Trùng Đài là dưới quyền Giáo -Tông làm chủ, giáo hoá nhơn sanh - Hiệp-Thiên-Đài là Hộ -Pháp làm chủ, bảo tồn chơn pháp. Trong ba Ông chủ ấy thì chỉ có hai ông này là Cửu Trùng-Đài và Hiệp -Thiên-Đài nếu đứng riêng ra không thế gì dâng sớ cho Bát-Quái-Đài, tức nhiên:. Quyền Chí-Tôn nơi Bát-Quái-Đài.. Hai Đài Cửu -Trùng và hiệp -Thiên hiệp nhứt là Quyền Chí-Tôn tại thế, không có một quyền nào cai quản cải qua quyền Bát-Quái-Đài được (ĐHP: 18-8 Kỷ Sửu) Ba Đài tức nhiên là TAM BỬU của Chí-Tôn đó vậy. 5- Ba ngôi Phật - Pháp - Tăng: Về nghi thức Lễ bái của Đạo Cao-Đài, người Tín hữu trước khi mật niệm đều có lấy dấu: Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi cũng không ngoài ý-nghĩa Tam bửu: - Phật, quyền năng tối thượng là Đức Chí-Tôn. - Pháp, quyền năng tạo đoan là Đức Phật-Mẫu.. -Tăng, quyền-uy giáo hoá, đứng làm đại diện qua mỗi nguơn hội như: 14

15 - Nhứt kỳ Phổ-Độ: Phật A-Di-Đà - Nhị kỳ Phổ-Độ: Phật Thích-ca Mâu-ni. - Tam kỳ Phổ độ: Phật Di-lạc Vương Buổi này Ngài chấp chưởng quyền hành thay Trời tạo thế. Còn thay quyền Tam giáo có Phật Quan-Âm. Vì thế cho nên hai ngôi: Phật, Pháp không đổi, mà ngôi Tăng thay đổi tuỳ theo thời kỳ. Dù phân biệt ba ngôi như vậy nhưng về bản thể cũng gồm về duy nhứt mà thôi. Điều dễ nhận ra nhứt là thời tiền khai Đại-Đạo, Đức Thượng-Đế đến với ba vị Xây bàn thường tá danh là AĂ cũng biểu hiệu ba ngôi cùng chung một bản thể, tức là cùng chung một gốc, nhưng gốc ấy chỉ có một, xuất hiện từ chữ vần đầu tiên chỉ một vần A, nhưng khi qua Việt Nam (Á châu) liền biến thể: một sanh ba AĂ : A (gốc của tiếng La-tinh (Âu châu) tượng Thái cực. Ă (dấu Ă như nửa vành trăng) tượng Lưỡng nghi.  (dấu  đủ cả âm dương) ngôi Tứ tượng. Ba chữ AĂ là chỉ quyền uy tối thượng của Thượng Đế, một sanh ba, ba sanh vạn vật, nắm ngôi chủ tể càn khôn vũ trụ. Ngày nay Ngài đã đến với nhân loại, còn cho biết rằng Ngài dùng Quốc ngữ là m chính tự và Chi chi cũng tại Tây Ninh mà thôi. Chắc rằng tiếng Việt sau này sẽ trở thành Quốc-tế-ngữ và chính đây là thứ Văn dĩ tải Đạo tức nhiên văn hoá nhà Nam sẽ chở Đạo đi khắp Năm Châu để truyền bá giáo lý siêu tuyệt của Đạo Trời. Ngài đã trao bộ Thiên-Thơ cho dân tộc Việt -Nam. (là Thánh ngôn Hi ệp Tuyển) Bởi Đạo Cao-Đài là một Chánh giáo siêu khoa học. Vả lại là một nền giáo lý tổng hợp giáo-lý của Tam-giáo thì tầm quan trọng đến dường nào! Trong thân người đủ ba ngôi Phật Pháp- Tăng: Trước tiên xét đến vật vô tri, vô giác như dòng 15

16 nước, cây cỏ, hay bất cứ một loài sinh vật nào nó cũng có đủ Tam bửu Phật- Pháp- Tăng trong đó. Trong thân người cũng vậy, khoa học thực nghiệm đã thấy rõ thân thể người ta có ba phần: đầu, mình và tay chân; đó là về phầ n hữu hình, về nhân dạng. Nhưng nếu chỉ dừng ở đó để quan sát bằng kính hiển vi, để theo dõi từng tế bào, hồng huyết cầu, bạch huyết cầu mà khoa học đã trải qua hằng bao thế kỷ gia công tìm tòi, nghiên cứu rồi bào chế ra thuốc để chữa trị các thứ bệnh tật hay các cơ quan trong người bị hư hao, thì đó là khoa học đã cống hiến cho nhân loại về phần về thực nghiệm. Cho đến cuối thế kỷ 20 này gần như tuyệt hảo. Nhưng hằng bao thứ ấy chỉ mới giải quyết được một phần hữu thể mà thôi, tức là phần xác thân thứ nhất của con người bằng xác thịt. Chính cái xác thân này cũng hoà đồng với vạn vật như cây cỏ, thú cầm vậy. Bởi vì xét ra một nguyên tử tinh trùng của người hay con vật nó cũng cấu tạo bởi một điện tử Dương và 9 đi ện tử Âm. Đạo giáo cũng cho rằng con người là xác thú dành cho vị Phật cỡi. Bởi trong chơn linh người có tính trời trong ấy. Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh. Thế nên xác thân người có những nhu cầu đói ăn, khát uống, cả đến sự truyề n giống cũng như nhau. Nhưng đối với người có sự thanh lịch, tế nhị và đạo-đức khác nhau, khác hơn cầm thú mà thôi. Bởi: - Cây cỏ chỉ có một sanh hồn, tức là hồn sống. - Động vật có thêm giác hồn cùng với Sanh hồn. - Người có đủ Tam hồn: Sanh hồn, Giác hồn và Linh hồn. Đó là một tác phẩm hoàn hảo nhất của Thượng Đế. Nhà Tư tưởng Pascal nói: Người là một cây sậy biết tư tưởng. Chính cái tư tưởng là nấc thang tiến hoá để cho người đoạt vị đến Thần, Thánh, Tiên, Phật, tức là tùng theo khuôn luật của Chí-linh nó làm cho khác xa giữa vạn 16

17 vật và con người muôn trùng diệu vợi. Đức Thượng-Phẩm cũng cho biết từ vật chất tiến hoá lên đến phẩm người phải qua chín chục ngàn kiếp (90.000), tức là con đường mòn sanh tử của Vạn-linh phải trải qua rất nhiều bài học để tiến dần đến nhứt linh! Như vậy về vô hình thì con người cũng có ba xác thân: Đạo giáo gọi là Tam bửu Tinh- Khí- Thần. -Tâm, biết tôn sùng đạo đức, thuộc Phật (Thần) -Tính biết tìm tòi lẽ khôn ngoan, học hỏi thuộc Pháp (Khí) -Xác, khuynh hướng thoả thích giác quan là Tăng (Tinh) Vậy thì khoa học thực nghiệm mới phát huy cái tài năng siêu tuyệt đối với xác thân con người như ghép tim, ghép gan, chỉnh hình tức là đem lại sự sống cho người ở hiện tại, nghĩa là mới được một phần ba trong cái quyền năng sở hữu của Thượng-Đế ban cho con người mà thôi, là điều chỉnh được một trong ba bửu của người, ấy là về phần TINH, là đệ nhứt xác thân. Còn lại KHÍ và THẦN thì khoa học hiện giờ chưa giải quyết được. Bằng chứng là khoa Tâm-thần-học vẫn bó tay trước con bịnh điên, chưa trả lại trí nhớ cho người mất trí, tức là chưa làm cho người điên hoá tỉnh, chưa làm cho kẻ khờ hoá khôn. Về THẦN, khoa học cũng chưa làm cho kẻ vô đạo, hung hăng thành người đạo đức, kẻ gian xảo thành người lương thiện. Bằng cớ là còn nhà tù, trại cải tạo để giam giữ kẻ phạm pháp, vẫn còn nhiều Toá án để kết tội phạm nhân. Vậy chỉ có nhà Tôn-giáo mới làm được mà thôi! Nhưng xưa nay tại sao không giải quyết nỗi? Vì tư tưởng của Tôn-giáo quá cao xa khiến người đời không vói tới. Chỉ trừ các Đấng Giáo-Chủ mà thôi. Chúa đã trị lành bịnh cùi, chữa người mù hoá sáng, chữa người điên hoá tỉnh. Ngay trong cửa Đạo Cao -Đài thời kỳ tiền khai Đại Đạo các bậc tiền bối cũng vẫn chữa được các bịnh nguy cấp ấy 17

18 (Xem Huyền diệu Cơ bút Quyển II). Nhưng tại sao Đạo Cao Đài không tiếp tục chữa trị cho chúng sanh? Tại sao Chúa không chữa tất cả các thứ bịnh cho nhân loại nhờ? - Thứ nhất là Chúa muốn thể hiện quyền năng tối thượng ấy để cho con Chiên của Chúa tin rằng Người là hiện thân của Đức Chúa Trời, tin tưởng mà theo Chúa để được lên Nước Thiên đàng. Tức nhiên muốn chứng minh rằng nhà Tôn giáo chân chính sẽ làm được những gì gọi là huyền diệu, là siêu phàm ấy hết. Không có một bệnh ngặt nghèo nào mà quy ền năng Thiêng liêng không thể trị được. Không có một bệnh nào gọi là bó tay cả - Thứ hai là những người đến với Chúa không phải bằng Đức tin mà họ đến với Chúa bằng sự thử thách, để rồi sau cùng giết Chúa. Đóng đinh trên cây Thánh giá, Chứng tỏ người chưa đủ nhân tính. Hình ảnh này có khác nào muốn cho bóng đèn sáng mà không chịu nối hai đầu điện câu thông với nhau? Người không tin ở Thượng Đế, ở Thần quyền, cứ chống trời, nguyền rũa Thánh Thần, bảo làm sao Hạnh hưởng phước duyên có chết cũng vừa! Thiên tai cứ lần lượt đến là lẽ dĩ nhiên vậy. - Thứ ba là quả nghiệp của nhân loại còn quá nặng nề phải tự trả lấy. Trời sẽ dành cho tất cả những sự Thưởng phạt đến cùng Thánh Đức thôi. Mãi đến ngày giờ này vẫn còn có kẻ tin rằng con người Chết là hết! Từ chối linh hồn là sự sống bất diệt mà con người đến thế này vẫn làm hành trang cho kiếp sống.. Nếu họ có quyền hành thì bất cứ ai bảo rằng Linh hồn này do Thượng-Đế ban cho, còn trí khôn ngoan do Phật Mẫu bố hoá thì có lẽ sẽ bị chết ngay theo Ông Galilée như ngày xưa đã chịu án tử hình, vì dám khẳng định rằng quả đất tròn, trong khi đó mọi người cho rằng quả đất vuông! 18

19 Nếu quả thật không có một quyền năng tối thượng của Trời, của Thượng-Đế tác động, chi phối toàn thể Vạn linh thì tại sao mỗi người không sinh con theo ý muốn, nghĩa là tự nắn nên đứa con đẹp đẽ khôi ngô tuấn tú, giỏi dắn về trí lự, đạo đức về tinh thần? Nhưng thực tế nếu rủi sanh ra đứa con què quặt, tật nguyền, khùng điên, cho đến cả sự chết cũng đành bó tay mà thôi. Ngày nay, Đức Chí-Tôn đến qui Đức-tin của nhân loại dựng nên mối Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này để thông truyền khắp cả nhân loại hay rằng đúng là thời kỳ gặt hái kết quả tốt đẹp, là bến ước mơ của toàn sanh chúng. Dù bất cứ là vật gì cũng có thời gian ấn định, không thể sớm hoặc muộn được, nghĩa là ph ải đúng THỜI mà các nhà tiên tri đã giáng dạy rằng: Đạo Trời chỉ có Một, phải tồn tại, càng ngày càng mở rộng, không bao giờ mất động lực, bất di bất dịch. - Giáo-lý của Moise là cái nụ, - Giáo-lý của Jésus là cái bông - Giáo-lý của Cao-Đài là cái trái. Hoa không phá hủy nụ, trái không tàn phá hoa:. Không có sự phá hủy, chỉ có sự hoàn thành.. Những lá chết của nụ phải rụng đi để cho hoa nở,. Những cánh hoa rồi cũng phải rụng đi để thành trái và để cho trái chín. Những lá chết, cánh hoa rụng có phải là vô dụng không? Có nên bỏ đi không? -KHÔNG! Cả lá chết và cánh hoa rụng lúc thường cũng tương ứng cần-thiết, không có nó không thành trái. Hôm nay, Đạo Trời đã đến lúc hoàn thành các giai đoạn -Giáo-lý của Đại-Đạo là tinh hoa của ba nền Tôn-giáo. -Tôn-chỉ của Tam-Kỳ là cứu-rỗi 92 ức nguyên-nhân qui hồi cựu vị -Mục đích của Phổ-Độ là đưa nhân loại đến Đại Đồng: 19

20 - Đại-Đồng nhân-chủng - Đại-Đồng Tôn-giáo - Đại-đồng xã-hội. Như Đức Chí-Tôn đã hứa Que l humanité soit une: - Une comme race, - Une comme religion, - Une comme pensée. Thế nên: vai trò của Đức Phật Di-Lạc ngày nay là cầm quyền Chưởng giáo của kỳ ba Phổ-Độ này tuyên hứa với nhân sanh nếu biết Tùng thị Pháp điều Tam-Kỳ Phổ độ tất đắc giải thoát luân hồi đắc lộ Đa la Tam Diệu Tam Bồ Đề thị chi chứng quả Cực Lạc Niết bàn (Kinh Di-Lạc) Vậy Pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ là gì? - Thầy nói: Thầy vì sợ phàm tâm tục tánh, lập Luật Pháp rất nghiêm đặng đủ quyền hành buộc cả Hội-Thánh, nghĩa là thân thể Thiêng liêng hiệp làm một: - LUẬT thì có Tân luật. - PHÁP thì có Pháp Chánh Truyền. - QUYỀN thì có Toà Tam giáo. Ấy là cái còi, cây gậy, hàng rào Thiên g liêng đặng lùa cả các chuồng chiên của Thầy hiệp Một; mà hại thay, kẻ chăn chẳng biết lóng tiếng còi, đoàn chiên không kiêng con gậy, rào thưa rích thưa ran ể đđến đỗi bầy sói lũ hùm bắt Chiên của Thầy phân thây xé thịt; cái hại ấy do tại nơi đâu? (Pháp Chánh Truyền) Đó là tất cả yếu lý, là chiếc chìa khoá mà ngày nay Đức Chí-Tôn đến thân trao cho nhân loại cái ẤN KIẾT QUẢ, như vậy Tu thì thành, dữ thì đoạ. Vì đây là cơ qui nguyên phục nhứt, dù cho mỗi vật thể cũng vậy, cũng phải chung chịu trong định-luật ấy. Thầy nói cơ tạo đoan Càn-khôn vũ trụ ra sao thì 20

21 trong vạn vật cũng tương liên như vậy: cùng mộ t khuôn khổ, một định luật như nhau hết: - Trên hết cả là Phật, ấy là ngôi cao thượng hơn hết, nắm pháp huyền vi, - Phật mới chiết tánh ra Pháp ấy là ngôi thứ nhì. - Pháp mới sanh Tăng ấy là ngôi thứ ba. Ba cơ quan ấy chừng qui nhứt lại thì duy chỉ có một nguyên căn, một bổn thể. Nay, trong cửa Đạo Cao -Đài, Thầy cho biết rõ Chúa cả tạo đoan là Thầy, nắm cơ huyền vi bí mật ấy trong tay. Thầy mới phân tánh Thầy ấy là Pháp. Pháp tức là quyền năng của Thầy thể hiện ra. Cũng như Thái-cực ở trong cõi tịnh, rồi từ trong cõi tịnh ấy Thái -cực phát động mới sinh ra Pháp, Pháp tức là những định luật chi phối cả Càn khôn, mà người nắm luật chi phối ấy là Phật-Mẫu. Qua hội Tam -kỳ này Đức Phật Di-Lạc đã đến để lập lại Thượng nguơn Thánh Đức là thời kỳ của Ngài đã hẳn. Pho tượng Ngài cỡi cọp ngự trên nóc Phi Tưởng Đài của Đền Thánh để tuyên bố với Đại-Đồng Thế giới rằng Ngài đang làm Chưởng giáo Kỳ ba, tức là làm Chủ Long Hoa Đại Hội hầu đưa nhân loại đến Chân, Thiện, Mỹ. Con đường đó sẽ dài đến Thất ức niên, tức là bảy trăm ngàn năm ( ). Ngài sẽ là Người khởi khai mối Đại-Đạo này được Đức Chí-Tôn xác nhận qua hai câu liễn đối treo trong ngày Lễ Khai Đạo tại Từ-Lâm-tự (Gò kén-tây ninh) vào ngày năm Bính-Dần (dl ). - Di-Lạc thất bá thiên niên khởi khai Đại-Đạo. - Thích-Ca nhị thập ngũ thế chung lập Thiền môn Như vậy mối Đạo Trời của Đức Chí-Tôn ngày nay do Đức Di -Lạc-Vương chấp chưởng, tức là người khởi khai mối Đạo này cho đến bảy trăm ngàn năm. Còn Đạo Phật do Đức Thích-Ca qua hai ngàn năm trăm năm (hai 21

22 mươi lăm thế kỷ) đã kết thúc mối Đạo Thiền. Hôm nay bài Kinh Di-Lạc mà Tín hữu tụng đọc thường ngày chính là bản Vi bằng giao ước giữa Đức Phât Thích-Ca và Đức Phật Di-Lạc vậy. Lần này Đức Chí-Tôn sẽ tuyển chọn một trong ba Đấng để thay Thế cho Đức Ngài làm Chủ ngôi Trời này: 1- Đức Phật Thích-Ca. 2- Đức Chúa Jésus-Christ. 3- Đức Phật Di-Lạc. Trong số ba Đấng này sẽ có một Đấng thay quyền Đức Chí-Tôn để điều khiển càn Khôn vũ trụ. Con số 3 đã chi phối toàn cả vật loại, nên: - Phật, cầm quyền năng của Chơn linh. - Pháp, cầm quyền năng của Khí thể tức là cơ sản xuất hữu hình. -Tăng, cầm quyền năng nuôi sống thể hài. Do đó mà quyền hành mỗi ngôi mỗi khác: Đấy là nhiệm vụ của Đạo Cao-Đài kỳ ba Cứu thế và Chuyển thế làm sao cho Tam bửu của Trời và Người được hiệp một, tức là Vạn linh trở về với Nhất linh. Thế nên đây chính là thời-kỳ gặt hái, thời-kỳ thâu thập kết quả. 6-Lời Chúa Cứu Thế đã phán cùng nhơn loại năm trước đây rằng: Nay búa đã để kề gốc cây rồi: Hễ cây nào không sanh trái tốt thì đốn mà quăng vào lửa. Và Ngài đã nhắc thêm rằng: Ta thì làm Bấp-têm cho các ngươi bằng nước để ăn năn, song Đấng đến sau Ta có năng lực hơn Ta, Ta không đáng xách dép cho Ngài. Ngài sẽ làm Bấp -têm cho các Ngươi bằng Thánh linh và Lửa. Tay Ngài cầm nia sẽ xảy thật sạch sân lúa mình, xúc lúa mì vào kho, còn trấu thì đốt trong lửa chẳng hề tắt (Mathiơ) 22

23 Đạo là lý, mà lý thì vô cùng, kiếp nhân sinh thì hữu hạn, lấy cái hữu hạn mà luận cái vô cùng làm sao dám sánh. Tuy nhiên, đã làm một khách lữ hành dừng chân trên quán trọ thì dầu uống một ngụm nước cũng biết phân biệt vị mặn của nước biển, vị ngọt của sông, hồ, ao..nào có ai uống cạn sông hồ? Đã sống với Đời, chịu đau khổ cùng đời, nhưng chính cõi đời này là bài học tấn hoá hầu tô bồi cho điểm linh quang ngày thêm sáng chói để được hoà nhập trong khối Đại linh quang của Thượng Đế hầu tiếp hơi đưa tiếng đến muôn vạn con tim đang khát khao lý sống. Trong khi con tim trong lồng ngực vẫn còn mơ bóng Thiên đàng, còn hướng về Đức Chí-Tôn và Phật Mẫu! Vậy thử tìm hiểu xem lời Chúa nói: Đấng đến sau Ta có năng lực hơn Ta, Ta không đáng xách dép cho Ngài. Ngài sẽ làm Bấp -têm cho các Ngươi bằng Thánh linh và Lửa. Ngày hôm nay đây quả thật Đấng đến sau Chúa có phải là Đức Thượng-Đế toàn năng không? Chính Đấng Cao-Đài Tiên-Ông Đại -Bồ-Tát Ma-Ha-Tát giáo Đạo Nam phương. Ngài là Đức Chúa Cha trên trời nên mới có năng lực hơn, Ta không đáng xách dép cho Ngài là không ngoa vậy. Ngài sẽ làm Bấp-têm cho các Ngươi bằng Thánh linh và Lửa Có phải là ngày nay Đạo Cao -Đài dùng Huyền Diệu Cơ Bút để mở Đạo và tất cả mọi vấn đề đều do Huyền diệu Cơ bút không? Đó là Thánh linh vậy. Còn lửa là gì? Phải chăng Đạo Cao-Đài thờ Thánh Tượng Thiên-Nhãn làm biểu tượng cho nền Đại -Đạo? Theo lý Dịch thì gọi Ly vi Mục tức là Thiên Nhãn tượng quẻ Ly là lửa, đúng như lời Chúa tiên tri đó vậy. Thế mà tại sao cả nước Do Thái bị tiêu diệt? Đây 23

24 là nơi Chúa sinh ra đời phải được nhiều ân phước chứ? Một nơi vừa được ân lành: Thánh địa Jérusalem mà cũng vừa là nơi giết Chúa. Một Juda phản Chúa, cả dân tộc Do Thái họ thờ Chúa, nhưng khi Chúa đứng trước mặt họ xem ra còn kém hơn một tên cướp giết người, nhưng tên cướp thì được tha, Chúa phải chịu đóng đinh trên cây Thánh giá. Chúa vẫn cầu xin Cha tha tội cho số người chưa hiểu biết này, nhưng cả nước Do thái bị tiêu diệt. Vì sao? Luật Thiên điều phạt họ chứ Chúa có phạt họ đâu! Ta tự kiểm lại lời Minh Thệ của người khi mới Nhập môn vào Đạo Cao Đài mà: Thề rằng: Từ đây biết một Đạo Cao Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn Đệ, gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai thì thiên tru địa lục Thử xem ta có đổi dạ đổi lòng không? Có hiệp đồng chư Môn đệ mà nhất là có gìn luật lệ Cao Đài không? Bấy nhiêu đó là sự xét mình vậy. Nay nhằm lúc thế kỷ 20 này là thời kỳ Đức Chí Tôn rộng mở cửa Phật, cửa Trời độ toàn con cái của Ngài, chỉ khuyên chúng ta rán TU tỉnh ngộ, huỷ cả hành vi của thế sự, đem thân vào cửa Phạm chịu nâu sồng khổ hạnh cho đặng thì tự nhiên đắc Đạo tại thế đó vậy. Đức Phật-Mẫu cũng từng: Ngồi trông con đặng phi thường, Mẹ đem con đến tận đường Hằng sanh (Kinh Phật-Mẫu) 7- Hỏi sứ mạng Cao-Đài-giáo nay phải làm gì? Thầy dặn rằng: Thầy đến chẳng phải lập một nền Đạo mới mà đến đặng nhắc các con rằng: Ngày tận tuyệt đã hầu gần, Quỉ Vương sắp đến, Thánh ngôn các Đạo đã khai từ thuở tạo thiên không đủ kềm thúc nhơn sanh đặng trọn lành. Đời càng ngày càng trở nên hung bạo, nhơn loại giết lẫn nhau, cả hoàn cầu giặc giã, bịnh chướng biến 24

25 sanh, thiên tai rắp đến. Ấy là các điều Thầy đã nói tiên tri rằng: Ngày tận thế đã đến! Thầy đã tạo thành đủ cả Pháp luật. Thầy đến chỉ độ kẻ vô Đạo chớ không phải sửa Đạo. Các con hiểu à! (23-11 Bính Dần 1926) Ngài Tiếp Pháp xác nhận: Đến năm Ất Sửu (1925) Đức Chí-Tôn dùng Huyền diệu Cơ Bút khai mở mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Phép Tiên gia huyền nhiệm ấy đánh mạnh vào tiềm thức của chúng tôi, làm cho lòng tín ngưỡng bừng tỉnh, thì chúng tôi mới nhận ra rằng con đường giải thoát kiếp trầm luân khổ hải để dành cho chúng sanh mà Tam giáo đã vạch sẵn từ ngàn xưa vẫn còn chói sáng vằng vặc trong ký ức mọi người. Thế mà, từ trước chúng tôi không nghĩ đến. Lần khai Đạo nầy Chí Tôn không lập giáo lý riêng mà chỉ Qui nguyên Tam giáo Phục nhứt Ngũ Chi thành một học thuyết Đại Đồng. Đó là mối đầu tiên làm cho chúng tôi hồi tưởng đời sống của người xưa để làm gương soi sáng cho người nay. Là một Đồng tử trong số 12 vị đồng tử, chúng tôi nhờ kinh nghiệm Cơ bút, tìm hiểu chơn lý. Đức tin nhờ đó mà thành lập kiên cố, sức mạnh tinh thần ấy soi sáng và đôn đốc chúng tôi học hành Đạo lý. Sự nghiên cứu Giáo lý thời xưa và phối hợp với Thánh ngôn của các Đấng Thiêng liêng lập thành một học lý đối với chúng tôi, lúc ban đầu không phải dễ dàng như lấy đồ trong túi. Nhưng, may thay Đức Chí -Tôn hằng cận kề dạy bảo. Đức Ngài dạy phải bớt điều không thích hợp, phải thêm những điều cần thiết, cắt nghĩa những câu văn khó hiểu, chung qui những bài học góp nhặt thành tập Giáo lý, chúng tôi đã cống hiến cho các bạn đồng môn hồi năm 1950 và được tái bản hai lần nữa. 25

26 Ấy là những công trình học hỏi của các bậc tiền bối chúng ta như vậy, thì hôm nay sự học hỏi của người sau đã được vẹt lối chông gai cũng khá nhiều rồi. Thân gửi đến đồng Đạo những yếu lý về SỐ 3 HUYỀN DIỆU. 26

27 CHƯƠNG II NGUYÊN TẮC CĂN BẢN A- Số 3 Huyền diệu Số 3 là một con số Huyền-diệu, nhiệm mầu. Huyền diệu nhứt là con số đó. Những chứng minh về Thể pháp trong nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ sẽ cho thấy rõ cái lý nhiệm-mầu ấy đều do số 3 tác động lên. Riêng tập sách nhỏ này sẽ dẫn chứng về tất cả những gì có liên quan đến CON SỐ 3 ấy mà thôi. 1- Nguyên lý: Số 3 là do 1 với 2 hỗn-hợp lại mà biến ra 3 (1+ 2) 3 tức là cơ-quan hữu tướng cùng vô tướng hiện có ở Càn-khôn vũ trụ này. Số 3 là số nửa tịnh, nửa động, nhưng phần động nhiều hơn. Số 3 chỉ cơ biến tướng và vi-chủ vật loại thuộc quyền Tăng. Số ấy có đặc tính năng động, biến đổi. Vạn hữu mang số 3 thì chất nóng nảy nhưng vì có phần tịnh nên cũng biết dung hòa. Ba là cơ sở của Tam thể: PHẬT- PHÁP- TĂNG nên nó vừa có năng lực huy động mà cũng v ừa có năng lực dung hòa. Vật nào có số 3 là vật ấy có bản thể cứng rắn, nhiều hoạt động, ít may-mắn, dễ thành nhưng mau bại. Tuy nhiên con số 3 có tính cách phổ-thông lại mầu nhiệm, huyền-diệu vô cùng. Số 3 là cơ HOÀ vậy. Người Cao-Đài nhận biết con số 3 đầu tiên qua danh từ AĂÂ là tá danh của Đức Chí-Tôn Đại-Từ-Phụ. Đức Hộ-Pháp nói: Chúng tôi thật không biết Ông AĂÂ là Đức Chí Tôn chút nào hết, bây giờ hiểu lại, Ngài xưng là Tam, mà Tam là Càn khôn vũ-trụ định thể, ba 27

28 chấm nói rõ là số 3, Con số thiêng-liêng tạo-đoan vạn-vật là vậy. Nay cơ tận độ Kỳ ba nên Đức Chí Tôn đến lần đầu tiên với tiền bối chúng ta xưng Thánh danh bằng ba chữ: AĂÂ ám chỉ ngôi thờ Đức Th ượng Đế tức là Tòa Bạch Ngọc Kinh tại thế: - A là Phật (Bát Quái Đài). - Ă là Pháp (Hiệp Thiên Đài) - Â là Tăng (Cửu Trùng Đài) Ngoài ra, ba chữ AĂÂ về đạo pháp là một triết lý uyên thâm huyền nhiệm. - A là chữ đầu của 24 chữ cái tức là ĐẠO, (Phật) - Ă là một dấu Âm như nửa vành trăng, là PHÁP (Pháp) - Â là một dấu Dương, chứng tỏ đây là một sản phẩm toàn hảo của Đấng Chủ Tể Càn Khôn, là THẾ (Tăng) Trong Kỳ ba Đức Chí Tôn đến lập Đạo để cứu Đời, nên A là Phật, Ă là Pháp, Â là Tăng, hay: Tinh Khí- Thần. Buổi Tam Kỳ cơ tuần huờn phản tiền vi hậu, Thầy là Phật chủ cả Pháp và Tăng, với chơn lý cơ tận độ, Thầy tức Phật là A, nhưng thờ ở sau để đưa cả chúng Tăng là Â trở vào Hư Vô Chi Khí, Ă là Pháp (trung gian). Sau đây là lời của Đức Chí Tôn xưng với Môn đệ. Phước Linh Tự, Bính Dần Dimanche 24 Octobre 1926 Thầy nói cho các con rõ: Vì cớ nào trước từ Nhứt Tổ chí Lục Tổ thì thờ Thầy ngồi trước, vì trước là lớn phải vậy. Khai Thiên Ðịa vốn Thầy, sanh Tiên, Phật cũng Thầy; Thầy đã nói một Chơn Thần mà biến Càn Khôn Thế Giái và cả nhơn loại: - Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy. - Các con là chư Phật, chư Phật là các con. - Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có 28

29 chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Thầy khai Bát Quái mà tác thành Càn Khôn Thế Giái, nên mới gọi là Pháp; Pháp có mới sanh ra Càn Khôn Vạn vật rồi mới có người, nên gọi là Tăng. Thầy là Phật chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các Đạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy. Thầy lập Phật giáo vừa khi khai Thiên lập Ðịa, nên Phật giáo là trước, kế Tiên giáo, rồi mới tới Nho giáo. Nay là hạ nguơn hầu mãn, phải phục lại như buổi đầu, nên phải phản tiền vi hậu. Tỉ như Tam Giáo qui nhứt thì: - Nho là trước, - Lão là giữa, - Thích là chót. Nên Thầy phải ngồi sau chư Phật, Tiên, Thánh, Thần, mà đưa chúng nó lại vô vi chi khí, chính là Niết Bàn đó vậy. Còn cổ lễ cúng thì: - Bông là Tinh, - Rượu là Khí, - Trà là Thần. 2- TAM THẾ CHÍ-TÔN Về lý Tam ngôi nhứt thể tức là sự vận-chuyển của Càn-khôn thế giới. Đứng đầu tiên hết là Đức Chí-Tôn tức là Phật nắm cả cơ-quan bí mật tạo thành Càn khôn vũ trụ. Đạo này luật thế này, Đạo kia luật thế khác, nhưng không khác hơn Phật-giáo. Giả thí như Thánh-giáo Gia-Tô cũng có ba ngôi (la Trinité): - Le Père (Đức Chúa Cha) - Le Fils (Đức Chúa con) - Le Saint Esprit (Đức Chúa Thánh Thần) 29

30 * Đức Chúa Cha là Phật. * Đức Chúa Con là Pháp. * Đức Chúa Thánh Thần là Tăng. Không Đạo-giáo nào thuyết-minh rõ-ràng cơ tạo đoan lấy thuyết hỗn độn sơ khai phân chia: - Khí chi khinh thanh thượng phù giả vi thiên. - Khí chi trọng trược hạ ngưng giả vi địa. Tức là hễ khí nhẹ thì bay lên làm trời, khí nặng rơi xuống làm đất. Ấy là giai-đoạn trời đất thành hình. Trong vũ-trụ này có hai quyền-năng vô đối: 1- Là ngôi Chí-Tôn. 2- Là ngôi Phật-Mẫu. Người ta không nói, nhưng luật thiên-nhiên dù ở trong vật tối thiểu hay tối đại vẫn có một Luật mà thôi. Biết đâu Chí-Tôn và Phật-Mẫu theo lời của Đức Nguyệt Tâm Chơn-Nhơn thì hai quyền-năng âý vô đối, sản sinh ra cả Càn khôn vạn loại và tạo ra ba ngôi đầu tiên ấy là: 1- Đấng Brahma Phật. 2- Đấng Shiva Phật 3- Đấng Krishna Phật Còn gọi là Tam Thế Phật. Các hình ảnh biểu-tượng này được đặt trên nóc Bát-Quái Đài Toà Thánh Tây Ninh. Người Đạo Cao Đài ngày nay được biết danh các Ngài qua bài kinh Di-Lạc được tụng đọc hằng ngày: Thượng Thiên Hỗn nguơn hữu: Brahma-Phật, Shiva Phật,Krishna Phật." Ba ảnh tượng này đứng xây lưng đâu cật vào nhau trên nóc Bát-Quái-Đài Đền-Thánh Tòa-Thánh (Tây Ninh) với một sứ-mạng trong Tam Kỳ Phổ Độ, cũng là tiêu biểu Tam hồn của Đức Chí Tôn, nên tượng trưng bằng ba màu: vàng, xanh, đỏ. Với sự thể hiện này chúng sanh thấy rõ ở bên trên Đền thờ Đức Chí Tôn, tại Tiêu-Diêu-Đài: 30

31 - Linh hồn màu vàng, thuộc về tinh thần. - Giác hồn màu xanh, thuộc về trí thức. - Sanh hồn màu đỏ, thuộc bản thân con người. 1-Đức Brahma Phật cỡi trên con Thiên nga tức là ngỗng trời, ngó tới; hướng mặt về chánh Tây cung ĐOÀI tức Cung Đạo chỗ trụ nguơn Thần, đó là vị Thần Sáng Tạo mở đường đưa sanh chúng về với Thượng Đế, tay hữu bắt ấn khai nguơn, một ngón chỉ thiên biểu tượng lý Thái Cực, hai ngón cụng đầu với hình Châu Kỳ thể hiện Vô Cực tương hòa có nghĩa là Vô cực nhi Thái Cực, tay tả nắm bửu châu đưa trước ngực tức thị ấn pháp trấn linh thể Càn Khôn, cũng là trấn điểm linh ở bản tâm của nhơn loại đó là vị hiện thân của Đức Chí Tôn. Đức Brahma, âý là ngôi thứ nhứt, tượng-trưng ngôi Thánh-Đức, thuộc về cơ sanh hóa, ấy là Đấng tự-hữu hằng hữu, hữu nguyên hữu thủy của vạn loại. 2-Đức Shiva-Phật mình trần quay về chánh Bắc, đứng trên Thất-đầu-xà tức là Thần hủy diệt, ngó qua phía hữu, ấy là ngôi thứ nhì tượng trưng phần Âm Dương, cơ sanh hoá cũng là cơ hủy diệt, ấy là ngôi Bảo tồn. Phật Shiva cũng như Hộ Pháp ngự trên Thất Đầu Xà để trừ bốn mầm độc trong bản thân nhơn loại, đó là Ai, Nộ, Ố, Dục. Nhìn vào thực tại Đấng đó cũng là hiện thân của Hộ Pháp, nhưng thổi ống tiêu để thức tỉnh quần linh, hướng miệng ống tiêu để đưa sinh khí vào cung Chấn 31

32 chánh Đông tức là cung Pháp, nơi tụ nguơn Thần. Nếu những tư tưởng quấy ở con người có dấy lên sẽ bị ngự trị phần Ai, Nộ, Ố, Dục của nhơn sanh, để giữ còn cái nguơn Linh của Thượng Đế. Ống tiêu có bảy lỗ tượng cho Thất tình, nếu con người khéo tu biến thành Thất bửu cũng thể hiện cho Thất khiếu sanh quang, nhưng đắc pháp rồi thần khí phục hồi mở được Cửu khiếu nhờ kết tụ Tam diệu sẽ chiếu ngần ánh Xá lợi. Nên Thích Lão định danh là Mâu Ni Bửu Châu hoặc Thử Mễ Huyền Châu hay Cửu Khúc Minh Châu Diêu-Trì-Cung là nơi ngự của Đức Phật -Mẫu, ngày nay Ngài đến tại mặt thế gian này đã tượng -trưng bên Ấn Độ: Phật-Giáo Ấn-Độ gọi Ngài là Shiva Phật, là cái hình ở trên Bát-Quái-Đài chúng ta để trên nóc, thấy có Tinh Nhũ nơi ngực của Ngài đó. Hồi buổi Chí-Tôn phân định, phân tánh của Ngài, lấy Khí tức nhiên là Ngài dùng cái Linh-Pháp của Ngài biến tướng ra Phật-Mẫu. Phật-Mẫu thuộc về Âm, Chí-Tôn thuộc về Dương, Âm-Dương hiệp lại mới biến hóa Càn Khôn Vũ-Trụ, sanh ra vạn-vật. Đức Shiva Phật, Ấn-Độ làm một cái hình phân nửa giống đàn bà, còn cái tướng thì đàn ông. Bởi hồi đó con người chưa phân rõ chắc-chắn Nam-Nữ (Âm-Dương). Đức Shiva trong huyết-khí tức nhiên là huyết, còn Chơn -thần đào tạo chơn-thần là Đức Chí-Tôn. - Đức Chí-Tôn là Phật. - Đức Phật-Mẫu là Pháp. - Pháp mới sanh ra vạn-vật Càn-Khôn Vũ-Trụ, vạn vật ấy là do nơi Tinh mà ra, tức là Tăng. Thần tức nhiên là Đức Chí-Tôn, Thần phân định 32

33 Khí, Khí mới sanh ra Tinh. Phật là Chí Tôn, Pháp là Shiva tức Phật-Mẫu,Tăng là vật-loại trên Càn-Khôn Vũ-Trụ này. Ấy vậy, Đạo-Phật thờ Phật-Mẫu chớ không phải không biết, dầu không thờ mà Đức Phật-Mẫu vẫn ngồi từ tạo thiên lập-địa đến giờ, tức nhiên là Đấng tạo ra Vạn Linh. 3- Đức Krishna Phật da đỏ mình trần đứng quay người về chánh Nam: tay tả chống nạnh thể hình tam giác ở lý tam tài Thiên, Địa, Nhân, tay hữu chống gươm với phép định địa, chơn phải đặt trên đầu con Giao Long là cá hóa rồng, ngó về phía chánh Nam, âý là ngôi thứ ba, tượng trưng cuộc tuần hoàn, tiên tri cho nhân loại biết việc trí xảo thuộc cơ tranh đấu, cũng là cu ối Hạ nguơn Tam chuyển khởi đầu Thượng-nguơn Tứ chuyển. Tóm lại, các nhà khảo cứu và Thần-linh-học (nhứt là Thông thiên học) cho biết rằng: Các vị: Brahma-Phật, Shiva-Phật, Krishna-Phật, là ba ngôi của Đức Thượng-Đế được gọi là Tam vị Nhứt Thể với bảng tóm lược như dưới đây: *Veda gọi Ngài là: - Brahma (Thần sáng tạo) - Shiva (Thần hủy diệt) - Krishna (Thần bảo tồn) *Cơ Đốc giáo gọi Ngài là: - Đức Chúa Cha (Dieu le Père) - Đức Chúa Con (Dieu le Fils) - Đức Chúa Thánh-Thần (Dieu le Saint Esprit) *Phật-giáo gọi Ngài là : - A-Di-Đà-Phật (Amitabha) - Quan-Thế-Âm (Avaloki.Teshvara) - Đại Thế Chí (Manjushiva) *Nho-giáo gọi Ngàì là: - Ngôi Thái cực 33

34 - Ngôi Lưỡng-Nghi, - Ngôi Tứ-Tượng. *Thông-Thiên-Học gọi Ngài là: - Đệ nhứt Thượng-Đế (Premier Logos) - Đệ nhị Thượng-Đế (Deuxième Logos) - Đệ Tam Thượng-Đế (Troisième Logos) Kết luận về Tam thế Chí-Tôn: - Ðấng Chơn linh Tam Thế Chí-Tôn, nhơn loại đều biết tánh danh đó: Nhứt Thế BRAHMA-Phật, tức nhiên là Tạo Hóa. - Nhị Thế SHIVA-Phật tức nhiên Tấn-Hóa. -Tam Thế CHRISTNA Phật tức nhiên Bảo -Tồn, Ðấng trọn quyền bảo tồn ấy là lòng ái tuất thương sanh. Nay, Đức Cao-Đài Thượng-Đế đến với dân-tộc Việt Nam mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Ngài nói rõ ba ngôi vị ấy chính là Một, là hiện thân của Ngài, là Đại-Từ-Phụ: Đức Chí-Tôn là Đấng tự hữu, hằng hữu, mà từ thử tới giờ bất kỳ một Đấng Thiêng-liêng nào cũng không hiểu rõ nguyên căn c ủa Đức Chí-Tôn, chỉ biết cái quyền năng vô đối của Người mà thôi. Các nhà triết học luận bàn đã nhiều, nhưng xét ra cũng không ai hiểu rõ nguyên căn ấy. Phật-giáo nói cái khối linh ấy phân tánh của mình ban bố ra cả vạn vật. Khối linh ấy trước khi phân tánh thì gọi Brahma là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Đấng thứ nhì là Shiva chủ về Pháp. Đức Chí-linh cầm quyền năng biến chuyển, chớ không cầm quyền năng tạo đoan. Đức Chí-Tôn đến với ba danh hiệu khác nhau: "Hạng dã nhơn ngư ời Pháp dịch là L Emuriens (Hắc chủng) tức là nước Ấn độ bây giờ, chúng ta đã ngó thấy nó có điều hay ho hơn hết là vị Manou. Hắc chủng ban sơ đến tạo dựng sắc dân ấy là Đức Brahma, Ngài 34

35 chẳng phải đến đặng tạo dựng Hắc chủng mà thôi, mà chính mình Ngài đ ến, Đức Chí-Tôn đã tái ki ếp làm Brahma đặng giáo đạo cho loài người. Từ thuở ấy các sắc dân Hắc chủng tiến triển lên nữa, chúng ta thấy có giống dân màu da xam xám cũng như thứ dân Cachemire đó vậy (Ấn độ) sắc dân đó da của họ có hơi trắng trắng rồi đấy, tiến triển lên nữa. Lần này thì Đức Shiva (Civa) đến, càng ngày họ càng tiến triển dần lên, họ làm như giống dân gọi là Thanh nhơn đó, nước da của họ xanh. Hễ nước da xanh đến thì Đức Kristna Vishnou đến. Chúng ta ngó thấy sắc dân ấy, họ hạnh phúc biết bao, bởi chính nhờ cái tiến triển của họ ba bực, thì Đ ức Chí Tôn đến với ba danh hiệu khác nhau, vì thế giờ phút này chúng ta ngó thấy sắc dân Ấn độ vẫn còn giữ đạo đức về Phật giáo của họ một cách bền vững chắc chắn và Bần Đạo đứng tại Toà giảng này mà nói rằng: Nếu có sắc dân nào có phương pháp bảo thủ loài người thật vững chắc, Bần Đạo dám quả quyết rằng: duy chỉ có dân Ấn độ mà thôi". Pháp vận hành mà sinh ra KHÍ. Vậy Khí là gì? Khí là khối sanh quang, vạn vật nhờ thở sanh khí ấy mà sống, cho nên chữ Khí là sự sống của vạn vật, do Khí là Pháp biến tướng ra vạn vật. Thế nên Đấng thứ nhì Chưởng quản cái Sanh Khí thường gọi là 2è Logos thuộc Âm, ấy là Phật-Mẫu, Chưởng quản cả cơ quan tạo đoan này. Như chúng ta thấy cơ sanh hoá vạn vật và loài người là Âm Dương phối hợp mà biến tướng. Phật chiết tánh ra Pháp là ngôi thứ nhì thuộc Âm ấy là Phật-Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái Bí mật ấy là khi Âm Dương phối hiệp biến hình mà Phật-Mẫu dùng gì đ ể tạo nên cơ 35

36 quan hữu vi này; Bởi vì Phật-Mẫu dùng khối sanh quang có năng lực vận hành trong không khí, chúng ta không thể thấy được. KHÍ biến ra hữu tướng là Nước, lửa, gió vận hành biến ra vạn vật, đi từ: Hỗn nguơn Khí, Hư vô-khí đến Huyền ảnh khí, rồi mới biến ra vạn vật tức là Huyền ảnh khí biến ra Nhơn hình vậy (29-3 Đinh Hợi 1947) Tóm lại: Tam thế Chí-Tôn hay Chí Tôn Tam thế là Tạo hoá càn khôn sanh ra do một chủ quyền của trời: - Ngài tạo gọi là Brahma - Ngài diệt gọi là Shiva. - Ngài bảo tồn gọi là Vichnou, ấy mới gọi là Tam thế Chí-Tôn Đức Chí-Tôn xác nhận: Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong càn khôn thế giới thì khí Hư vô sanh ra có một Thầy và Ngôi của Thầy là Thái-cực. Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-Nghi, Lưỡng-nghi phân ra Tứ-tượng, Tứ-tượng biến ra Bát-quái, Bát-quái biến hóa vô cùng mới lập ra càn khôn thế giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là: Vật-chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm gọị là chúng sanh. Vậy Đức Thái-Cực Thánh-Hoàng là một nguồn sống tràn ngập cả Vũ trụ. Muôn loài vạn vật đều bẩm thọ một phần sống của cái nguồn vô biên bao la đó. Đạo học truyền thống của Nhơn sanh xưng tụng Đức Ngài với nhiều danh hiệu: Brahma, Đức Chúa Trời, Thái Thượng Đạo Tổ, A Di-Đà-Phật và còn nhiều nữa không thể kể hết. Mặc dầu chúng sanh không trông thấy hình dung Đức Ngài, nhưng chúng ta tin tưởng quả quyết rằng Ngài là Đức Ngọc Hoàng Thượng-Đế tức nhiên là Đấng Cao-Đài 36

37 3- TAM NGÔI NHỨT THỂ Tam ngôi tức là ba ngôi: Phật- Tiên- Thánh hay là Thái cực, Lưỡng nghi, Tứ tượng (Nho giáo) hoặc nguơn: Thánh đức, Tấn hóa, Bảo tồn, đó cũng là lý Tam ngôi: Đức Chúa Thánh Cha, Đức Chúa con và Chúa Thánh Thần bên Công giáo. Đó là Tam ngôi nhứt thể mà các Triết lý của Tôn giáo nào cũng có thể hiện ba ngôi ấy cả. Còn Nhứt thể là cùng chung một bản thể, gồm về duy nhất, là Một. - Trong thân người ấy là TINH- KHÍ - THẦN. - Ở vạn vật ấy là Vật chất, Khí thể và Năng lực. Mỗi một vật thể đều có ba ngôi ấy cả. Thầy đã dạy rằng cơ Tạo đoan Càn khôn vũ tr ụ ra sao thì trong vạn vật cũng tương liên như vậy. Cùng một khuôn khổ, một luật định như nhau hết. *Trên hết cả là PHẬT, ấy là ngôi đầu tiên cao thượng hơn hết nắm pháp huyền-vi. *Phật mới chiết tánh ra PHÁP ấy là ngôi thứ nhì, Pháp mới sanh Tăng *TĂNG ấy là ngôi thứ ba. Ba cơ quan ấy chừng qui nhứt lại thì duy có một nguyên căn, một bổn thể cho nên gọi Tam ngôi nhứt thể vậy. Trong vũ trụ Chúa cả tạo đoan ấy là Thầy, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng-Đế, nắm cơ huyền vi bí mật trong tay. Thầy mới phân tánh Thầy ấy là PHÁP. Pháp tức là quyền-năng của Thầy thể hiện ra, cũng như lý Thái-cực ở trong cõi tịnh. Lý Thái-cực phát động mới sanh ra PHÁP. Pháp tức là những định luật chi phối cả Càn khôn, mà người nắm luật chi phối ấy là Phật-Mẫu. Phật-Mẫu là ai? - Phật-Mẫu là Mẹ, là gốc sinh ra vạn vật. Phật-Mẫu nắm cơ hữu tướng. Phật-Mẫu là Âm 37

38 còn Thầy là Dương. Âm Dương tương hiệp mới biến Càn khôn. Cả càn khôn ấy là TĂNG, mà người nắm quyền vi chủ của Tăng ấy là một vị Phật cầm quyền Thế giới. Phật và Pháp không biến đổi, còn vị cầm quyền thế giới là Tăng ấy thay đổi tùy theo thời kỳ. Tỷ như người cầm quyền vi chủ ở: - Nhứt kỳ Phổ-Độ là Nhiên Đăng Cổ Phật. - Nhị kỳ Phổ Độ là Thích-Ca Mâu-Ni. - Tam kỳ Phổ-Độ ấy là Di-lạc Vương-Phật. Hết Tam-kỳ Phổ-Độ thì nguyên căn qui nh ứt trở lại mở Nhứt Kỳ Phổ-Độ nữa sẽ có vị Phật nữa ra đời cầm quyền vi chủ, định luật Càn-khôn phải như vậy. Đó là cơ quan quản trị Càn khôn vũ trụ. Còn ở vạn vật là cơ quan: vô hình, bán hữu hình và hữu hình; hay là linh tâm, khí thể và xác thân. *Ở nơi người gọi là: TINH, KHÍ, THẦN Tức là: - Cơ quan hữu tướng hay Tinh tương liên với Tăng. - Cơ quan bán hữu hình hay Khí thể tương liên với Pháp. -Cơ quan vô hình (Linh tâm) hay Thần tương liên Phật. *Ở trong vật chất: - Hình thù vật chất ấy thuộc Tăng. - Cái năng lực hóa hợp và tan biến, đổi chất thay màu ấy thuộc Pháp - Thần vốn là năng lực thúc đẩy cho tiến hóa, tức là cái sống của vạn-vật do nơi Phật, đó là linh tâm còn tàng ẩn ở Vạn linh, nên Thầy nói cái sống tức là Thầy. Trong vạn vật mà chúng ta tưởng là vô tri mà kỳ thật có tánh linh nơi đó. Từ vật tế vi của tế vi nguyên-tử đến cả Càn-khôn vũ trụ đều có sự mật thiết liên quan với nhau, không một vật gì ngoài luật định cả. Do lý Tam ngôi mới định phân Tam giáo, Tam nguơn, TAM BỬU vậy. 38

39 4 -TAM NGÔI Theo nguyên căn sản xuất của vạn-vật có ba món báu ấy là: Lửa, nước, gió; mà ánh Thái cực là Lửa (Hỏa). Tam giáo ấy là Phật, Tiên,Thánh. Phật là Tôn giáo nguyên thủy, khi khai trời đất đã có. Cơ-quan sản xuất gồm có ba ngôi: Phật. Pháp. Tăng: - Phật cầm quyền-năng của Chơn-linh. - Pháp cầm quyền năng của khí thể tức là cơ sản xuất hữu hình, cầm quyền sự sống của vạn loại, vì khí thể là chất sanh vạn vật. - Tăng cầm quyền năng nuôi sống thể hài Do đó, mà quyền năng mỗi ngôi cũng phân biệt: *Ngôi thứ nhứt lo về sự tấn triển của Chơn-linh, dạy dỗ các Chơn linh cho cao thượng để hiệp về cơ qui nhứt. *Ngôi thứ nhì lo về sự giáo-hóa các Chơn Thần, lo về cơ sản xuất và nuôi nấng vạn linh. *Ngôi thứ ba lo về cơ cai trị vật loại cùng là đùm bọc sự sống để đem trở lại cơ qui nhứt, làm thế nào cho điểm linh-quang không bị mờ ám trong cái xác hình. - Ngôi thứ nhứt ấy là giáo-hóa. - Ngôi thứ hai ấy là dưỡng-dục. - Ngôi thứ ba ấy là cai-trị. Mỗi một sanh vật ở càn-khôn vũ-trụ này đều chịu trong định-luật ấy, không một vật chi qua khỏi hết. - Luật tăng tiến thuộc Phật. - Luật sanh sống thuộc Pháp. - Luật quản-trị thuộc Tăng. Một vũ-trụ hay một chơn-linh dù cao-trọng, dù hèn thấp cũng có nơi mình ba đ ịnh-luật ấy để dung-hòa lẫn nhau mới tạo ra cái sống của vũ-trụ càn-khôn. 39

40 *Tỷ như một hột cát: - Có sức kết hợp, nó biết tìm lẽ hợp nhứt ấy là thuộc quyền-năng của Phật. - Nó có tan có hiệp và biến chất ấy là thuộc quyền năng của Pháp. - Nó có xác hài của nó để phân biệt vật nọ với vật kia để luân chuyển nơi này, nơi khác; quyền-năng ấy thuộc Tăng. Về nguyên-lý hữu hình và vô-vi thì Phật thuộc vô hình, Pháp thuộc bán hữu hình, Tăng thuộc hữu hình. Phật và Tăng liên-kết nhau nhờ Pháp làm trung gian. Tăng nếu không nhờ Pháp thì khó đo ạt Đạo mà trở về vị cũ. Phật không nhờ Pháp thì khó truyền đạt những lời huấn-giáo xuống được cho Tăng. *Trong vạn-vật vốn có ba phần: năng-lực, khí thể và vật hình. Năng-lực thuộc Phật, khí thể thuộc Pháp, vật hình thuộc Tăng. *Như trong một cây bông có năng-lực hướng về ánh thái-dương, năng-lực ấy tương-liên với ngôi thứ nhất tức Phật, nó có khí chất thơm-tho ấy thuộc Pháp, nó có hình thể đẹp-đẽ ấy thuộc Tăng. *Trong một dòng nư ớc, nó có năng-lực mạnh-mẽ, uyển-chuyển luân-lưu ấy thuộc Phật, nó có tính bay hơi, ngưng tụ ấy thuộc Pháp, nó có hình dáng ấy thuộc Tăng. *Trong thân một con thú: một con nai hay con bò chẳng hạn, nó có sức hiểu biết khôn-ngoan ấy thuộc Phật, nó có tính cảm-xúc hợp đoàn ấy thuộc Pháp, nó biết lẽ sống tự-nhiên tìm cái ăn uống ấy thuộc Tăng. *Trong thân người cũng vậy. Kẻ biết tìm hiểu, tôn sùng ấy thuộc Phật, biết tìm-tòi để biết lẽ khôn ngoan, có tình-cảm thương ghét ấy thuộc Pháp, có khuynh hướng thỏa-thích giác-quan ấy thuộc Tăng. Vạn-vật cả thảy đều có cái sống riêng của nó nên 40

41 Thầy mới nói Trước mắt Thầy không có vật chi khinh cũng không có vật chi trọng và thật sự không vật chi gọi là vô tri vô giác. Chẳng qua điểm Chơn-linh ở trong vật thể này còn tiềm-ẩn, còn ở trong vật thể kia đã đư ợc phát triển vậy thôi. Cái lý Tam ngôi nhất thể ấy chi phối, điều-khiển cả vạn-linh. Bởi vậy Đạo lập ra cốt yếu cho cả chúng-sanh TU tức là làm sao cho đừng đi sai lạc chơn-lý điều-hành vạn vật. Chơn-linh nào đi sai lạc chơn-lý ấy thì phải bị ĐỌA là vì vậy. Bởi vậy trong Thánh-ngôn Thầy trước kia có dạy: Thánh-ngôn trong miệng con nói ra tức là của Thầy, các con nói Đạo dù cho sắt đá, cây cỏ nghe cũng cảm-động huống là người. Lời nói ấy không phải là Thầy nói ngoa. Ấy là vì vạn-vật vốn có tánh linh ũng c đ ều hiểu biết hấp thụ lẽ Đạo, nên hễ nơi nào có Đạo thì nơi ấy vạn-vật được tận thiện tận mỹ và tăng tiến một cách nhanh chóng. Người đời thường nói sấu tu thành cù, cá tu hóa rồng, lời ấy thật chưa phải là lời bịa đặt hay nói ngoa đâu. Vạn-linh phải đi từ phẩm vật-chất lên đến người rồi mới đoạt vị thành Tiên, Phật. Cơ tấn-hóa buộc Vạn-linh phải đi xuống các tinh cầu học hỏi, mang vạn mảnh thi hài từ vật-chất, thảo-mộc, thú cầm cho đến loài người. Mỗi một kiếp sanh học một bài học mới-mẻ khác nhau. Sanh linh đi hàng vạn kiếp như vậy, luân luân chuyển chuyển. Khi đã đặng làm người là hệ-trọng. Tuy vậy mà đừng tưởng đã hơn v ạn-vật đâu. Không phải vậy đâu! Ở tại thế gian này chưa biết một phẩm chúng sanh nào trọng hơn phẩm nào. Có khi trong thân hình con vật là một vị Bồ-Tát đang tái kiếp đặng tạo Linh-đài đó không chừng. Bởi vậy kẻ biết Đạo không dám sát sanh và không dám khinh rẻ một vật nào cả.. 41

42 Lý Tam ngôi nhất thể là lý đi ều-hành vạn-linh. Do nơi ấy mới biến ra Tam-giáo, Tam tài, Tam nguơn, Tam bửu, Tam kỳ Tam-giáo ấy là Phật, Tiên, Thánh. Tam tài ấy là Thiên, Địa, Nhân. Tam nguơn ấy là Thượng-nguơn, Trung-nguơn, Hạ nguơn hay là nguơn Thánh-đức, Tấn-hóa, Bảo-tồn. Tam-kỳ ấy là: Nhứt kỳ, Nhị-kỳ, Tam-kỳ. Tam-bửu ấy là:.nhựt. Nguyệt. Tinh (ở trời).thủy. Hỏa. Phong (ở đất).tinh. Khí. Thần (ở người)..năng-lực, khí thể, vật hình (ở vật-chất) - Phật thuộc về phần giáo-hóa. - Tiên thuộc về phần nuôi-nấng, an-ủi. - Thánh thuộc về phần cai trị. Mỗi một phần trong các số Tam ấy tương liên nhau: Phật tương liên với Thiên, với Thượng-nguơn, với Nhứt-kỳ, với Phật, với Thần, với năng-lực. Pháp và Tăng cũng tương-tự như vậy. Ở trong mỗi sanh vật ba phần ấy liên-hệ mật-thiết lẫn nhau. Đến như lập Đạo, Thầy cũng chia ra: - Bát-quái-đài. - Hiệp-thiên-đài. - Cửu-trùng-đài cũng là lý Phật, Pháp, Tăng đó. Tóm lại trong vạn-vật đâu đâu cũng th ể hiện cái lý TAM NGÔI NHẤT THỂ ấy cả. 42

43 5-Tính chất của ba ngôi Trong cửa Đạo Cao-Đài, hình ảnh tam-giác đều được biểu-tượng bằng ba ngôi: Phật- Pháp- Tăng. - Phật tức là Đấng cầm quyền Chúa-tể càn-khôn vũ trụ là Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế. - Pháp là ngôi của Đức Phật -Mẫu Diêu-Trì cầm quyền-năng tạo khí thể của toàn vạn -linh sanh chúng là Mẹ của chúng-sanh. - Tăng là ngôi của Đấng đại-diện trong mỗi nguơn hội. Nay là Đức Di-lạc-Vương Chưởng-quản. Đã qua ba thời kỳ Đức Thượng -Đế khai mở Long Hoa Hội, qua các danh niệm, lần lượt như: 1/- Nam-mô Sơ Hội Long -Hoa Thanh Vương Đại Hội, Nhiên Đăng Cổ-phật Chưởng-Giáo Thiên-Tôn. 2/- Nam-mô Nhì hội Long -Hoa Hồng Vương Đại Hội, Di Đà Cổ-phật Chưởng giáo Thiên Tôn. 3/- Nam-Mô Tam Hội Long-Hoa Bạch-Vương Đại hội Di Lạc Cổ-Phật chưởng-giáo Thiên-tôn. Tam-Kỳ Đại Đạo này còn gọi là Cơ Đại Ân xá Ngôi Phật, Pháp không đổi. Ngôi Tăng thay đổi tùy mỗi thời-kỳ là như thế đó vậy. Phật là gì? Đức Hộ-pháp nói: "Phật là một Đấng toàn-tri toàn năng, người ta lầm lạc, tưởng không thấy hình dạng là không có. Người thế gian lầm-lạc nhiều lắm. Họ quả nhiên là người sống hiện tại chỉ khác hơn chúng ta là không có thi-hài mà thôi. Đấng toàn tri toàn-năng ấy là Đấng đầu tiên hiệp lại với Đức Chí-Tôn. Bần-đạo đã giải nơi Phật có ba cảnh đặc-biệt: 1-Hạo-Nhiên Pháp thiên tương-liên hiệp một cùng Đức Chí-Tôn. 2- Hư-vô Cao-thiên thuộc về Pháp-giới cầm cả luật 43

44 Thiên-điều. 3- Hỗn-nguơn Thượng Thiên thuộc Tạo-hóa, thuộc Tăng. Phật-vị có ba đẳng-cấp ấy đặng nắm cả quyềnnăng càn-khôn thế giới Chính cái thể pháp của Đạo Cao-Đài đã đủ cả Tam ngôi ấy. 6-Tam nguơn hồn Trong vũ trụ thì: - Trời có Tam bửu (ba báu là Nhựt- Nguyệt- Tinh) - Đất có Tam Bửu (ba báu là Thuỷ-. Hoả- Phong) - Người có Tam Bửu (ba báu là Tinh Khí- Thần) Tinh- Khí- Thần là gì? Do đâu mà có? Khi mở mang trời đất, người mà tạo -hoá sanh ra trước hết gọi là: Nguyên nhân (Êtres Créés). Nguyên nhân này do khối linh quang của tạo hoá nảy ra. Trong khối linh quang của tạo hoá có ba nguơn gọi là Tam hồn: - Linh hồn (Âme Intelligente) - Sanh hồn (Âme Aérienne ou vitale) - Giác hồn (Âme spermatique ou sensitive) Tuy là ba nguơn hồn chớ cũng pha lẫn nhau làm một, cho nên một mà ba, ba mà một. Nguyên nhân bởi thọ nhứt điểm trong khối linh quang của tạo hoá thì vẫn đủ ba hồn ấy: - Linh hồn tức là bổn nguyên của nguơn Thần. - Sanh hồn tức là bổn nguyên của nguơn Khí - Giác hồn tức là bổn nguyên của nguơn Tinh 44

45 - Nhờ Linh hồn mới có tính khôn ngoan, biết nghĩ suy xem xét đủ điều. - Nhờ Giác hồn mới biết đau đớn, nóng, lạnh... - Nhờ Sanh hồn mới có sự sống. Khi nguyên nhân chưa mang lấy xác phàm thì giác hồn chưa biết đau đớn, nóng lạnh, mệt khoẻ, là vì chưa có phần vật chất.(1) Lần lần Nguyên nhân lại dùng vật thực, huyết nhục mà dù xác có thanh khi ết cũng phải hoá ra trọ ng trược; thêm nỗi dâm tình vọng động mà biết sự trần lỗ. Vật ăn uống đều có chất sanh, những chất sanh ấy ăn vào cấu kết lại thành khối mà thành ra xác phàm (Formations des cellules). Khi có xác phàm rồi mới biết nóng lạnh, có trần lỗ mới biết hổ ngươi, vì vậy mới chầm lá cây để che thân thể, sau lần lần dùng đến da thú vật mà che thân-thể. Nguyên bổn của TINH- KHÍ- THẦN là như vậy đó. 1- THẦN cai quản về phần Trí, trí lại từ óc não mà ra, nên thường gọi tiếng chung là trí não. THẦN là vật thiêng liêng thông thường ở tại mắt, tuy vậy mà nội châu thân chỗ nào nó đến cũng được cả. 2- KHÍ là hơi thở, trong hơi thở đều có chất sanh để bảo tồn sự sống. Con người mới sanh ra khóc ré lên, châu thân vận chuyển, rồi tiếp lấy thanh khí vào mình. Ở ngoài, thanh khí thuộc về Tiên thiên trong sạch, khi thở vào phổi rồi, bị nhiễm lấy vật chất xác phàm, mà hoá ra Hậu-thiên ô-trược. 3- TINH thuộc về lưu chất (mình nước), sệt sệt mà trong. Nhờ Tinh mà con người mới có sức lực, nối giòng giống và tạo Nhị xác thân. Trong phần TINH cũng có chất sanh, chia ra làm ba phần: - Một phần trong sạch hơn hết gọi là tinh-ba xông lên thành hơi (Tinh hoá Khí) hiệp với Khí - Thần mà tạo 45

46 Nhị xác thân (Périsprit). - Một phần xông lên theo ỗ l xương sống (Canal rachidien) đến tận óc để làm khí lực (Khí) cho bộ thần kinh vận chuyển. - Một phần nữa là phần cặn cáu để nảy sanh giòng giống (tức là cha mẹ phối hợp để tạo ra con cái). Ở đời ai ai cũng phải làm lụng mới có mà ăn, phải lo lường tính toán nhiều mới ra tiền bạc, phải phối hợp Âm dương mới sanh con nối hậu. Hễ lao lực nhiều thì hao KHÍ, lo lường tính toán nhiều, phải hao THẦN, dâm dục nhiều tổn T INH. Thêm nỗi thất tình lục dục làm cho thân phàm phải hao mòn tiều tuỵ. Thế nên người càng già càng suy nhược, vì ba báu ấy càng lúc càng hao mòn rốt lại phải chết. Tỷ như thắp đèn càng hao dầu, khi hết dầu đèn phải tắt. Ấy là cuộc dinh, hư, tiêu, trưởng của đời người đó vậy. Muốn sống lâu phải tránh mấy điều tổn mạng vừa kể trên đó. Còn muốn siêu phàm nhập Thánh, ta phải luyện TINH- KHÍ- THẦN mới được. (Trích Châu thân giải của Bảo-pháp) Có giữ được sự thanh tịnh như vậy mới luyện TINH hoá KHÍ đặng. Đó là cách làm cho thân thể trong sạch từ vật chất đến tinh thần. Phần vật chất là Ẩm thực tinh khiết tức là phải ăn thức ăn thực vật, tránh sát sanh thực nhục.thăng đọa do nơi mình tạo lấy. Dù người tu hay không tu theo Môn phái nào đi nữa việc tiết chế Tinh huyết là một vấn đề thiết yếu. Chú thích: (1) Khi nguyên nhân chưa mang ấy l xác phàm thì còn thuộc về Tiên Thiên, vật chất ăn v ào cấu kết thành xác phàm thuộc Hậu thiên, cho nên sách gọi Thiên sanh, Địa thành là vậy. 46

47 Vì phải có một Xác thân tinh khiết mới xuất chơn thần tinh khiết. Nếu Chơn thần tinh khiết mới hoà nhập được với Chơn linh. Đức Hộ-Pháp nói: - Ẩm thực tinh khiết - Tư tưởng tinh khiết. - Tin tưởng mạnh mẽ nơi Chí-Tôn và Phật-Mẫu. - Thương yêu vô tận. Ấy là chìa khoá để mở cửa Bát-quái-Đài tại thế. 7-Đạo Cao-Đài xác định về Tinh Khí Thần - Ngôi một là Đức Thượng -Đế, nay kỉnh Ngài là Đức Chí-Tôn, Đại-Từ-phụ. - Ngôi hai là Đấng Mẹ sanh của nhân -loại tức là Đức Phật-Mẫu Diêu-Trì. - Ngôi ba chính là hình ảnh Hội -Thánh, hay là Đấng cầm quyền trong kỳ ba Phổ-Độ này tức là Đức Di Lạc Vương-Phật. Ở con người: *Nếu nhìn gần hơn nữa thì nói rằng nhờ Đức Chí Tôn ban cho nhứt điểm linh quang mới có được năng-tri sáng-suốt mà tiến-hoá trong cõi đời này tức là Chơn-linh. *Nhờ Đức Mẹ Diêu-Trì ban cho Chơn-thần mới học-hỏi được để tăng tiến trên con đường tu học, mà con người phải lăn-lóc trong kiếp sanh ngắn-ngủi đây. *Nhất là nhờ cha mẹ phàm này đã tạo xác thân hữu hình mà chúng ta đến cõi trần này để làm trọn kiếp con người trong cái vòng luân-hồi sanh tử. 47

48 Đức Chí-Tôn là Phật, Đức Phật -Mẫu là Pháp, Pháp mới sanh ra vạn-vật trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, vạn vật ấy là do nơi Tinh mà ra, tức là Tăng. - Thần tức nhiên là Đức Chí-Tôn, - Thần phân định Khí, là Phật-Mẫu - Khí mới sanh ra Tinh, là Vạn linh sanh chúng. Phật là Chí Tôn, Pháp là Shiva tức là Phật-Mẫu, Tăng là vật-loại trên Càn-Khôn Vũ-Trụ này. Về mặt Tôn-giáo Là một cơ cấu hữu-vi thì cũng không ngoài luật ấy, nên trước tiên cần có đủ chủ hướng là Tinh-thần ấy là Tín-ngưỡng, chủ Tinh-thần ấy là linh hồn của Đạo-giáo, mà linh hồn của Đạo Cao-Đài là Đức Chí-Tôn chủ về cực Dương. Một Tôn-giáo muốn sống bền vững và phát triển tốt đẹp thì Tôn-giáo ấy có đủ Tam-bửu: TINH- KHÍ -THẦN. - Về Thần: thì khi lập Đạo Cao -Đài, Thần đã sẵn có do Đức Chí-Tôn làm chủ linh-hồn của Đạo-giáo. - Về Khí: thì buổi phôi -thai chưa mấy tựu thành, nên Đức Chí-Tôn mượn hình thể của Diêu-Trì-Cung làm chữ Khí. - Về Tinh: thì hình thể của Đạo Cao-Đài tức là ba Chi: Pháp- Đạo- Thế, tượng-trưng là: Hộ P háp, Thượng Phẩm, Thượng-Sanh ( chính là ba ông Cư, Tắc, Sang) Kết luận về Tam bửu: Tam-bửu tức là ba món báu, đáng quí trọng. Tam bửu là ba khí chất tạo nên hình -hài xác thịt: cái xác là con kỵ vật, thiên hạ lầm tưởng, hễ xác chết là mất, vậy thì thử hỏi trời đất vạn-vật một khi đã hoại thì tan nát không còn sanh hoá nữa hay sao? Bởi mang thân phàm xác thịt không thể thấy chớ nếu có huệ-nhãn thì thấy cái xác của người có ba thể: 48

49 -Thể thứ nhứt là xác hài thuộc vật-chất-khí biến sanh và sống bằng trái tim. -Thể thứ nhì là Chơn-thần do tinh-ba của vật-chất khí mà sản xuất từ phẩm Địa -Thần đến Thiên-Thần do Phật-Mẫu ban cho. -Thể thứ ba là nguơn khí do Chơn-linh mà có từ bậc Thánh đổ lên do Chí-Tôn phân tánh. 8- Sự sống của Tam thể xác thân Đức Hộ-Pháp kể lại lời Đức Lý Giáo-Tông nói: - Văn-minh khoa học chỉ nuôi phần xác thịt họ mà thôi, còn phần linh hồn dám chắc họ sẽ đói. Bần Ðạo vấn nạn: Tại sao Ngài nói linh hồn đói, linh hồn có ăn sao mà đói? - Phải, phải có vật thực đặng bảo dưỡng nó như thi hài vậy,nếu không vật thực nó sẽ tiều tụy rồi chết mà chớ! Luôn đó Ngài lấy triết-lý cao siêu mà dạy Bần Ðạo: -Trong một con người có ba xác thân gọi là tam hồn và bảy vía gọi là thất phách liên hệ mật thiết cùng nhau. Ðương nhiên trong thân-thể của mỗi người có ba xác thân ấy cần bảo dưỡng mới tồn tại được. Vì cớ Ðức Chí-Tôn cho biết, trí thức và linh hồn trọng yếu do căn nguyên của sự sanh hoạt của nó định cái ngã tướng cho ta. Ba xác thân ấy phải nuôi sống mới tồn tại như xác thịt thể hình ta vậy: - Đệ nhứt xác thân là Tinh, phải ẩm thực, Tinh mới sống. - Xác thịt giữa là xác thân trí thức tinh thần. Ta thấy con người phải tìm món ngon vật lạ đặng bảo thủ xác thân; còn coi hát, nhảy đầm, vui chơi, cờ bạc, hút sách tưởng là tìm món ăn cho trí thức đặng bảo dưỡng, mà không biết rằng đó là hại cho trí thức. 49

50 - Bây giờ tới linh hồn cũng phải có vật thực cho nó chớ. Vật thực là cả triết lý cao siêu tồn tại đấy. Ðệ nhị xác thân gọi là K hí, Chí-Tôn gọi là C hơn thần, nó làm trung-gian cho xác và hồn, hễ lương-năng thì nó bảo thủ xác thịt thể hình, còn lương-tri nó tìm vật thực nuôi linh hồn. Ta nuôi linh hồn bằng gì? Vật thực nuôi sống bằng xác thịt, còn linh hồn sống đặng là nhờ đạo đức tinh thần đó vậy. Ta tu tức là ta tìm phương bảo trọng cho tồn tại đạo đức tinh thần đặng nuôi linh hồn hầu đạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật; dìu-dẫn bảo trọng lấy nó để có đủ lực lượng quyền năng dong ruổi trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống. 9- Qui Tam-bửu: Tinh, Khí, Thần: Đức Hộ-pháp nói: Khi Đức Chí-Tôn đến, Ngài đến với một phương pháp đơn-giản tạo nền chơn-giáo của Ngài. Nhớ lại buổi Ngài mới đến, Ngài xin với mấy vị Tông-đồ ba món báu gọi là Tam-bửu: - Là xác thịt. - Là trí não. - Là linh-hồn hay phách của mọi người hiến dâng cho Ngài đặng Ngài làm cơ-quan cứu thế độ đời. Hồi buổi nọ chúng ta chưa hiểu nghĩa-lý là gì. Biết bao nhiêu kẻ, biết bao Tín-đồ đã để dấu hỏi. Đức Chí-Tôn xin ba món báu đặng làm điều gì kia chớ? - Thưa cùng toàn thể con cái Đức Chí-Tôn ba món báu ấy không có giá-trị chi hết. Ngài lấy trong một số ít Thánh-đức, Ngài tạo cho thành tướng một khối Thương yêu vô tận. Có một điều làm cho chúng ta ngạc nhiên hơn hết là từ thử đến giờ nhơn-sanh đã hiểu quyền năng vô đối 50

51 của Luật Thương-yêu nhưng họ chưa hiểu biết thống nhứt cả khối Thương-yêu ấy đặng làm phương châm cứu thế độ đời hay là làm phương-châm tạo hạnh-phúc cho kiếp sanh của họ. Trái ngược lại họ chỉ thống hiệp tinh thần thù-hận, oán ghét làm cho mặt địa-cầu này mấy phen đẫm máu, nhơn-loại tương tàn, tương sát với nhau là vì sự bội tín của họ: biết thù-hận hơn là thống hiệp thương-yêu 10- Đức Chí-Tôn mở khiếu cho chúng ta: Đức Hộ-Pháp nói: Kẻ tài nhân đáo để trên mặt thế này đến gần mức điên của nó, cái chỗ tài nhân của họ bước qua mức điên dễ dàng, tới chút xíu nữa thì điên ngay, chỗ mà khoa học đã nói bây giờ, Đạo giáo chúng ta gọi là Huệ khiếu, ấy là cái khiếu mà trước kia không thể tả, chính khoa học đã tầm chỗ đó là địa điểm trọng yếu của Linh hồn con người. Bên Thiền môn, tức nhiên bên Đạo Phật phải đốt nó gọi là Tam-muội-hỏa đặng cho nó ngừng bớt lại, đừng chạy quá mức của nó, mà chạy có mực thước. Đức Chí-Tôn mở khiếu cho chúng ta, mở khiếu đặng định chuẩn thằng đừng quá sức vận hành của nó. Đạo pháp có Đức Lão-Tử biểu chúng ta phải tịnh đặng nhập vào cái cảnh bất nhập, tức nhiên là Hư-vô, cốt yếu cho ba hột ấy chạy vào cho có mực thước, nó chạy dịu dàng đừng cho loạn, đừng cho quá sức của nó, loạn tức nhiên điên, như cái máy thâu thanh nếu chúng ta mở quá sức của nó thì nó hư, phải để cho hột đó chạy vừa chừng, đặng cho cái chơn linh của chúng ta có phương thế điều khiển cả hình xác chúng ta trong mực thước khuôn khổ luật định của nó không quá mức. - Chúng ta dư biết rằng xác thịt chúng ta sống do 51

52 nơi trái tim. -Chơn thần chúng ta sống do nơi Huệ quang khiếu. -Chơn linh chúng ta sống do nơi Càn Khôn Vũ Trụ. Vì cớ cho nên linh hồn chúng ta tương liên mãi mãi với Càn Khôn Vũ Trụ mà thôi, không thể thúc phược ở mãi trong xác thịt, nó ở ngoài thể, nó tương liên cả Càn Khôn Vũ Trụ điều khiển cả cái sống của ta. Ấy vậy, giờ phút này thiên hạ đã đợi mong, cả toàn thể nhơn loại đương khủng bách tinh thần, họ đợi mong một Đấng Chơn-Linh cao-trọng hơn đặng điều khiển cả tâm hồn nhơn loại, mà Đấng ấy không dùng theo phương pháp Đạo giáo, mà định chuẩn thằng cho Chơn linh đủ phương thế điều khiển cả vận hành cái sống hiện tại của nhơn loại trên mặt địa cầu này, sống về hình thể, tuy phải kiếm sống, sống như con vật thì họ chỉ biết ăn mà sống, mặc mà lành, hai cái đó sẽ xô đuổi họ đi đến một trường hợp tranh sống với nhau, đặng tự diệt với nhau. Ba hột tế nhuyễn như thể hột mè: Mà là nó ở ngay Nê hoàn cung, tức nhiên nó ở ngay mỏ ác đứa con nít, cho nên con nít đầu nó mới sơ sanh đã mềm, lớn lên mới cứng. Tại sao mềm? Tại ở trong khiếu ấy có ba hột tối thiểu nó tế nhuyễn đến nỗi con mắt chúng không thấy được, nhưng dùng kiến hiển vi mới trông thấy nó rõ ràng được, ba hột ấy nó không phải là vật chất, mà cũng không phải là khí chất, ba hột tế nhuyễn như thể hột mè nhỏ vậy thôi, xoay chuyển bên mặt qua trái, một hột dươn g hai hột âm, nó xoay chuyển cả với nhau mới sanh ra điển lực, mà điển lực ấy ngay chỗ đấy, là cái linh hồn của chúng ta tương liên với chơn thần, nó tương liên với xác thịt ta, nó là cái khiếu khôn ngoan của con người. Do tại chỗ khiếu ấy, chơn linh của c húng ta 52

53 điều khiển cả hình xác, trí khôn ngoan ấy nó phải đi một chiều và nó đi có mực thước, có độ lượng, hễ nó ngừng lại thì cái trí phải mờ ám (đương chạy vụt ngừng kẻ đó cái trí não mờ ám không sáng suốt, không thông minh) mà nó vận hành nhiều chừng nào cái trí hoạt bát của con người nhiều chừng nấy, mà hễ nó đi quá độ lực thì con người trở lại điên khùng ngây dại. 11-Tam thể xác thân trong con người: Trong con người ta đây mỗi mỗi đều có các yếu-tố cấu tạo nên một thân hình đều giống nhau, đạo-học gọi là TAM THỂ XÁC THÂN. 1/-Tại sao xác thịt chúng ta sống do nơi trái tim? - Vì: Xác thân thứ nhứt là hình hài xác thịt do cha mẹ phàm sanh ra và được nuôi dưỡng bằng vật chất phàm trần; xác thịt phàm chúng ta sống đây do trái tim cử động trong lồng ngực. 2/- Làm thế nào để biết: Chơn thần chúng ta sống do nơi Huệ quang khiếu.? Xác thân thứ nhì gọi là Nhị xác thân, là xác thân thiêng liêng hay Chơn ần, th do Ðức Phật Mẫu dùng nguyên khí nơi Diêu Trì Cung tạo nên; tức là trí khôn sáng của con người do Đức Phật-Mẫu ban cho, Chơn-thần sống do nơi huệ-quang khiếu, tức là phần trí của con người. 3/- Chơn linh chúng ta sống do nơi Càn Khôn Vũ Trụ như thế nào? Xác thân thứ ba là Chơn-linh hay Linh-hồn do Đức Chí-Tôn ban cho, là điểm Linh quang sáng chói. Chơn linh điều khiển Chơn thần, Chơn thần điều khiển xác phàm. Chúng ta sống do nơi Càn-Khôn vũ -trụ. Vì cớ cho nên linh-hồn chúng ta tương liên mãi mãi v ới càn khôn vũ trụ mà thôi, không thể thúc phược trong xác thịt được. Vì lẽ 53

54 đó mà con người sinh ra đời ai cũng có ý muốn tu hành để thoát ra cho khỏi cái khám tù của thể xác này. Tuy pháp-bửu của các Tôn-giáo đã đ ọat đặng vẫn nhiều, chớ cơ mầu-nhiệm chỉ có chữ Hoà là đủ. Thân thể cho mạnh-mẽ tinh-vi đừng để sa đà vào lục-dục thì là thuận cùng trí-lự khôn-ngoan. Khí-lực cho cường thạnh thanh-bai đừng để đến đỗi mê-muội bởi thất tình, thì trí-lự khôn-ngoan thuận theo linh-tâm mà nẩy-nở. Linh-tâm phải định-tĩnh từ-hoà, đừng để đến đỗi mờ ám bởi tội-tình, thì thuận với lòng Trời, hiển-linh tại thế đặng đạt phép huyền-vi. - Thân là TINH, - Lực là KHÍ, - Trí là THẦN. Nói rõ ra thì TINH là thân thể, KHÍ là điển lực, nghĩa là trí-lự; THẦN là linh-hồn, ba cái báu của mình ngày nào tương-đắc, nghĩa là Hoà -hiệp cùng nhau thì người mới mong đắc Đạo. Cơ Đạo của Chí-Tôn đến lập buổi hạ-nguơn Tam kỳ Phổ-Độ này duy lấy một Chữ Hoà làm tôn-chỉ. Đó là ba yếu-tố chánh của con người toàn diện: - Khởi tự con người, lấy con người làm trung-tâm, - Trong con người lấy sự sống làm tôn-chỉ. - Sự sống đặc-sắc của con người làm tâm-linh, nó phải là đích điểm thống nhất. Trong ba yếu -tố âý mà thiếu đi một là hết còn thống-nhất. Thánh ngôn dạy: Kẻ nào trai giới đặng mười ngày đổ lên được thọ truyền bửu pháp tức là khi thóat xác được cắt bảy dây oan nghiệt cho được nhẹ-nhàng để thăng về Thượng giới. 54

55 Như vậy Tam nhân hành chính là tam thể xác thân con người là TINH- KHÍ- THẦN đó vậy. TU là làm cho Tinh Khí - Thần hiệp nhứt, tức nhiên hiệp Tam-bửu gọi là Đắc Đạo. TU theo Đạo Cao-Đài là Phụng-sự: Cơ-quan Phụng-sự ấy Đức Chí-Tôn biểu chúng ta dâng cả Thi hài, Trí não, Tâm hồn đặng làm cơ quan phụng-sự cho nhân-lọai, bảo-tồn khuôn luật tạo đoan vững chắc, tức nhiên dắt chúng ta đi trên con đường Chánh-Đạo đó vậy. Trong Tam thể xác thân Đức Thượng-Phẩm có dạy các vị Hiệp-Thiên-Đài qua lời vấn đáp : Hỏi: Khi thoát xác mà chơn-linh nào phạm tội lại càng đau-đớn hơn nhiều vì lằn âm-điển của đất luôn luôn lôi kéo, có phải vì loi d actraction không? Đáp: Phải đó, vì cớ mà bị luân-hồi chuyển kiếp đó 12- Có ba bậc phẩm trong chúng sanh: Pháp-chánh-Truyền dạy: Vật chất hữu sanh, thảo mộc hữu sanh, cầm thú hữu sanh, nhơn loại hữu sanh, tức là chúng sanh. Trong chúng sanh đã có nguyên sanh, hóa sanh và quỉ sanh. Tỷ như: - Nguyên nhân là khi Khai Thiên ồi, r thì đã có chơn linh ấy. Nguyên sanh là gốc từ Khai Thiên đã có. - Còn hóa nhân là chơn linh vật loại, đoạt đến phẩm vị nhơn loại. Hóa sanh là Khai Thiên rồi mới biến hóa ra. - Còn quỉ nhân là hai chơn linh kia xu hướng ác hành mà bị đọa đày vào Quỉ vị. Quỉ sanh là hai phẩm kia phạm Thiên Ðiều bị sa đọa. 55

56 Trong các kiếp hữu sanh, duy có phẩm người là cao hơn hết, nên gọi là Thượng Sanh. Lập Tam Kỳ Phổ Ðộ này, Thầy đem các chơn linh dầu Nguyên sanh, Quỉ sanh hay là H óa sanh lên phẩm vị nhơn loại mới trọn câu Phổ độ. Chơn linh các nguyên nhân bị đọa trần, quỉ nhơn chuộc tội hay là hóa nhân thăng cấp đều nhờ Thượng Sanh độ rỗi (ấy là Thế độ). Nên Thượng Sanh làm chủ của Thế Ðạo, nắm luật thế nơi tay, mà dìu dắt cả chúng sanh vào cửa Ðạo. Như thế, nay đã qua hai thời kỳ mở Đạo cũng vì số nguyên nhân ấy mà Đức Chí-Tôn đã cho xuống thế 100 ức để độ dẫn nhơn-sanh, mà còn làm tội lỗi hơn chúng sanh nữa, nhưng trong hai lần ấy chỉ độ về được có 8 ức nguyên nhân (nhứt kỳ độ 6 ức + nhị kỳ độ 2 ức) còn lại 92 ức nguyên-nhân đang còn chơi vơi trên biển trần, lần này Chí-Tôn lo cứu vớt. Trong buổi Cao -Đài Đại -Đạo này các phẩm chơn hồn trong Càn-khôn Vũ-trụ của Đức Chí-Tôn đã lấy quyền cho Phật -Mẫu đào tạo Tám phẩm chơn hồn, tức là các chơn hồn: vật chất, thảo mộc, thú cầm, nhơn loại, Thần, Thánh, Tiên, Phật. Trong tám phẩm chơn hồn ấy xuất hiện nơi Kim-Bàn do theo luật Thiêng liêng của Đức Chí -Tôn đã định, thì họ phải từ từ tăng tiến mãi, cái luật tăng tiến ấy nó buộc ta mỗi kiếp sanh đều kiếm phương tu, đặng chi? Đặng tạo Thiêng -liêng-vị cho chúng ta, các ẳng đ chơn hồn ấy khi đã đến Nhơn phẩm rồi chia ra hai phẩm hồn đặc biệt: - Ở trong vật loại tăng tiến lên đạt Nhơn phẩm của mình gọi là hóa nhân, - Các chơn hồn ở trong Kim-Bàn đã xuất hiện với 56

57 địa vị Nhơn phẩm của mình là nguyên-nhân. - Hai phẩm hồn ấy nếu không noi theo đạo đức đặng từ từ bước lên con đường Thánh Đức của mình, đặng đạt cho tới địa vị cuối cùng là Phật-vị lại làm tội lỗi thì phải sa vào Quỉ vị. Ấy vậy phần người có nguyên nhân, hóa nhân, quỉ nhân. Hại thay 100 ức nguyên nhân do Đức Chí-Tôn đã để lại mặt thế này, đặng làm bạn với các đẳng chơn hồn trong Vạn Linh sanh chúng của Ngài đã đào tạo thì: - Phật-vị có sáu ức. - Tiên-Vị có hai ức. - Còn chín mươi hai ức nguyên nhân bị đọa trần. Từ ngày Đạo bị bế họ có lắm công tu mà thành thì không thành. Tội nghiệp thay, vì 92 ức nguyên nhân ấy mà chính mình Đức Chí Tôn phải giáng trần mà lập nền chơn giáo của Ngài, chúng ta đã ngó thấy cái Thánh ân, đặc biệt hơn hết là Đức Chí-Tôn đã thấy rõ rằng: Các nguyên nhân ấy không phương gì tự giải thoát đặng vì quá tội tình, quá mê luyến hồng trần hoặc đào tạo quả kiếp nặng nề quá đỗi, vì cớ cho nên tu thì có tu mà thành thì không có thành, tức nhiên từ ngày Đạo bế thì cơ siêu thoát đã mất tại mặt thế này, chính mình Đức Chí Tôn biết rằng k hông thế gì các nguyên nhân tự mình đạt cơ giải thoát đặng. Hôm nay Ngài đến lập nền Chơn-giáo của Ngài chúng ta đã ngó thấy lòng yêu ái vô tận của Ngài là thế nào? 57

58 CHƯƠNG III A-Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có 3 Đài Là hình thể Đạo tại thế 1- Bát Quái Đài: Thể hiện Linh Hồn, thuộc Thần. 2 -Hiệp Thiên Đài: Thể hiện Chơn Thần, thuộc Khí. 3 -Cửu Trùng Đài: Thể hiện xác thân, thuộc Tinh. I- Bát Quái Đài: Bát-Quái-Đài là ngôi ờ thphượng Đức Thượng Đế tá danh: Cao-Đài Tiên-Ông Đại -Bồ-Tát Ma Ha-Tát và các Đấng Giáo -Chủ Tam Giáo cùng các Đấng Thiêng Liêng trong Ngũ Chi Đại -Đạo là Nhơn-Đạo, Thần Đạo, Thánh-Đạo, Tiên-Đạo, Phật-Đạo. 58

59 Bát-Quái-Đài dưới quyền Đức Chí-Tôn, Ngài là Chúa của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cùng vạn-linh, chính ông chủ Bát-Quái-Đài là Đức Chí-Tôn. 2- Hiệp Thiên Đài; Hiệp-Thiên-Đài là cơ quan Lập pháp của Đạo, là nơi để thông công cùng Đức Thượng -Đế và các Đấng Thiêng-liêng bằng Cơ Bút do chức sắc Hiệp -Thiên-Đài phò loan để tiếp các Thánh ngôn và Luật Pháp Đại -Đạo của các Đấng Thiêng Liêng giảng dạy. Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Hộ-pháp làm chủ. Hội Thánh Hiệp Thiên Đài gồm các chức sắc Thiên Phong theo phẩm trật sau đây: -Hộ-Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài và bảo hộ Luật Đời cùng Luật Đạo. -Thượng-Phẩm lo về mấy Thánh Thất và Tịnh Thất. -Thượng-Sanh lo về phần Đời của Đạo. -12 Vị Thời Quân thuộc 3 Chi: Pháp, Đạo, Thế đặt dưới quyền hành sự của Hộ Pháp, Thượng Phẩm và Thượng Sanh. 3- Cửu Trùng Đài: Cửu-Trùng-Đài là cơ quan Hành Pháp ủa cđạo. Cửu-Trùng-đài do Giáo-Tông làm chủ Hội-Thánh. Ba ông chủ ấy, có hai ông này: Cửu-Trùng-Đài và Hiệp Thiên-Đài nếu riêng ra thì không có thế gì dâng sớ cho Bát Quái-Đài, tức nhiên quyền Chí-Tôn ở nơi Bát-Quái Đài. Hai Đài Cửu-Trùng và Hiệp-Thiên hiệp nhứt là quyền Chí Tôn tại thế này, không có một quyền cai-quản nào cải qua quyền Bát-Quái được. Hội Thánh Cửu Trùng Đài gồm chức sắc Thiên phong theo các phẩm trật sau đây. (ĐHP 18-8 Kỷ- Sửu) Chức sắc Nam Phái: - 1 Phẩm Giáo Tông (Nhứt Phật) Lãnh đạo tối cao toàn 59

60 Đạo có phận-sự dìu dắt Đạo-hữu trong đường Đạo và đường Đời. - 3 Chưởng Pháp (Tam Tiên): Lãnh nhiệm vụ nghiên cứu Luật Pháp Đạo trước khi ban hành cho toàn Đạo. - 3 Đầu Sư (Tam Tiên): Cầm quyền Chánh Trị Đạo ban hành Luật Pháp Đạo Phối Sư (Tam Thập Lục Thánh): Có 3 vị Chánh Phối Sư làm đầu, dưới quyền 3 vị Đầu Sư cai trị Đạo Giáo Sư (Thất Thập Nhị Hiền): Có phận sự dạy dỗ Đạo Hữu trong đường Đạo và đường Đời. Được quyền dâng sớ cầu nài về Luật Lệ làm hại Nhơn Sanh hay là cầu xin chế giảm Luật lệ ấy Giáo Hữu (Tam Thiên Đồ Đệ): Chia đều mỗi phái 1.000, chẳng nên tăng thêm hay là giảm bớt. Lãnh phận sự phổ thông Chơn Đạo. - Lễ Sanh: Không hạn định số. Lễ Sanh là người có hạnh kiểm tốt, được quyền đi khai đàn cho mỗi Tín Đồ. Về Chức-sắc Nữ phái: Chức Sắc Nữ Phái khởi từ phẩm Đầu Sư trở xuống Lễ Sanh, quyền hành y như Nam phái, song chỉ điều hành về Nữ-phái mà thôi. Tất cả tùng lịnh của Giáo -Tông và Hộ-Pháp. Về Nữ-phái thì vô hạn định về con số. Bàn trị sự (Hội-Thánh Em): Bàn Trị sự là cơ quan hành Đạo trong thôn xã gồm Những Chưc việc sau đây: - 1 Chánh Trị Sự - 1 Phó Trị Sự - 1 Thông Sự Có nhiệm vụ giúp đỡ các sinh hoạt của Đạo và săn sóc các Đạo hữu, như anh lớn trong gia tộc. Bàn Trị sự còn được xem như là một Hội-Thánh Em. 60

61 Bảng tóm tắt: 61

62 B- Lập Tân-luật là để phân quyền cho Chức sắc Cửu Trùng Đài: Ngày Bính-Dần (dl ) tại Từ Lâm Tự. Đức Chí-Tôn giáng Cơ dạy Hội -Thánh lập Tân Luật để phân quyền hành cho Chức-Sắc Cửu Trùng Đài có phẩm trật, hầu có Chức sắc thi hành phận sự thể thiên hành chánh đạo. Ngoài ra Thầy cũng giáng Bút truyền các Bí-pháp cho Hộ -Pháp. Hội Thánh chơn truyền Tân pháp đã đạt đặng như: Phép Giải-oan, phép Khai sanh Môn, Kim quang và còn nhiều Bí -pháp khác nữa. Trong các Bí-Pháp có cơ mầu đắc Đạo. Ấy là cơ vô vi TINH KHÍ- THẦN hiệp nhứt. Ngọc là Tinh, Thượng là Khí, Trí là Thần. Nếu cả ba không hiệp thì chẳng hề thành Đạo đặng. 1- Ba Đài liên quan mật thiết cùng nhau: - Bát-Quái-Đài là linh-hồn. - Cửu-Trùng-Đài là xác thịt. - Hiệp-Thiên-Đài là chơn-thần. Hồn đặng tương-hiệp cùng xác phải nhờ chơn thần. Chơn-thần lại là bán hữu-hình tiếp vô-vi mà hiệp cùng hình thể, cũng như Đ ạo tiếp Thánh-Đức của các Đấng thiêng-liêng mà rưới chan cho nhơn-loại. Đức Hộ-pháp nói: Phước-Thiện là thay cho Hiệp Thiên-Đài gánh vác nhiệm-vụ cứu khổ nên Hội-Thánh Phước-Thiện do nơi Qua cùng Đức Lý-Giáo Tông đã đồng-ý tạo nên hình tướng. Ngài rất vui lòng. Tại sao vậy? - Nhiệm-vụ của Hộ-Pháp phải có Giáo-Tông. Bởi Giáo-Tông, Chí-Tôn định có quyền cai trị đường Đạo và đường Đời, mà hễ Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là 62

63 quyền Chí-Tôn tại thế. Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài là phổ thông nền chơn giáo, lo về mặt giáo-hóa, bảo-tồn nền văn-hiến tồn tại. Cửu-Trùng-Đài là cái Đài thể theo Cửu Trùng Thiên mà kiến trúc, có chín nấc cao thấp khác nhau. Cửu Phẩm Thần Tiên vâng lịnh Ngọc-Hư Cung trị thế gới vô hình cũng như Cửu-Trùng-Đài vâng lịnh Bát Quái-Đài mà Chưởng -Quản mối Đại-Đạo tại thế gian về mặt hữu vi. Vậy tất cả chơn linh trong Càn Khôn vũ trụ đều phải vào Cửu Trùng Đài và tuần tự theo đẳng cấp thấp cao để đoạt vị Thiêng liêng của mình. Cửu Trùng Đài do Hội-Thánh quản trị, mạng danh Hội-Thánh Cửu Trùng Đài gồm có một phái Nam và một phái Nữ. Đức Chí-Tôn lập Pháp -Chánh-Truyền cho cả hai phái (Theo Đàn Cơ Bình-Dần 1926) Như vậy trường Đại-Đạo theo như Đức Hộ-Pháp dạy về đường Đạo và đường Đời rằng: - Thể-pháp của Đạo Cao-Đài là một trường công quả của chúng ta, trường công-quả ấy để cho chúng ta lập đức, lập công, lập ngôn. - Bí-pháp chơn-truyền của Đức Chí-Tôn tức nhiên cơ-quan huyền-bí để cho con cái của Ngài giải-thoát. 2-Quyền hành của ba Đài: 1/- Trong Bát-Quái-Đài: kể từ Tiên vị đổ lên cho tới Thầy thì đã vào địa vị các Đấng Trọn lành Classe des Parfait ou des Purs. Từ Thánh-vị trở xuống Nhơn vị thì vào hàng Thánh Class des Épures. Từ thú cầm xuống vật chất thì hàng phàm tục Classe des Impurs ấy vậy trong Bát Quái-Đài từ bậc Thánh hồn thì còn phận sự điều đình càn khôn thế 63

64 giới, giao thiệp cùng các chơn hồn, còn ở trong vòng vật chất nâng đỡ, dạy dỗ cho phàm phẩm tấn hoá lên cho tới Thánh vị. Hễ vào đặng Thánh-vị rồi thì tự nhiên mình biết lấy mình, dầu phải bị đoạ trần đi nữa cũng còn gi ữ vẹn Thánh đức mà tu hành đặng đạt đến địa vị trọn lành. Lên địa vị Trọn lành rồi thì mới đồng quyền cùng Tạo-Hóa, Từ bi, tự tại, bất tiêu, bất diệt. (PCT) 2/- Trong Hiệp-Thiên-Đài: thì có Hộ Pháp thay quyền cho các Đấng Thiêng-Liêng và Thầy mà gìn giữ công bình Tạo hóa, bảo hộ nhơn loại và vạn vật lên cho tới địa vị tận thiện, tận mỹ. Người thì tận thiện, còn vật thì tận mỹ. Chẳng cần lấy sức mình mà lập, chỉ bảo hộ cho sự tấn hóa tự nhiên khỏi điều trở ngại, nếu nói có quyền bảo hộ thì phải có Luật pháp, lấy Luật pháp mà kềm chế nhơn sanh, cũng như các Đấng Trọn lành lấy Thiên điều mà sửa trị Càn khôn Thế giới. - Hộ-Pháp là thể các Đấng Trọn lành. Người lại giao quyền cho Thượng-Phẩm lập Đạo, đặng dìu dắt các chơn hồn lên tột phẩm vị của mình, tức là nâng đỡ binh vực cả Tín-đồ và Chức sắc Thiên phong ngồi an địa vị, cũng như chư Thần Thánh Tiên Phật điều đình Càn Khôn thế giới cho an tịnh, hòa bình mà giúp sức cho Vạn linh sanh sanh hóa hóa. - Thượng-Phẩm tiếp các chơn hồn của Thượng Sanh giao vào cửa Đạo. Thượng-phẩm là người thể Đạo đối với hàng Thánh, ấy là người cầm đầu các Thánh. - Thượng-Sanh về Thế độ, đem các chơn hồn vào cửa Đạo, dầu Nguyên nhân hay là Hóa nhân cũng vậy, phải nhờ Người độ rỗi. Thượng Sanh đặng mạng lịnh chuyển thế, điều độ nhơn sanh ra khỏi trầm luân khổ hải, buộc Thượng-Sanh phải gần gũi kẻ vô Đạo đặng an -ủi 64

65 dạy-dỗ. Mà kể từ hạng vô Đạo trở xuống cho tới vật chất thuộc về phàm, ấy vậy Thượng-Sanh là thể Đời, người đứng đầu của phẩm phàm tục. (PCT) 3/- Trong Cửu-Trùng-Đài có: - Đầu-sư thì đối với phẩm Địa Tiên - Chưởng-Pháp thì đối với phẩm Nhơn Tiên - Giáo-Tông thì đối với phẩm Thiên Tiên TAM TRẤN OAI NGHIÊM thay quyền Phật -vị tại thế này. Ấy vậy các Đấng ấy đối phẩm cùng các Đấng Trọn lành của Bát-Quái-Đài. Giáo-Tông giao quyền cho Đầu -sư. Đầu sư lại phân quyền cho Chánh-Phối-Sư lập Đạo đặng độ rỗi nhơn sanh cũng như Hộ-Pháp giao quyền cho Thượng Sanh và Thượng Phẩm. - Chánh-Phối-sư và Phối-sư đối phẩm Thiên Thánh - Giáo-sư đối phẩm Nhơn Thánh. - Giáo-hữu đối phẩm Địa Thánh. - Lễ Sanh đối phẩm Thiên Thần. - Chánh Trị sự, Phó Trị sự và Thông sự đối phẩm Nhơn Thần. - Chư Tín đồ đối phẩm Địa Thần Đây: Cửu-Trùng-Đài đối phẩm với Cửu Thiên Khai hoá: 65

66 Như trên thì trong cửa Đạo còn có Cửu viện, dưới quyền Chánh-Phối-sư của Ba phái: - Thái Chánh-Phối-sư coi ba viện: Hộ, Lương, Công. - Thượng Chánh-Phối-sư coi ba viện: Học, Y, Nông. - Ngọc Chánh-Phối-sư coi ba viện: Hoà, Lại, Lễ. C- Một số Chức-sắc không có qui định trong Tân-luật & Pháp-chánh-truyền Ngoài ra còn có các Chức -sắc không có qui định trong Tân-Luật & Pháp-chánh-truyền mà do Thánh-giáo, Thánh-lịnh, Đạo lịnh được thành lập do các cơ quan thuộc Hiệp-Thiên-Đài. Lần lượt là: 1-Pháp chánh Hiệp-Thiên-Đài (có 8 phẩm cấp) 66

67 2-Phước Thiện có 12 cấp, gọi là Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng-liêng 3-Thập Nhị Bảo-Quân (12 phẩm cấp) 4- Chức sắc Bộ Nhạc (10 phẩm cấp) 1- Pháp chánh Hiệp-Thiên-Đài có 8 phẩm cấp từ trên xuống: 1-Tiếp Dẫn Đạo Nhơn (Instructeur) đối phẩm Chánh-phối sư 2- Chưởng Ấn (Chancelier) đối phẩm Phối-sư 3- Cải-Trạng (Avocat) đối phẩm Giáo-sư 4- Giám Đạo (Inspecteur) đối phẩm Giáo-sư 5- Thừa sử (Commissaire de Justice) đối phẩm Giáo-hữu 67

68 6- Truyền Trạng (Greffier) đối phẩm Giáo-hữu 7- Sĩ-tải ( Scrétaire Archiviste) đối phẩm Lễ Sanh 8- Luật sự (Agent judiciaire) đối phẩm Chánh Trị sự. 2- PHƯỚC THIỆN: Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng có 12 phẩm, từ trên xuống: 1-Phật Tử 2-Tiên Tử 3-Thánh nhơn 4-Hiền nhơn 5-Chơn nhơn 6-Đạo nhơn 7-Chí-thiện 8-Giáo thiện 9-Hành thiện 10-Thính Thiện 11-Tân Dân 12- Minh Đức 3-THẬP NHỊ BẢO QUÂN (12 PHẨM) Ngoài ra còn có 12 vị Bảo-Quân dưới quyền chỉ huy của Giáo-Tông và Hộ-Pháp. Đức Hộ-Pháp trả lời trong quyển Lời phê về Thập Nhị Bảo-Quân là: Toàn thể Bảo-Quân là Hàn-Lâm-viện, mỗi vị có sở chức, sở năng ấy là điều khác nhau đặc biệt, tỷ như: Huyền-Linh-Quân nghĩa là Th ần linh hồn khác với Bảo Học Quân là thuộc về khoa-học hay thực tế học.. Bảo Quân có 12 vị gọi là Thập Nhị Bảo Quân là: 1-Bảo Huyền-Linh-Quân (Science mystique) 2-Bảo-Học-Quân (Science physique Instruction Publique) 3-Bảo Thiên-văn Quân (Astrologie) 4-Bảo Địa Lý Quân (Géologie) 5-Bảo Sanh Quân (Santé puplique) 6-Bảo Cô Quân (Chevalerie) 7-Bảo Văn Pháp Quân (Belles lettres) 8-Bảo Y Quân (Médecine) 9-Bảo Nông Quân (Agriculture) 10-Bảo Công Quân (Arts et Métiers) 68

69 11-Bảo Thương Quân (Commerce et Industrie) 12-Bảo Phong Hoá Quân (Philosophie) hoặc còn gọi là Bảo-Sĩ-Quân tức là Triết-học. 4- CHỨC SẮC BỘ NHẠC (10 PHẨM) Từ phẩm trên xuống: 1- Tiếp lễ Nhạc quân 2- Nhạc sư 3- Đốc nhạc 4- Đề Nhạc 5- Lãnh Nhạc 6- Quản Nhạc 7- Đội nhạc 8- Cai Nhạc 9-Bếp Nhạc 10- Nhạc sĩ 69

70 D-Thánh-Thể Đức Chí-Tôn: Chính vì Đức Chí-Tôn trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ này không có nhân thân phàm ngữ nên phải lập Hội-Thánh làm Thánh Thể của Ngài. Đức Hộ-Pháp nói: Thánh-Thể Đức Chí-Tôn chẳng phải trong Hội Thánh mà thôi, mà cả toàn con cái của Ngài Nam Nữ, nếu Qua không nói đến mấy Em mới sơ sanh, nó cũng là đám Thánh-Thể của Ngài. Là buổi may duyên của chúng ta ngộ Đạo Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ. Bởi cái may duyên ấy do nơi mấy Em đào tạo nó, một phần tử buổi sơ sanh, tức nhiên kể từ hạng sơ sinh Đức Chí-Tôn đã đến lựa từ khi mấy Em đã có trí khôn ngoan cho nhập Thánh-thể của Ngài đứng vào hàng Chức sắc Th iên phong gọi là chư Thánh, mấy Em mới nên người Tam thập nhi lập. Cái phẩm vị Thiêng liêng của mấy Em nơi mặt thế: Phó Trị sự, Thông Sự, đối với ngôi Giáo-Tông, Hộ-Pháp trong khi tuổi của mấy Em đã tri thiên mạng rồi. Rất ngộ-nghĩnh thay cho Chí-Tôn lấy công bình ấy đặng lập Thánh-Thể của Ngài. Ngài để một kiểu vở, một khuôn luật tạo đoan hay là một gia đình kia không khác gì hết. Mấy em đã ngó thấy trong Đạo, Đức Chí-Tôn đã để: -Hàng Tín-đồ đối với Đại-Từ-Phụ. -Phó-trị-sự và Thông sự đối với phẩm Giáo-Tông và Hộ-Pháp. - Chánh-Trị-Sự đối với phẩm Đầu-Sư. 70

71 *Kích thước xây cất ba Đài: Theo bài Thánh giáo ủa c Đức Lý Giáo Tông thì Tòa Thánh được xây dựng gồm 3 phần: - Bát Quái Đài, xây trên khoảnh đất hình vuông, mỗi cạnh 27 mét, nền cao 9 mét. - Cửu Trùng Đài, là phần Chánh Điện, xây nối theo, bề ngang 27 mét, bề dài 81 mét. - Hiệp Thiên Đài, xây nối theo Cửu Trùng Đài, trên hình vuông, mỗi cạnh 27 mét. Tổng cộng thì bề dài của Tòa Thánh là: =135 mét và bề ngang của Tòa Thánh là: 27 mét. Những chi tiết khác thì Đức Lý vẽ và dạy riêng cho Đức Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm và Ngài Phối Sư Thái Bính-Thanh. Chúng ta nhận thấy các con số về kích thước của Tòa-Thánh đều là những bội số của một số căn bản là 9. E- Tinh thần Tam-giáo I-Thiên địa vạn-vật nhất thể: Cái lý trong vũ trụ giống nhau cho nên các Học thuyết ấy đều theo một chủ-nghĩa Thiên địa vạn-vật nhất thể 天地萬物一體 Song, mỗi một Học-thuyết đi ra một đường là vì cách lập giáo và sự hành-đạo khác nhau. 1/-Lão-giáo 老教 thì cho vạn -vật đều gốc ở Đạo, Đời là một cuộc phù-vân, hơi đâu mà để trí lo -nghĩ, người ta chỉ nên cùng với Đạo mà vui chơi cùng Tạo hóa, không cần chi đến Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí; không thiết gì đến pháp luật, chế độ, miễn là được thảnh-thơi vô-vi thì thôi. 2/-Phật-giáo 佛教 thì cho vạn -tượng do Chơn-như mà ra, sắc với không là một, sự sinh hóa là cái vọng niệm chứ không phải là thực. Cái thực là Chân-như. Người ta 71

72 phải tìm cái thực ấy mà quay trở về gốc cũ để ra thoát vòng sanh, tử; tức là để đến Niết-Bàn, hết cả sự khổ-não. 3/-Nho-giáo 儒教 thì cho rằng sự biến -hóa ở trong vũ trụ là do sự nhất động, nhất tịnh của Thái-cực mà sinh ra. Vạn-vật đã phát hiện ra là thực có, thì chi bằng cứ theo cái thực ấy mà hành động và sinh tồn; sự sinh-tồn của vạn vật không ra ngoài được những điều Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí 仁義禮智 tức là Nguyên,Hanh, Lợi, Trinh 元亨利貞 của Tạo-hóa. Vậy nên người ta ai cũng phải theo những điều ấy mà vui trong cuộc sinh-hóa. Thành thử cái gốc vốn là một, mà cái ngọn thì chia ra khác nhau. Bởi cái tư-tưởng khác nhau như thế cho nên Lão-giáo và Phật -giáo thì theo cái ủch -nghĩa tiêu-cực, thành ra cái Đạo xuất thế; Nho-giáo thì theo cái chủ -nghĩa tích-cực, thành ra cái Đạo nhập thế. Vì có sự tương-đồng, tương-dị ấy mà ta có thể xét đoán tường-tận được, tuy cái tương-dị về thể hành đạo của các Đạo có khác nhau, nhưng chung-qui cũng là một gốc, cái gốc đó tức là căn bản của muôn sự vật cho tất cả vũ-trụ bao-la mà ta gọi là Thiên -lý. Cái Thiên-lý đó là cái tóm thâu của Trời, biểu-tượng trong KINH DỊCH vậy (Lời phát-đoan của Nguyễn-Mạnh-Bảo) 2-Triết Đông-phương có 3 nhà: Phật, Lão và Dịch: - Một là Phật-học. - Hai là Lão học. - Ba là Dịch-học. *Nhưng Phật-học thì lý-tưởng quá cao, mà con đường tu là xuất thế. Lão học chỉ lấy thuyết Âm Dương làm nền tảng cũng theo đường xuất thế. Hỏi tại sao đường lối tu của Phật và Lão phải xuất thế? 72

73 - Vì nhân-loại buổi ấy Thánh đức còn nhiều, về địa lý thì đất đai rộng -rãi, đất rộ ng người thưa. Tính tình người còn hiền hậu, còn giữ nguyên cái chân tính của Nhân chi sơ tánh bổn thiện, không bị ảnh hưởng của ngoại lai như ngày nay. Thế nên việc tu thuở ấy giống như người chơi cây kiểng, nhàn rỗi, thư thái. Tìm đến non cao núi thẵm, lánh chốn phồn hoa để tìm đến một cái thú tuyệt vời là tầm Tiên noi Phật. Thật ra nếu không tu thì người thuở ấy cũng vẫn hiền từ nhân hậu lắm rồi! Thời Thượng đức mà! *Lão-học thì cũng vẫn một nhà xuất thế như Phật, tìm chốn non Thần động Thánh để thích chí thanh nhàn, tu Tiên luyện pháp: Quá cao xa và đòi hỏi thời gian. Thế kỷ này liệu thế nào mà tu-hành cho được. Nếu cả nước đồng xuất thế thì lấy ai lo cho dân-tộc, làm sao đất nước mở mang? Nhân sanh đi vào đường tiêu cực? *Nay nếu chiết trung ở trong các nhà Tri ết -học Đông phương vừa tinh-vi, vừa thiết thực, vừa thấu lý, vừa thích dụng thời chẳng gì bằng Dịch-học. Vì lòng ưu thời mẫn thế gốc ở tấm lòng Từ-bi thời DỊCH chẳng khác gì Phật, tùy thì thức thế dù trăm đường biến hóa, thời Dịch có lẽ hay hơn Lão. Nếu nghiên-cứu về Dịch-học thì Phật-học và Lão-học cũng quán thông, gần gũi cùng thiên-lý, Âm Dương lý số thông cùng vạn vật. Nếu có kẻ hỏi: Hiện đã có Đạo Lão, Đạo Gia Tô, Đạo Thích là ba chánh Đạo, thế thì Tam giáo đã có rồi hà tất phải cần lập Đạo khác mà làm gì? - Nếu nói Đạo thì đã có sẵn từ tạo thiên lập địa. Hễ có Đời tức nhiên có Đạo. Hư-vô là Đạo, Âm Dương là Đạo, trời đất là Đạo, nhơn vật là Đạo. Tam giáo là Đạo chánh thuở nay, song bị tay 73

74 phàm canh cải, càng ngày càng xa Thánh-giáo mà hoá ra phàm giáo. Thượng -Đế lấy làm đau-đớn, hằng thấy nhơn sanh phải bị sa vào tội lỗi, mạt kiếp chốn A-Tỳ, nên nhứt định chuyển Tam giáo Qui nguyên Phục nhứt, chấn hưng Tôn giáo ại l cho hoàn -toàn, rồi khêu sáng ngọn đèn Thiêng liêng lên để dìu-dắt bước đường cho kẻ có công tu hành mà khỏi phải sa chân lạc bước 3-Phật độ 6 ức nguyên nhân là nghĩa gì? Con số 6 ấy là nói phép tu theo Phật là cho hiểu nguồn gốc khổ của con người là do lục căn, bởi khi tiếp xúc với lục trần thì sinh ra lục dục. Nếu nhờ biết tu thì biến tất cả thành ra lục thức để đến chỗ cao thượng hơn là đạt cho được Lục thông để khỏi phải bị đoạ vào Lục đạo luân hồi. Chính ra những con số LỤC này nó đã nằm ngay trong chân tính của con người, nhưng khi đến trần là bị nhiễm trần, lâm phàm rồi thì cái gì cũng phàm. TU chính là lau bụi trên mặt gương, nào phải lau gỗ mà thành gương được. Thế nên chỉ có người TU mới được viên mãn mà thôi. Cho nên Đạo -pháp nói lý là Phật độ được 6 ức nguyên nhân là vậy: -LỤC CĂN: Sáu gốc rễ có sức nảy sanh. Lục căn chính là sáu giác quan của con người để nhận biết sự vật: 1-Nhãn (Mắ) 2-Nhĩ (tai) 3-Tỷ (mũi) 4-Thiệt (lưỡi) 5-Thân (da thịt) 6-Ý (Tư tưởng) - LỤC THỨC: Sáu điều hiểu biết của con người. Lục thức có được là do Lục căn. Lục thức gồm: 1- Nhãn thức: sự biết do mắt nhìn thấy 2- Nhĩ thức: Sự biết do tai nghe 3- Tỷ thức: Sự biết do mũi ngửi 4- Thiệt thức: Sự biết do lưỡi nếm 74

75 5- Thân thức: Sự biết do da thịt cảm nhận 6- Ý thức: sự biết do tư tưởng -LỤC TRẦN: Trần là bụi, chỉ cõi trần. Lục trần là sáu cảnh nơi cõi trần diễn ra trước Lục căn, làm cho Lục căn sanh ra Lục thức. Lục trần gồm: 1- Sắc: cảnh vật có màu sắc xinh đẹp. 2- Thinh: âm thanh êm ái, lời nói ngọt ngào. 3- Hương: mùi thơm của hoa, của món ăn. 4- Vị: thức ăn ngon béo bổ. 5- Xúc: trang sức lụa là, da thịt mát mẻ. 6- Pháp: Tư tưởng mưu tính thực hiện cho thoả ý muốn - LỤC DỤC: Sáu điều ham muốn. Vì bởi Lục trần khêu gợi Lục căn, Lục căn sanh ra Lục thức, Lục thức sanh ra Lục dục. Lục dục gồm: 1-Sắc dục: ham muốn nhìn thấy sắc đẹp 2-Thinh dục: ham muốn nghe âm thanh êm tai. 3-Hương dục: ham muốn ngửi mùi thơm dễ chịu 4-Vị dục: ham muốn món ăn ngon miệng 5-Xúc dục: ham muốn xác thân sung sướng. 6-Pháp dục: ham muốn ý nghĩ được thỏa mãn. Con người có Lục căn nên mới có Lục thức. Lục thức bị Lục trần cám dỗ mới sanh ra Lục dục. Bốn thứ ấy liên hệ mật thiết nhau, tương tác nhau làm cho con người lẩn quẩn như bị trong cơn lốc của cuộc đời. Thất tình Lục dục là mối loạn hằng ngày trong tâm trí, không phương trừ khử. Một đám giặc liệt cường tài trí đánh phá ruồng trong núi cao rừng thẵm còn dễ trừ dẹp đặng, chớ mối loạn nơi tâm khó mà diệt đặng cho yên, nhứt là Lục dục: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân và Ý dục, chúng nó phá hại hằng ngày. Nhãn thì ưa màu sắc tốt đẹp. Nhĩ thích nghe những giọng nói tao nhã thanh bai. 75

76 Tỹ thì ưa mùi thơm hơi ngọt. Thiệt thì ưa nếm vật lạ món ngon. Thân: mến vợ đẹp hầu xinh, cả dục tình dâm niệm. Ý lại tư tưởng vất vơ quấy phá. Nhứt là Ý là mối đại hại cho con người. Nó tư tưởng sự nầy sang sự nọ. Chuyện nọ hết đến chuyện kia. Nó ra vô lẹ làng không chi ngăn đón đặng, nên cho nó là đứa ăn trộm tài nghề, xách món nầy, vật nọ trước mắt muôn người mà chẳng ai thấy. Còn thân, cái thân thể muốn sự dâm dục quá độ, mới hao tán nguơn Tinh, nguơn Khí, nguơn Thần. Thiệt là lưỡi, miệng ham ăn món ngon vật lạ, đồ mỹ vị cao lương, phạm tội sát sanh, bị sa đọa vào Lục đạo. Tỹ là mũi ưa thơm tho mới khiến lòng ham muốn. Nhĩ là tai, tai nghe điều phi lễ. Nhãn là mắt ngó thấy sắc đẹp thì lòng dục dấy lên. Vậy thì, mắt thấy, tai nghe, mũi n gửi, miệng nếm, thân ham, đều xúm làm cho thân xao động, sanh lòng quấy. Vả lại, Lục dục là sáu con quỉ, tức là sáu đứa du côn, nhưng biết cách thâu phục chúng nó đặng thì sáu con quỉ ấy trở nên Lục thông là đắc đạo. Muốn thâu phục sáu con quỉ ấy thì phải làm chủ cái Tâm, tâm cho thanh tịnh, định cái trí, trí phải tự nhiên. Lục dục được an, Lục thần đầy đủ. Hễ có Lục dục thì có Lục trần, mà hễ có Lục trần thì mới sanh Lục tặc. Có Lục tặc thì hại Lục căn, Lục thức, Lục thần, nên sa vào Lục đạo. Ấy là kiếp con người không có Nguơn Thần chấp chánh, để cho Thức Thần đương quyền, thì dầu có sống, cũng là sống một cách vất vơ, vất vưởng như bồ nhìn trơ trơ để gió lay người đẩy.phải biết rằng làm người khó: Dễ gì lộn kiếp đặng làm người, May đặng làm người há dễ duôi! 76

77 4-Tiên Đạo độ 2 ức nguyên nhân là nghĩa gì? Tức là nói về lý Âm Dương là lý tương đối hữu hình: Hễ có sinh thì có diệt, có sướng thì có khổ, hai ý nghĩa này cứ đắp đỗi nhau không bao giờ dứt như bóng với hình. Bởi cõi trần này là cõi nhị nguyên phải vậy. Muốn chấm dứt sự luân hồi nhân quả phải diệt nhân thì không có quả nghiệp. Thế nên nói rằng: Phật sợ nhân, chúng sanh sợ quả. Vì Phật sợ nhân nên không gây nhân thì đâu phải gặt hái kết quả. Chúng sanh cứ làm liều không suy nghĩ, khi gặt hái nh ững quả xấu rồi mới sợ thì đã muộn rồi! Nên lý cũng đồng như trên, nói rằng Tiên độ 2 ức nguyên-nhân là do lý cớ ấy. Tức nhiên Đạo Tiên Đức Lão-Tử muốn thoát ly cái kiếp sống nhộn nhịp để tìm đến suối lặng non Thần để tiêu diêu mà thôi. Ở đời khi nói sướng thì bên cạnh đã có khổ rồi. Có sanh là có tử, nghĩa là hai cái lý tương phản cứ theo nhau không bao giờ dứt. Số 2 là nói về Âm Dương chẵn lẻ mà Đức lão Tử đã chủ trương 5-Đạo Cao-Đài độ 92 ức nguyên-nhân: Qua kỳ ba Phổ-Độ thì Đạo Cao-Đài ra đời, gọi là cơ tận độ, tức là độ sanh và độ tử, độ cả Nữ và Nam, độ toàn vạn linh sanh chúng, nên đến con số tận cùng là số 9. Nhìn gần thì con người có Cửu khiếu. Ý-nghĩa về SỐ: Phải đợi đến 9 là cơ huyền-diệu nhiệm mầu. Huyền-diệu hơn hết là số đó. Nó là cơ chuyển biến đến mực độ tận thiện tận mỹ, toàn năng, toàn tri. Đến số 9 là đến chỗ tột cùng vận-động để hiệp về cơ qui nhứt. Phép toán học thử đến 9 rồi trở về 0 là vậy. Cùng cực cái động tức trở về trạng-thái tịnh nguyên-thủy. Số 2 là chỉ cho hai triết lý của Phật và Lão hợp lại để làm triết-lý sống động trong kỳ ba của Đạo Cao-Đài 77

78 Đạo Cao-Đài là một Tôn-giáo mới khai mở vào năm Bính-Dần nên gọi là một nền Đạo mới, hay là một nền Tân-Tôn-giáo với Tôn chỉ Qui nguyên Tam giáo Phục Nhứt Ngũ Chi là vậy. Đó là ý-nghĩa của con số 92 ức nguyên nhân. Vả lại 8 ức nguyên-nhân vừa độ được, có ảnh hưởng đến con số 8 (6+2) chính là con số Bát Quái. Phải đến thời kỳ mới lý giải nỗi thuyết CAO-ĐÀI bằng Bát Quái đó vậy. Tôn-chỉ của Đại-Đạo là dìu-dẫn quần-sanh trên con đường xử thế, lấy luân-lý và triết-lý làm yếu-tố. - Ðạo mở vào buổi nhơn sanh đang khuynh hướng về đường vật-chất thì cái Tôn-chỉ Ðạo tất phải có thiệt lực gì cực kỳ mãnh liệt mới dung hòa nỗi hai thuyết duy tâm và duy vật và phải hạp thời th ì nhơn sanh mới chịu hoan nghinh mà bước vào cửa Ðạo. Nếu Ðạo mà không có cái Tôn-chỉ duy-tân cải cách theo trình-độ tiến hóa của nhơn sanh thì Ðức Thượng -Ðế chẳng cần nhọc công tái lập, vì Ðạo vẫn có từ tạo Thiên lập Ðịa mà trong nhân-gian cũng đã lập thành nhiều nền Tôn-giáo để tùy thời mà tế độ quần linh. 6-Tôn chỉ cao thượng của Đạo Cao-Đài là gì? Đạo Cao-Đài là Qui nguyên Tam Giáo Phục nhứt Ngũ Chi, cho nên có Tôn chỉ rõ rệt: - Tín-ngưỡng thì thờ Trời và thờ Người. - Về Luật-pháp thì Bác-ái và Công-bình. - Mục-đích là đưa nhân-loại tấn-hoá trên con đường Chân, Thiện, Mỹ. Chung qui dầu ở nơi Tôn-giáo nào cũng lấy Tâm làm gốc: Tìm hiểu các nhà Tôn-giáo đã dạy đời những gì, thì đó chính là Tôn-chỉ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ: 78

79 -Thích-giáo:. Phật Thích-Ca làm Chưởng-giáo, dạy:. Tam qui Ngũ giới. Minh tâm kiến tánh.. Thật hành Bác-ái, Từ bi -Tiên-giáo: Đức Thái-Thượng làm Chưởng-giáo, dạy:. Tam bửu Ngũ hành.. Tu tâm luyện tánh.. Thủ cảm ứng chứng minh. - Thánh-giáo: Khổng-Tử làm Chưởng-giáo, dạy:. Tam cang Ngũ thường.. Tồn tâm dưỡng tánh.. Lấy Nhân-Nghĩa làm hành tàng Ngày nay, Đạo Cao-Đài Qui Tam Hiệp Ngũ, bởi vì: Tam giáo là ba nền Đạo chánh thuở nay, song bị tay phàm canh cải càng ngày càng xa Thánh-giáo mà hóa ra phàm giáo. Thượng-Đế lấy làm đau đớn, hằng thấy nhơn sanh phải bị sa đoạ tội lỗi, mạt kiếp chốn A-tỳ, nên nhứt định chuyển Tam-giáo qui nguyên Ngũ chi hiệp nhứt, chấn hưng Tôn-giáo lại cho hoàn toàn rồi khêu sáng ngọn đèn thiêng-liêng lên để dìu dắt bước đường cho kẻ có công TU- HÀNH mà khỏi xảy chân, lạc lối. Ấy vậy, tất cả các yếu chỉ này làm tiêu-chuẩn cho mọi hành-vi. Cả luật -pháp khuôn viên đi ều -mục của ba nền Tôn-giáo ấy từ buổi sơ khai có đủ phương diện, quyền năng dìu đời thống khổ. Nhơn sanh tro ng thời kỳ Thượng cổ còn tính đức, biết giữ chơn truyền, chuẩn thằng, qui củ của ba nhà: Thích, Đạo, Nho tức là Phật, Tiên, Thánh; nghĩa là phải làm lành lánh dữ, dưỡng tánh tu tâm, mới chung hưởng thái-bình, hạnh-phúc. Đức Hộ-Pháp nói: Cái Tôn-chỉ của Đại-Đạo ngày nay là gồm cả ba nhà Đạo chánh là Nho, Thích, Đạo. Chuyển cả ba Đạo ấy 79

80 mà hiệp lại làm một, nên chi chúng ta tu Đại Đạo thì phải noi theo Tôn-chỉ của Tam giáo mà tập rèn tâm tánh. Nghĩa là phải nắm trọn: - Tam cang Ngũ thường (Nho-giáo) - Vẹn giữ Tam qui Ngũ giới (Phật-giáo) - Luyện Tam bửu Ngũ hành (Tiên-giáo) Người mà gồm được cả ba thì là gần Thần, Thánh, Tiên, Phật vậy 7- Triết-lý Đạo-Giáo: Đức Hộ-Pháp nói: Các vị Giáo-Chủ, lập giáo đều nương nơi một tinh thần của họ, tinh-thần hữu-định ấy có căn-nguyên trong tinh-thần của toàn nhơn-loại. Họ chỉ lấy một thuyết trọng yếu đặng làm triết-lý Đạo-Giáo của họ, tỷ như: - Thánh-Giáo Gia-Tô lấy TÂM làm căn bản, - Lão-Giáo lấy THÂN làm căn bản, - Hồi-Giáo lấy TÍN-NGƯỠNG làm căn bản, Mỗi Giáo-lý đều có sở-năng làm trung-tâm-điểm đặng vi chủ tinh-thần của con người trong chỗ khuyết điểm của họ. Có một điều Bần-Đạo xét đoán lấy làm sợ sệt hơn hết là nền Tôn-Giáo của Đức Chí-Tôn lấy Tinh Thần làm căn bản. Hỏi vậy, tinh-thần của nhơn-loại hiện ở dưới quyền áp bức của văn -minh vật -chất, tinh-thần ấy có đủ quyền năng tự -vệ lấy họ chăng? Tinh-thần họ có đủ lực-lượng chiến thắng chăng? Nếu thoảng tinh-thần của nhơn-loại không quật khởi lên, tự-quyết, tự-chủ, tự định-phận đặng mà phải chịu làm nô lệ cho văn-minh vật -chất, thì tương-lai của Đạo Cao-Đài sẽ ra sao? Mà chẳng những phải tự bảo vệ chiến thắng mà thôi, mà còn phải bảo vệ chơn tướng của đạo 80

81 đức tinh thần của loài người trở mặt ra đối với tinh-thần cường liệt của Chí-Tôn, thì tương -lai nơi mặt th ế này sẽ như thế nào? Chúng ta cũng nên để có một câu hỏi.(?) Có một điều ta nên để mắt nhìn coi Chí -Tôn tạo hình thể nào đặng bảo trọng tinh-thần đạo-đức ấy. Ấy là một phương-pháp ta nương theo đó đặng tạo dựng khối đức tin vững chắc bền-bĩ vậy. 8- Cao-Đài là Tôn giáo toàn cầu: Đức Hộ-Pháp nói: Tôn giáo, Ngài vi chủ năm châu hiệp Tín ngưỡng lại, qui nhứt mà thôi. Nắm cả Tín-ngưỡng của loài người lại, chính CHÍ TÔN là CHÚA TỂ Càn Khôn Thế Giái, làm CHÚA nền chính trị tại nước NAM, vi chủ tinh thần loài người tức đủ quyền năng lập QUỐC ĐẠO. Kỳ khai ĐẠI ĐẠO TAM KỲ tạo một linh-đài qui Tín-ngưỡng của toàn nhơn-loại, đủ quyền năng tiêu-diệt Tà pháp đặng đem nhơn-loại đến ĐẠI-ĐỒNG. Nay Đức Chí-Tôn khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là đúng theo lời sấm truyền của các vì GIÁO CHỦ ngày xưa. Chỉ có hai phương diện là : 1- Là do TAM GIÁO thất kỳ truyền 2-Là chính mình ĐỨC CHÍ TÔN giáng cơ lập ĐẠO đặng qui nguyên phục nhứt, gọi là chấn hưng TAM GIÁO lại cho hoàn toàn, lập luật pháp khuôn viên cho phù hợp theo dân trí buổi này mới tìm phương độ rỗi nhơn sanh, hiệp cả TINH THẦN của các dân tộc biết nhìn nhau một CHA chung là thuận hòa cùng nhau, thật hành chủ quyền THƯƠNG-YÊU, chung thờ một Tôn -giáo ĐẠI ĐỒNG thì nhơn loại mới gội nhuần ân huệ và đời tranh đấu tự diệt sẽ trở nên đời MỸ TỤC THUẦN PHONG thì vạn loại mới chung hưởng cơ HÒA -BÌNH, phục hồi THƯỢNG CỔ là do THIÊN THƠ tiền định buổi hạ nguơn chuyển thế hoán 81

82 cựu duy tân. Tóm lại, ĐỨC CHÍ TÔN khai ĐẠO KỲ thứ ba này là thuận theo lẽ tuần-hoàn châu nhi phục thủy ĐẠO CAO ĐÀI là nền CHÁNH GIÁO tức là nền ĐẠO CAO ĐÀI này để thay thế tất cả T ôn giáo đã có từ trước. Vì lẽ các Tôn giáo ấy ngày nay không phù hợp với lương tri, lương năng của loài người nữa. Hay nói một cách khác là các nền Tôn giáo ấy ngày nay đã bị bế. Những điều bí yếu bí trọng trong nền ĐẠO CAO ĐÀI, những triết lý cao siêu mà chỉ ĐẠO CAO ĐÀI mới có, tuy nhiên âu cũng là một đặc ân của ĐỨC CHÍ TÔN dành cho ĐẠO CAO ĐÀI là HỘ PHÁP thay lời ĐỨC CHÍ TÔN nói ĐẠO cho toàn thể con cái của Ngà i nghe, quí hay chăng là chỗ đó (ĐHP). 9- Từ trước nước Nam chẳng Đạo nhà: Đức Chí-Tôn đã xác nhận điều ấy rằng Từ trước nước Nam chẳng Đạo nhà Đức Quyền Gíáo-Tông cũng có nói rõ lý -do là Việt-Nam từ trước đến giờ không có Đạo. Quả thật vậy! Người nước Nam từ cổ chí kim thật không có ĐẠO trong nưóc nhà, mà người Nam ta có tâm đạo, người Nam trổi danh khắp địa-cầu về bề tín-ngưỡng: đạo PHẬT, đạo TIÊN, đạo NHO tuy khai bên ẤN-ĐỘ và TRUNG HOA, sau người Nam biết đặng cũng hết lòng sùng bái. Đạo GIA-TÔ của mấy vị Linh -mục bên Thái-Tây đem truyền bá bên nước ta thì người Nam cũng kính trọng. Phần nhiều trong người Nam thì hay đi chùa, đi miễu, đi nhà thờ cầu -khẩn, vọng tưởng hết lòng, ngưỡng-mộ trời Phật. Người không đi chùa, đi miễu, không đi nhà thờ thì trong nhà cũng thờ cha mẹ quá vãng ấy là đạo NHO. Mấy bằng cớ trên đây chỉ rõ-ràng người Nam-Việt 82

83 tin-tưởng Trời, Phật, Thánh, Thần; tin-tưởng chắc rằng người chết thì cái xác phàm này chết, tiêu diệt, chớ linh hồn bất tiêu bất-diệt. Vì Đạo -Tâm ấy mà trong thời -kỳ chuyển Đạo này ĐẤNG CHÍ-TÔN thương lòng thành-thật của nhơn sanh nơi đây mà khai TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ (ân-xá lần thứ ba). 10-Đức Chí-Tôn đến chuyển Quốc-Đạo: (Lời Đức Hộ-Pháp nói ngày Quí-Tỵ) Thật ra, nếu không phải cái huyền linh vô đối của Đức Chí-Tôn đến đặng chuyển Quốc Đ ạo thì trong một thời gian ngắn ngủi nền Đạo chưa rõ đến địa vị cao trọng và qúi hóa như thế này. ĐẠO CAO-ĐÀI tức đạo Tổ -phụ của chúng ta chỉ mới có hai mươi mấy năm thôi; nếu chúng ta kể từ ngày chuyển thế của nó. Nhưng Thánh-thể Đức Chí-Tôn và toàn thể con cái Nam Nữ của Ngài nên nhớ rằng: Đạo Tổ-phụ mấy người đã tuổi. Phải nhớ điều đó. Đức Chí-Tôn muốn rửa-ráy nó. Để nói rõ Thánh ý của Đức Chí-Tôn đến mức nào và Ngài muốn gì? Giờ phút này cả toàn con cái của Ngài chắc có lẽ thắc-mắc. Vì vậy: Nội tình của Đạo gặp nhiều nỗi khó khăn, nếu chúng ta không nói rằng nó đã chịu một khó khăn về mọi phương diện. Nhưng đối với Bần -Đạo, Bần-Đạo thấy mỗi phen Đạo chịu khổ nhục, chịu khó khăn hay bị chê rẻ khinh khi thì Bần-Đạo lại vui mừng mới chướng cho chớ! Bởi mỗi phen như thế là mỗi phen Đức Chí-Tôn muốn rửa-ráy nó, tô điểm nó đến một địa vị cao trọng thêm nữa chớ chẳng chi khác. Cả con cái Đức Chí-Tôn đều tin nơi Bần-Đạo để con mắt quan sát coi có quả như vậy hay không? Cái khó đảm -đương đương-nhiên bây giờ làm cho thêm nhục cơ-thể Đạo là sửa soạn tô điểm đặng một Đài 83

84 vinh diệu vô đối. Trong thời gian ngắn ngủi tới đây, nếu cả con cái Đức Chí-Tôn có Đức-tin thì hiểu rõ điều ấy. 11-Cao-Đài là gì? Lý do nào khai Đạo? Đức Hộ-Pháp nói về Tân giáo Cao-Đài: Đạo Cao-Đài tức là ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ĐỘ khai sáng vào thời-kỳ này là do Thiên-cơ tiền định và cũng hợp với lời tiên-tri của các Đấng Giáo-Chủ đã khai mở các Đạo-giáo trên thế-giới. Theo Phật-giáo, Lão-giáo và Khổng-giáo thì đều dạy rằng: thời-kỳ này là thời-kỳ hạ nguơn khiến đời tận diệt để chuyển xây trở lại Thượng nguơn Thánh-đức với một kỷ-nguyên mới. Đặc biệt Đức Thích-Ca Mâu-Ni khi lập giáo có cho biết đến năm kỷ-nguyên Phật giáo, là thời-kỳ để cho Đức Di-Lạc ra đời mở Hội-Long Hoa lập một kỷ nguyên mới đó vậy. Cao-Đài là gì? - Nho-Giáo nói rằng trên đỉnh đầu là Đấng Cao-Đài. Đã nói là Cao thì không còn chi cao hơn nữa để tôn tặng Đức Thượng-Đế là Đấng tối cao, tối đại. Ngày nay chính Đấng Thượng-Đế mở Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ xưng danh là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát Giáo Đạo Nam phương". CAO-ĐÀI là cái Đài cao, xưa muốn cầu Thần Tiên thì cất một cái Đài cao bằng tranh lá rồi lên đó để cầu-đảo gọi là thảo-đài. Nay chính Đấng Thượng-Đế đến với nhân loại mở Đại-Đạo nơi đất nước Việt-Nam chính là mở cơ Đại-Ân-Xá lần ba để độ dẫn 92 ức nguyên-nhân còn đ ắm mê hồng-trần. Danh xưng CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐẠI-BỒ TÁT MA-HA-TÁT là gồm cả Tam-giáo gọi là Tam Giáo Qui Nguyên: 84

85 - Cao-Đài là tượng-trưng cho Nho-Giáo. - Tiên-Ông là chỉ Tiên-Giáo. - Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Phật Giáo. Chính Đấng Thượng-Đế đã nói về việc xưng danh ấy, tức nhiên quyền Chưởng quản Càn Khôn vũ trụ là một mà ba, mà ba cũng như một là vậy. Thầy dạy: Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ-rỗi nhơn-sanh là thế nào, phải xưng là môt vị Tiên-Ông và Bồ-Tát là hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối-cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm-nhượng là thế nào. Vì vậy mà nhiều kẻ Môn-đệ cho Thầy là nhỏ. Cười..!. Hạnh khiêm-nhường là hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi Thiên-hạ đặng. Các con phải khiêm-nhường sao cho bằng Thầy. Thầy lại nói buổi lập Thánh-Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội-lỗi, đâu đến nhọc công Thầy. Ấy vậy, các con ráng độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết. 12-Tại sao gọi là CAO-ĐÀI? Có nhiều Hội-giáo đã l ập thành có trót trăm năm trước khi mở Đạo đặng dạy lần cho Vạn-quốc rõ thấu chánh-truyền. Ngày nay Thầy mới đến lập một cái CAO-ĐÀI 高臺 nghĩa là Đền thờ cao trọng hay là Đức-tin lớn tại thế này (La haute Église ou plus grande foi du Monde) làm nên nền Đạo; lại mượn một sắc dân hèn-hạ nhỏ-nhít của hướng Á-Đông là An-nam ta, đặng cho trọn lời tiên tri Đạo xuất ư Đông 道出於東 và cho trúng Thánh-ý chìu lụy hạ mình của Thầy lập thành Hội-Thánh, làm hình thể 85

86 Thiêng-liêng của Thầy hầu cầm cho đặng dùi trống Lôi Âm giục giọng truy hồn, nắm cho chặt chày chuông Bạch Ngọc đặng trổi hơi định-tánh làm cho cả con cái của Thầy thức tỉnh, nhìn Thầy mà trở về quê cũ (Pháp-Chánh-Truyền) Hiện-tượng Đức Chí-Tôn đến mở Đạo Cao-Đài Là do thuở trước cổ-nhân muốn cầu chư Tiên, Phật phải cất một cái Đài cao bằng tranh lá gọi là thảo-đài. Ngày nay, Chí-Tôn lập Cao-Đài để làm Tòa ngự của Thần, Thánh, Tiên, Phật đến hồng-trần này làm bạn cùng người, hiệp cả loài người làm một. Đức Hộ-Pháp cũng xác nhận rằng: "Nếu giờ phút này thiên-hạ đừng cho ta dị-đoan, chúng ta có thể nói Đức Chí-Tôn biết tình trạng nhơn-loại đã đến mức tự diệt nhau nên Ngài đến tạo nền Chơn-giáo của Ngài, tức nhiên ĐẠO CAO-ĐÀI, cho nhơn-loại gìn giữ phần hồn đặng định chuẩn-thằng cái sống của họ, đừng cho nó đến cảnh điên của nó, mà họ đến cảnh điên tức đến cảnh tự diệt. Đức Chí-Tôn đến đặng cho huờn thuốc phục sinh đặng cho nhơn-loại sống lại là Đạo-đức tinh thần của Đức Chí-Tôn tạo cho họ, ĐẠO CAO-ĐÀI chính là cái sống linh-hồn nhơn-loại, bảo vệ tánh mạng tức nhiên Chơn-thần của họ, đặng họ tránh cái nạn tiêu-diệt. Ấy, lời tiên-tri trong sách Ấu-học Tầm nguyên về sự xuất hiện của Đạo Cao-Đài. Đúng như lời tiên-tri trong quyển Giác mê-ca mà tác-giả là một Đạo-gia có ghi lại đoạn văn như sau: Hữu duyên mới gặp Tam-kỳ Phổ-độ Muôn đời còn tử-phủ nêu danh, Ba ngàn công-quả đặng viên thành, Mới đặng Thiên-thơ chiếu-triệu. Đoạn văn thơ này có mục-đích báo cho nhân-loại biết trước rằng chỉ có người hữu-duyên mới gặp được 86

87 Tam-Kỳ Phổ-Độ, hầu do theo chơn-lý Chánh-truyền ấy mà làm phương thoát tục mới mong trở về ngôi xưa vị cũ mà cởi bỏ cái kiếp trần-ai nặng nợ này. Điểm tới đích đó là Niết-Bàn, Đạo Cao-Đài nói là cảnh Thiêng-liêng Hằng sống. Niềm tin hứa-hẹn của Tam-Kỳ Phổ-Độ đã đ ến, đã ứng hiệp: Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ chiếu theo luật Thiên đình, Hội Tam-giáo mở rộng mối Đạo Trời, ấy cốt để dìu dắt nhơn-sanh bước lên con đường Cực-Lạc tránh khỏi đoạ luân-hồi và dụng Thánh-tâm mà dẫn dân-sanh, làm cho hoàn-toàn trách-nhiệm nặng-nề của Đấng làm người, về bực nhơn-phẩm ở cõi trần-ai khốn-đốn này. Phải lập cho được công quả: Lời tiên-tri cũng cho biết rằng, cơ đắc Đạo là phải có đủ Ba ngàn công-quả. Vậy công-quả ấy là gì? Sách Nam-Hoa-Kinh của Trang-Tử có ghi rõ: - Chí-nhân vô kỷ (0) người có lòng nhân thì quên mình mà lo cho người. - Thần-nhân vô công (0) đứng vào bậc Thần thì làm mà không tính công. - Thánh-nhân vô danh (0) vào bậc Thánh thì làm mà không kể đến danh. Một người tu-hành thật-sự có thể-hiện được các yếu lý ấy là đạt được công-quả, nghĩa là đạt cho được ba điều (0) không ấy, là người tu chơn-chánh thì quên mình làm nên cho người, chẳng ham công, chẳng mến danh. Thật vậy ba đầu mối quan-hệ nhất của người tu là: 1-Không còn nghĩ đến mình, mà chỉ nghĩ đến người, đến chúng-sanh, đến mối Đạo phải được sớm hoằng-khai, sớm được Phổ-độ. 2-Người làm Đạo chỉ biết hết mình lo cho lý-tưởng Đạo-pháp làm cho hết việc chớ chẳng phải đợi cho hết giờ. 87

88 3-Không tham công, chẳng mến danh mới đạt được cái chơn-lý phụng-sự. Nếu nói như vậy thì tại sao các Chức-sắc ngày hôm nay theo luật công-cử phải có đủ thời-gian công-quả? - Đó chỉ là cái lằn mức để được thăng phẩm-vị hầu tiếp-tục con đường Phụng-sự, còn đã là công -quả thật-sự thì phải đo bằng cái lương-tâm mà thôi. Dù cho nói rằng năm năm, ba năm, nhưng chính thực mỗi người phải tự biết xét mình là điều trọng-hệ nhứt. Đạo là lý, muốn cho thấu-lý Đạo phải luận, từ đó mới có lý-luận, thuyết-luận, giảng-luận. 13- Tam giáo thất chơn truyền: Có thấy được sự suy-đồi của Tam-giáo qua thời gian làm cho thất chơn-truyền, Cao-Đài Đại-Đạo mới ra đời để cứu nguy cho nhân-loại, mà khởi điểm là Việt Nam. Như vậy thì liệu sự thất chơn-truyền ấy do đâu? Bởi đâu? Vì đâu? Đức Hộ-Pháp nói: Những cơ-quan và những hành vi hiện-tượng của các Tôn-giáo đương-nhiên ngày nay như dường biến thành cổ-vật, nên đã mất cái hay để giúp đời tự-trị, tự giác, tâm hồn thiếu nơi an-ủi, tư-tưởng mất pháp chuẩn thằng, trí thức không phù hành-động, biểu sao đời không trở nên một trường náo-nhiệt, rắc-rối, khó khăn, rồi giục cho cả nhơn sanh dong ruổi trên con đường duy-vật mà quên hẳn cái quyền vi-chủ của trí-thức tinh thần. Ôi, thử nghĩ cái ngày nào trí-thức tinh-thần đã tiều tụy, thì cái lương-tri, lương-năng cũng do đấy mà tiêu-tàn, thì con ngư ời đứng giữa cõi trần-hoàn này phải trở nên bao nã?.. Tưởng lại, tương-lai của Đạo Cao-Đài do nơi cái sở hành và cái tư-tưởng cao-thượng của nó, ngày nay nó có thể hứa với nhơn-sanh rằng: một ngày nào chúng ta sẽ 88

89 hưởng điều hạnh-phúc ấy. Quả thật, Đức Chí-Tôn hoằng-khai Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ tức là thành lập một trường công-quả tại thế gian này để cho tất cả nhơn-sanh thi đua lên nấc thang tiến-hóa tột phẩm thiêng-liêng, cao thấp tùy nơi sở-hành của mỗi người muốn cùng chẳng muốn. Tam-giáo thất-kỳ-truyền như thế nào? Đạo Cao-Đài hôm nay phải xuất hiện, theo như lời Đức Hộ-Pháp nói, chính là do: Tôn-giáo thất -kỳ-truyền: Nho, Thích, Đạo, hiện nay đã trở nên phàm -giáo, chư Đệ -tử trong ba nhà Đạo không giữ giới-luật qui điều, canh-cải chơn-truyền, bày ra các điều giả cuộc làm cho Tam-giáo biến thành dị hợm. - Đệ-tử nhà Đạo, chẳng tùng pháp-giáo của Đức Thái-Thượng Lão-Quân. Tuy ở trong nhà Đạo mà tức thị mê-tín dị-đoan. - Đệ-tử nhà Thích không thuận theo lời giảng dạy của Đức Phật Thích-Ca,thì đệ-tử nhà Thích dị-đoan mê tín. - Đệ-tử nhà Nho chẳng thực-hành điều mục của Đức Văn-Tuyên Khổng -Thánh, thì đệ -tử nhà Nho dị-đoan bất chánh. Tóm lại, hai chữ Dị-đoan nghĩa là đồ theo không trúng kiểu cái qui-giới thể-lệ chơn truyền của Tam giáo. Hồi tưởng lại việc đã qua trong các thời xưa, nhứt là thời cận đại và lấy kinh-nghiệm xét đoán, nhận thấy nơi nào hễ sôi -nổi phong-trào náo-loạn lôi cuốn con người vào lối diệt -vong thì cập theo đó sản -xuất một mối Đạo mới để cứu vớt sanh-linh khỏi nơi đồ-thán. Như trước kỷ -nguyên Thiên-Chúa Giáng sanh, nhơn-loại cơ hồ bỏ qua lời truyền của Đức Phật Thích-Ca, vạch rõ con đường Bát-chánh để làm phương giải khổ; 89

90 quên hẳn lời dạy của Đức Khổng-Tử giữ Đạo nhân-luân, tạo nhân kết nghĩa để làm cửa điều-hòa xã-hội và vì khinh thường huấn-ngôn của các Đấng ấy, nên cơ đời thuở nọ lâm cơn hỗn -độn thì Cơ-Đốc-giáo ra đời Cứu Thế. Chưa mãn hai ngàn (2.000) năm hoằng khai Công-giáo thì nhân loại lần lần không quan tâm đến lời của Đấng Christ tiên tri số-phận điêu linh của loài người trong khoảng đời mạt kiếp này. Lời tiên-tri ứng -nghiệm về Đạo Cao-Đài xuất hiện. PHÁP TU THEO CAO-ĐÀI Xem ra Dịch như một vải áo, còn Đạo như một cái áo cắt ra từ tấm vải ấy. Do vậy mà Lý Dịch luôn luôn hiển-hiện trong tinh thần Đại-Đạo như bóng với hình. Vì vậy, người Tu theo Đạo Cao-Đài là tu nhập thế; tức nhiên: - Hằng ngày hành theo tinh-thần Nhân nghĩa; Phụng sự cho chúng-sanh theo Nho-Đạo. - Phương-pháp tu là luyện Tinh - Khí- Thần, là phép tu Tiên-đạo. Phép Tiên Đạo tu chơn dưỡng tánh. - Nhưng đắc vào hàng Phật-đạo (Bởi nếu đi theo Cửu-Trùng-Đài, đến tuyệt -phẩm là Giáo-Tông vào hàng Phật-vị; còn đi theo Hiệp-Thiên-Đài đến tuyệt phẩm là Hộ-Pháp cũng vào hàng Phật-vị).Đó là tinh-thần Qui Tam giáo của Cao Đài Đại Đạo ngày nay là vậy. F- Ba Thời kỳ khai Đạo: Nay Đạo Trời khai sáng tại Việt-Nam đây cũng do nguyên-lý là Đạo xuất ư Đông. Từ cổ chí kim, tạo thiên lập địa, Đạo đều phát khởi từ phương Đông (là các nước ở miền Á-Đông (Asie) như các nền chơn -giáo trước kia: Nho 儒, Đạo 道, Thích 釋 cũng đều phát khởi nơi miền Á Đông rồi lần lần truyền-bá qua phương Tây như: 90

91 - Đạo Phật thì khai tại Thiên -trước là Đức Nhiên Đăng Cổ-Phật và Đức Thích-Ca Mâu-Ni khai Phật-giáo. - Đại-Đạo là Đạo Tiên, Lão-Tử khai tại Trung-Hoa. - Sau nữa Khổng-Tử khai Đạo Thánh cũng tại Trung-hoa là ở miền Á -Đông. Sau lần lần Đạo trải khắp qua hướng Tây, nên Đức Chúa Jésus truyền Đạo Thánh tại hướng Tây. Kế đó Đạo mới roi truyền ra khắp năm châu đến để làm Giám-khảo cho kỳ Long-Hoa Đại Hội. Tuy nhiên nay đã qua ba thời-kỳ khai Đạo: - Hồi Nhứt-kỳ Phổ-Độ cầm quyền vi chủ là Đức Nhiên-Đăng Cổ-Phật. - Đến Nhị-kỳ Phổ-Độ là Đức Thích-Ca Như-Lai. - Qua Tam-kỳ Phổ-Độ là Đức Di-Lạc Vương-Phật đến để làm Giám-khảo cho kỳ Long-Hoa Đại hội. Qua hai thời kỳ Phổ Độ rồi, mỗi lần Phổ Độ như vậy đều có đủ Phật, Tiên, Thánh giáng trần tùy theo phong hóa của tư phương mà gầy Chánh giáo, như: Nhứt Kỳ Phổ-Độ: - Phật đạo có Đức Nhiên đăng cổ Phật Chưởng-giáo - Tiên đạo có Đức Thái-Thượng Đạo Tổ Chưởng giáo - Thánh Đạo: Đức văn Tuyên Đế quân Chưởng giáo. Nhị Kỳ Phổ-Độ: - Phật Đạo: Thích-ca Mâu-Ni làm Chưởng giáo -Tiên Đạo: Thái Thượng Lão-Quân làm Chưởng giáo -Thánh Đạo: Đức khổng-tử làm Chưởng giáo Thánh ở phương Đông gọi là Ông Thánh Ta Thánh ở phương Tây là Đức Chúa Jésus gọi là Thánh Tây Tam-kỳ Phổ-Độ Tam Trấn Oai-nghiêm: -Phật Đạo thì Quan-Âm Bồ-Tát thay quyền Phật giáo là Nhị Trấn Oai nghiêm. -Tiên Đạo thì Thái-Bạch Kim-Tinh làm Nhứt Trấn Oai nghiêm thay quyền Tiên giáo.. 91

92 -Thánh-Đạo thì Quan-Thánh Đế-Quân làm Tam Trấn Oai nghiêm thay quyền Thánh giáo. Bảng tóm tắt về Tam giáo như sau:: Nay qua Tam-Kỳ Phổ-Độ thì chính Đấng Thượng Đế đến mở Đạo và Ngài làm Giáo-Chủ vô vi, chứ không giao Chánh giáo cho tay phàm nữa, bởi hậu quả là càng ngày càng canh cải làm cho ra phàm giáo, nhưng phải lập Chánh thể cho có phương thế mà dìu dắt nhơn sanh trên con đường hành thiện. Do vậy mà ngày nay lập Tam Trấn Oai nghiêm để thay quyền Tam giáo: *Ngày 14 tháng 10 Bính-Dần, nhằm ngày , Ðức Chí-Tôn dạy thiết Ðại Lễ Khai Ðạo chánh thức tại Từ-Lâm-Tự tỉnh Tây-Ninh, đồng thời Ðức Chí-Tôn lập Pháp-Chánh-Truyền phong vị cho Chức-Sắc Hiệp -Thiên Ðài, Cửu -Trùng-Ðài và Ðức Chí -Tôn dạy nhóm Hội Thánh lập Luật. Vậy sau ba tháng Ðại -Hội, Ðạo đã có Pháp, có Luật thì nghiễm nhiên Ðạo thành một nền Tôn Giáo danh gọi là Ðại-Ðạo Tam Kỳ Phổ-Ðộ. 92

93 Như vậy, Đức Thượng Đế quyết định: Thầy lấy đức háo sanh mở Đạo lần ba mà vớt kẻ hữu phần tránh khỏi nơi buộc ràng khổ phạt. Ai hữu phước đặng để chân vào, kẻ vô phần phải bị Tà yêu cám dỗ. Thầy xác định rằng: Thầy lấy đức háo sanh mở Đạo, cứu rỗi sanh linh cho kịp trước kỳ Hạ nguơn này, nhưng Đạo chẳng hoàn toàn, con đường đi chưa cùng bước là vì tại lòng nhiều đứa chưa để hết Tín ngưỡng mà nghe lời Thánh giáo, cho nên nền Đạo phải ra tan tành manh mún. 1- Đại-Ân-xá là gì? Việt Nam này hân-hạnh được đón nhận trước tiên nền Chánh giáo, để rồi thông truyền cho cả thế giới một nền Tân Tôn-giáo với chủ-nghĩa Đại-Đồng để hưởng Cơ Đại-Ân xá lần ba của Đức Thượng-Đế. Đại-Ân-xá là gì? Tức là một cuộc ân-xá lớn (tiếng Pháp gọi là Troisième Amnistie de Dieu en Orient). Mỗi nguơn hội Đức Chí -Tôn với lòng Từ -bi tha thiết thương con cái của Người không nỡ để chìm đắm nơi sông mê bể khổ, nên mỗi ngu ơn hội Đức Chí-Tôn có mở một kỳ Phổ-Độ để cứu vớt nhơn-sanh và rước các Nguyên nhân tức là nguyên-linh đã xuống trần nay đem trở về ngôi vị cũ. Như thế thì mỗi Kỳ Phổ-Độ đều có mở một cuộc Ân xá, mở cửa dễ dàng cho các Đẳng chơn hồn có đủ phương lập vị. Nền Đạo này là Cơ Đại-Ân-Xá tận độ chúng sanh nên Cao-Đài xưng là Đại -Đạo. Vì chủ-nghĩa tối cao của Đại-Đạo chẳng những là QUI TAM-GIÁO HIỆP NGŨ CHI mà thôi, mà ph ải l àm thế nào dầu bậc Đế vương ngoài thế cũng phải bái phục, phải tùng Đạo, phải dò theo các cơ thể của Đạo, phải nhờ Đạo mới mong trị an thiên hạ đặng. Vậy mới gọi là HIỆP NHỨT.! Vậy mới gọi là ĐẠI-ĐẠO! 93

94 Đại-Đạo ngày nay cũng là Phật-Đạo vì gồm hết Tam giáo Nho, Thích, Đạo và Thích -Ca cũng là Thầy, Thầy là Thích-Ca. 2- Tam nguơn của Trời đất: - Thượng-nguơn: là nguơn tạo-hóa ấy là nguơn Thánh-đức, tức là nguơn vô tội (cycle de création c est-àdire cycle de l innocence) - Trung-nguơn là nguơn Tấn-hóa, ấy là nguơn tranh đấu, tức là nguơn tự diệt (Cycle de progrès ou cycle de lutte et de destruction). - Hạ-nguơn là nguơn bảo-tồn, ấy là nguơn tái tạo, tức là nguơn qui cổ (cycle de conservation ou cycle de reproduction et de rénovation) Đạo có ba nguơn chính, mà nguơn Tạo-hóa là Người đã g ầy dựng Càn Khôn vũ tr ụ. Vậy khi mới tạo thiên lập địa nhơn-loại sanh ra tánh chất con người rất đỗi hỗn độn, còn đương thu ần phát thiên lương, nên chi cứ thuận tùng thiên-lý mà hòa-hiệp dưới trên, tương thân tương ái, thời kỳ ấy người người đều hấp thụ khí Thiên nhiên, nên hằng cộng hưởng thanh-nhàn khoái lạc mà vui say mùi đạo-đức tháng ngày, bởi cớ đời Thượng-cổ mới có danh là Thượng đức. Thượng nguơn ấy cũng kêu là đ ời Thượng đức nữa. Kế đó bước qua Trung-nguơn thì nhơn tâm bất nhứt, tập quán theo thế đời, thâm nhiễm nhiều nết xấu làm cho xa mất điểm Thiên lương, nên chi nay Đại-Đạo ra đời. 3-Tam tài: Thiên Địa Nhân. 94 Nho-Tông của chúng ta có để 3 câu trọng yếu, muốn lập quốc, muốn tạo hạnh-phúc cho dân, quốc dân phải có đủ 3 điều kiện: Thiên-thời, địa-lợi, nhơn-hòa.

95 Ấy vậy chúng ta kiếm thử coi trong ba điều-kiện để tạo cho dân coi có phương thế gì giải khổ cho thuận lợi hay chăng? - Thiên-thời tức nhiên theo mạng Trời, Trời đã định cho mình thì mình phải tùng mạng Trời, tùng mạng Trời tức-nhiên tùng Đạo. Thiên -thời tức nhiên là Đạo, không thể gì chối được. - Địa-lợi là gì? Là cả thảy địa-dư toàn trong nước dân đều hiền, đất sung túc được hay chăng? Bực thượng lưu, trí-thức cần nên tưởng lại câu ấy, mà câu ấy là của ai? Quốc -Vương, Thủy -Thổ, Địa-Lợi, dầu không đặng hưởng địa-lợi nó cũng biến địa-lợi, mà phải có đạo-đức, có nhơn tài tạo mới được. - Nhơn-hòa đặng chi? Nếu cả thảy không có hòa thì loạn-lạc, hễ loạn-lạc thì có giặc-giã chiến-tranh. Chúng ta là con dân Việt-Nam có niềm tự hào về đất nước của mình, về dân-tộc của mình và nhất là về tinh thần Tín-ngưỡng của mình. 4- Đạo xuất ư Đông Ðạo là tối trọng tối quí trong đời, Ðạo vẫn có trước rồi mới có Đời. Ðạo Đời đi cặp nhau. Ðạo như cái lưới bao trùm Càn khôn Thế giới, không có việc chi từ lớn chí nhỏ mà ra khỏi Ðạo. Nay vì cuộc tuần hoàn và vì căn bổn háo sanh nên Ðấng Chí Tôn chuyển Ðạo lại. Dẫn hồi tạo Thiên lập Ðịa thì nội vùng Á Ðông đây văn minh trước, nên từ Bàn Cổ sơ khai, Ðạo cũng khai bên vùng Á Ðông trước, như: - Ðạo Phật thì mở khai tại Thiên Trước là Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật, - Thích Ca khai Ðạo Phật. - Ðại Ðạo là Ðạo Tiên thì Lão Tử khai tại Trung Huê 95

96 - Sau nữa Khổng Phu Tử khai Ðạo Thánh cũng ở Trung Huê là ở miền Á Ðông. - Sau lần lần Ðạo trải khắp qua hướng Tây nên Ðức Chúa Giê-Su truyền Ðạo Thánh bên hướng Tây. Kế đó Ðạo mới rọi truyền ra khắp năm châu. Ngày nay là châu nhi phục thỉ, nên Ðại Ðạo phát r a tại Á Ðông nầy. Bởi cớ ấy nên trong bài Khai Kinh của Ðức Lữ Tổ cho hai câu đầu như vầy: "Biển trần khổ vơi vơi trời nước, Ánh thái dương rọi trước phương Đông... " Mặt trời mọc hướng Ðông rồi lần lần lặn thì qua hướng Tây, Ðạo truyền ra cũng như thế. Người Nam Việt tin tưởng Trời Phật, Thánh Thần, tin tưởng chắc rằng chết thì cái xác phàm nầy chết tiêu diệt, chớ linh hồn bất tiêu bất diệt, vì đạo tâm ấy mà trong thời kỳ chuyển đạo nầy Ðấng Chí Tôn thương lòng thành thật của nhơn sanh nơi đây mà khai Tam Kỳ Phổ Ðộ (ân xá lần thứ ba). Tuy khai Ðạo tại nước Nam mà cũng khởi ư Ðông. Bàn Cổ sơ khai Thiên khai ư Tý, Ðịa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần. Từ năm Bính Dần, Ðạo phát khai tại Tây Ninh lần lần truyền ra Gia Ðịnh, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Chợ Lớn là mấy hạt ở về hướng Ðông. Qua năm thứ nhì thứ ba, Ðạo mới truyền ra mấy hạt hướng Tây. Trong thời đại Hạ nguơn đây, nhân loại ở thế gian phần đông vì ham cái văn minh vật chất, ham ăn mặc sung sướng, giành giựt cấu xé mồi phú quí, bả vinh hoa, vẻ cân đai, mùi chung đỉnh, mạnh còn, yếu mất đua chen lẫn lộn. Than ôi! Nhân loại như thế sao khỏi động lòng Trời! 96

97 G- THỂ-PHÁP ĐẠI-ĐẠO Vài nét Cơ bản: Mọi vật trong trời đất luôn hiển hiện ba ngôi nhưng cùng một bản thể, gọi đó là Tam ngôi nhứt thể, là cùng chung một bản thể duy nhứt, cũng còn gọi là Tam bửu tức là ba món quí báu nhứt, không thể xa lìa nhau được. Trong gia-đình là hình ảnh của Cha- Mẹ-Con đều có cùng chung một bản thể. I - HUYỀN DIỆU CƠ BÚT 1- Tại sao mở Đạo Cao-Đài Đức Chí-Tôn không giáng bằng xác thân, mà lại giáng bằng Huyền-diệu Cơ bút? 1/- Mục-đích của Đạo Cao -Đài là tận -độ chúng sanh, độ 92 ức nguyên -nhân qui hồi cựu vị cho khỏi sa đọa hồng trần. 2/- Ngày nay Đức Chí -Tôn mở Đạo không giáng bằng xác thân mà chỉ giáng bằng Huyền-diệu Cơ bút, là vì thời kỳ chuyển Đạo vô-vi hiệp Tam-thanh chấn-hưng Tam giáo Phục nhứt Ngũ chi nên Đức Chí -Tôn giáng bằng Huyền-diệu Cơ bút mới qui đặng cả Đại-Đồng Tam giáo. 3/- Đức Chí-Tôn làm Giáo-chủ Đại-Đạo là Đấng vô hình, dùng HUYỀN DIỆU CƠ BÚT dạy Đạo thì dân tộc nào cũng có thể học trực tiếp với ông Thầy Trời được, nếu họ biết dùng phép Thông-Thần-lực. Thế là sự bất đồng ngôn ngữ chẳng còn là một sự thắc mắc nữa. Bởi: Nhứt kỳ và Nhị-kỳ Phổ-Độ: Phật, Tiên, Thánh, giáng linh Tam-giáo; nhân buổi nhơn -loại chẳng hiệp đồng nên ba vị Giáo-chủ đã thọ sanh riêng địa-phận, nên hai kỳ khai Đạo vừa qua chỉ Phổ-độ trở về cựu vị có 8 ức nguyên nhân (Phật độ 6 ức, Tiên độ 2 ức). 97

98 Còn buổi Hạ-nguơn Tam-kỳ Phổ-độ là thời-kỳ ân xá tội-tình cho toàn cả chúng sanh, lạ i nhơn buổi văn minh, nhơn-loại thông đồng, càn khôn dĩ tận thức cho nên Đức Chí-Tôn dùng Huyền Cơ Diệu Bút, giáng cơ khai Đạo, chủ-nghĩa là tận độ 92 ức nguyên-nhân qui nguyên vị. 2-Thầy dùng ngọn Linh bút mà khai thông tất cả: Cơ Bút đã lập thành từ Thể pháp cho đến Bí-pháp, tức nhiên Đức Ngài chỉ dùng ngọn Linh bút mà khai thông tất cả mọi vấn đề như: 1/- Đức Chí-Tôn dùng Huyền diệu Cơ Bút giáng điển linh quang tiếp xúc với nhân loại ký Đệ Tam Thiên nhơn Hoà ước mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ để dìu-dẫn nhơn sanh lập đời Minh Đức, Tân dân, huynh đệ Đại Đồng, Hoà bình thế giới, xây hạnh phúc cho nhân loại với hai điều kiện là BÁC ÁI và CÔNG BÌNH đ ể bước qua Thượng nguơn Tứ chuyển. 2/- Thời kỳ các Đấng thiêng liêng còn ở cõi vô hình thì dùng Huyền diệu Cơ bút thay thế cho Đức Chí-Tôn giáng dạy và dìu dẫn nhơn sanh. Các Chơn linh khác giáng trần thay thế hình ảnh Đức Chí-Tôn lập thành Hội Thánh tức là Thánh Thể để phổ độ chúng sanh, gieo truyền Chánh giáo nên gọi là thời-kỳ các Đấng Thánh Thần (Règne du Saint Esprit). Ngày nay Đức Chí-Tôn đã đ ến, đem nền Tôn giáo của Ngài để tại mặt thế này đặng chỉnh đốn đạo-đức tinh thần từ thượng cổ đến giờ bằng Huyền diệu Cơ Bút. Ngài đến không có quyền nào ngăn cản, Ngài dạy con cái của Ngài, Ngài có quyền đem bí mật huyền vi tạo đoan giáo hoá con cái của Ngài. 3/- Ngày nay Đức Chí-Tôn đã đ ến, Ngài không giáng thân như các lần trước, mà giáng linh bằng Huyền 98

99 Diệu Cơ Bút. Vì lẽ đó Ngài phải lập Hội-Thánh để làm Thánh Thể của Ngài 3-Huyền diệu Cơ bút lập Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ Đức Hộ-pháp nói: Nếu Tôi không lầm Cơ Bút đã cho Tôi bi ết các Bạn Hiệp-Thiên-Đài do nơi đâu sản xuất? *Do để giữ quyền Thiêng-liêng nên mới có 12 vị Thời quân, Thập nhị Địa chi tức là cảnh Thiêng liêng vô hình của chúng ta. Ngày nay từ Âu sang Á làn sóng văn minh tràn ngập khắp nơi, vật chất lấn át tinh thần, khiến cho nền luân lý cổ truyền cõi Á-Đông phải luân lạc bởi Hạ nguơn hầu mãn nên Đ ức Chí-Tôn Ngọc Hoàng Thượng-Đế dùng Huyền diệu Cơ bút lập Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ với Tôn chỉ Qui nguyên Tam giáo Phục Nhứt Ngũ chi: - Lấy Nho-Tông Chuyển thế - Lấy sự Thương-yêu làm phương-pháp thực hành Chánh Đạo. -Đức Chí-Tôn quyết cứu vớt những kẻ hữu căn thoát vòng khổ hải, tránh đoạ luân hồi hầu vui hưởng môt hạnh phúc vĩnh cữu. 4-Trước, Ngài mở ra Cơ Bút dạy bằng Thánh giáo: Đức Hộ-Pháp dặn rằng: 1/- Mấy con nên biết rằng: Nền Đạo của Chí-Tôn là chung cho sự Tín-ngưỡng toàn nhân loại trên mặt Địa-cầu này chớ chẳng riêng nước Việt-Nam hay mấy con. 2/- Các việc trong Cơ bút thống hiệp cả sự khó-khăn của Huyền-vi-cảnh với Hữu-hình-cảnh nữa. Vậy nên việc Cơ Bút lấy làm tối trọng, dùng đến phải quan trọng. Nếu Cơ Bút viết ra câu văn xằng-xiệu và dạy điều trái đạo lý, tốt hơn kẻ phò cơ nên dẹp đi cho khỏi điều quan hệ về sau. 99

100 3/- Nhơn buổi văn minh, nhơn loại thông đồng Càn khôn dĩ tận thức cho nên dùng Huyền diệu Cơ Bút giáng Cơ khai Đại-Đạo, chủ nghĩa là độ 92 ức nguyên-nhân qui hồi cựu vị cho khỏi sa đọa hồng trần nên gọi là cơ quan Cứu thế. Chúng ta thấy Đức Chí-Tôn đến: Trước hết Ngài mở ra Cơ Bút dạy bằng Thánh giáo. Nhưng khi chưa đến thì đã có Đức Phật-Mẫu đến với chúng ta lập thành khuôn khổ một mực: dầu cho cơ quan nào Dĩ tiểu vi đại cũng vậy. Bà Mẹ phàm chúng ta sản xuất nuôi dưỡng chúng ta thế nào thì Phật Mẫu cũng thế ấy (15-8 Mậu-Tý 1948) 5- Có ba phẩm Đồng-tử phò loan: *Đức Lý, Ngài nói: Việc Cơ Bút Hiền-hữu tuy chưa rõ th ấu Huyền diệu cho trọn mặc dầu, chớ kỳ trung cũng đã hi ểu biết chút đỉnh, chẳng phải ai cầm Cơ mà đều đặng huyền diệu hết. Lão giải nghĩa: Có ba phẩm Đồng-tử phò loan: - Một là : Giáng tâm - Hai là: Mê. - Ba là: Giáng thủ. Tây phương gọi là Intuitif, Semi Intuitif et Automatique. Thầy đã cho Hiền-hữu chấp Cơ một đôi khi quả có huyền diệu, nhưng mà có nhiều khi tà bổn thân Hiền hữu nó lại choán lấy Thiên ý mà dịch trật. Vì vậy mà Hiền-hữu phải nhiều phen thất chí. 6- Hội-Thánh làm Thánh Thể cho Ngài, tức nhiên ba Đài đều do Cơ bút lập thành: Ngày nay Đức Chí-Tôn giáng trần lập Đạo. Ông Thầy của chúng ta là ông Thầy Trời, giáng trần bằng Huyền Diệu thiêng liêng Cơ Bút. Ngài không có hình thể mà làm cho chúng ta biết, không có tiếng nói mà chúng ta 100

101 nghe: Có đủ Tinh Khí Thần hiệp nhứt: Bởi hình thể của Ngài là Hội-Thánh làm Thánh Thể cho Ngài, tức nhiên ba Đài: - Hội-Thánh Cửu Trùng Đài tượng trưng xác thân. - Hội Thánh Hiệp Thiên Đài tượng trưng trí não. - Bát-Quái Đài tượng trưng linh hồn Trong cửa Đạo Cao Đài Đức Chí-Tôn mở Đạo chỉ dụng Cơ Bút mà lập thành từ Thể pháp cho đến Bí-pháp, tức nhiên Đức Ngài chỉ dùng ngọn Linh bút mà khai thông tất cả mọi vấn đề như thế. 7- Tối ưu của Cơ Bút là sự Huyền diệu: *Đạo Cao-Đài đang sử dụng Cơ Bút là sự Huyền diệu. Cái tối ưu của Cơ bút đã cho thấy rõ, điển hình là: 1/- Việc kiến trúc Tòa-Thánh cũng do Cơ Bút. 2/- Lập thành Luật pháp Đại-Đạo cũng là Cơ Bút 3/- Hệ thống tổ chức, lập thành Hội-thánh ba Đài, nghi thức cúng kiến nghĩa là tất cả đều do Cơ Bút chỉ vẽ. Nhưng bất cứ điều gì khi cái lợi càng cao thì sự hại càng to. Cơ Bút đây cũng vậy, nó cũng rất có hại nếu khi người ta lợi dụng mà làm ra giả mạo. Trước mắt đã cho thấy vì một số chức-sắc tiền bối không chịu nghe lời Thầy mà cầu cơ chấp bút riêng, sự cầu riêng tư như vậy điển lực của người vọng động theo cái tâm hám vọng, bất chánh nên bị dẫn dắt bởi Tà quái. Kết quả Chi-phái ra đời, tức là chống lại với Tòa-Thánh Tây Ninh, lập riêng pháp luật, bày đủ thứ như một hàng giả. Mãi đến ngày nay vẫn còn là một điều họa hại cho nhơn sanh hứng chịu. Do đâu? Do vì không hi ểu được chơn lý tuyệt vời của Đức Thượng -Đế đến ban cho. Điều này Chí-Tôn đã chỉ rõ: hằng ngày người Tín hữu tụng đọc 101

102 câu Cửu Thập Nhị tào chi mê muội. Mê muội chính là đây, là không tầm hiểu cho thấu chơn lý chánh truyền. Cái hại ấy như thế nào? 8- Sự Tai hại của Cơ Bút khi lạm dụng: 1/- Trước nhứt là phân phe chia phái, bất đồng chánh kiến. Cùng là thờ Trời mà kẻ thì theo Tòa-Thánh, người thì Hậu-giang, kẻ lại Minh Chơn-lý. Thật ra các bậc tiền bối thì chúng ta không bàn, nhưng là Đạo-hữu chúng ta hãy nhận định kỹ: Đạo thì mênh -mông và không hình sắc thì không có gì gọi là Chỉnh Đạo Duy nên chỉnh ở con người mà thôi! 2/- Kết quả tu có công mà thành thì bất thành. Nếu thực sự cần nhiều phe phái như vậy thì tốt hơn Đức Chí Tôn giữ nguyên Tam giáo Ngũ chi như từ trước đến giờ có phải khỏi mất công Thầy dìu dẫn hay không? Cũng là tiện bề cho Thầy khỏi phải giáng phàm lập Đạo. 3/- Nhưng Chí-Tôn không phải là không có cách trừ cái nạn chia phe phân phái, nhưng nếu nhân sanh biết tìm nẻo chánh mà học Đạo, tìm Đạo chánh mà tu, Tìm lý đạo siêu mầu mà học hỏi để không uổng một kiếp sanh gặp Đạo Thầy mà đường tu bị nghẽn lối! Điều ấy nghĩ thật vô phước hơn là người chưa biết Đạo! 9-Tánh cách đa dụng của Huyền diệu Cơ Bút: 1/-Đức Chí-Tôn chẳng giáng bằng xác thân mà lại dụng tánh đức lương sanh lập quyền Hội-Thánh thay hình thể hữu vi cho Đức Chí-Tôn, thay thế và lập Vạn linh đối phó cùng quyền Chí linh, ấy là cơ mầu nhiệm cứu vớt quần sanh giải thoát khỏi chốn sông mê bể khổ. 2/- Kỳ Hạ nguơn này dầu chúng sanh có tàn bạo hung ác thế nào cũng không làm hại xác thân của Đức 102

103 Chí-Tôn như các vì Giáo chủ buổi trước vậy. 3/- Bởi quyền Vạn linh có đủ nghị lực tinh thần lập khuôn viên Luật pháp xây chuyển cơ Đạo và cơ Đời cho thuận theo lẽ tuần hoàn của tạo hoá. Đức Chí-Tôn khai Đạo kỳ ba này giáng bằng Huyền diệu Cơ Bút là do nơi Thiên thơ tiền định chuyển Đạo vô vi hiệp Tam giáo Ngũ chi làm một (ĐHP: 1-7 Mậu-Dần 1938) 10- Quyền phép Càn khôn một túi thâu : 1/- Ngày nay Đức Chí -Tôn đã đến, đem nền Tôn giáo của Ngài để tại mặt thế này đặng chỉnh đốn đạo đức tinh thần từ thượng cổ đến giờ bằng Huyền diệu Cơ bút. 2/- Ngài đến không có quyền nào ngăn cản, Ngài dạy con cái của Ngài, Ngài có quyền đem Cơ bí-mật huyền vi tạo đoan giáo-hóa con cái của Ngài. 3/- Vì cớ cho nên lập Ðạo Cao Ðài, Chí Tôn tiên tri rằng: Ðạo Cao Ðài là cờ báo hiệu cho Vạn quốc hay trước rằng thời kỳ Nho Tông chuyển thế đã đến. Cả thế giới đều qui tụ về đây trong tinh thần một Tôn giáo Đại-Đồng: Vì cớ các Đấng giáng cơ bên Âu-châu nói: loài người sẽ đạt được đến điạ vị tối cao, tối trọng, mà họ muốn đạt, là lòai người sẽ có: Một nòi giống. Một quốc gia. Một Tôn-giáo. Ngày giờ nào loài người đạt được ba điều ấy thì THẾ-GIỚI ĐẠI-ĐỒNG kết liễu thành tướng. 11- Ba vị Tướng-Soái được Đức Chí-Tôn chọn lựa: Đức Thượng-Sanh xác nhận: Lúc ban sơ, Đức Chí-Tôn dùng huyền diệu Cơ bút thâu phục các Chức-sắc thượng-cấp Hiệp-Thiên Đài, dùng những vị này trong việc phò-loan để lập thành ĐẠI ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ. Trước thời-kỳ Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài được lịnh 103

104 dùng Đại -Ngọc-cơ trong việc truyền giáo thì chỉ là một giai-đoạn chơi giải trí của ba vị nói trên là các ông: Cao Quỳnh-Cư, Phạm -Công Tắc, Cao -Hoài Sang. Sau được đắc phong là: Thượng-Phẩm, Hộ Pháp, Thượng-Sanh. Vốn là nhà thi-sĩ và chất-chứa nơi tâm nỗi căm hờn vì nước nhà bị đô-hộ, tương-lai của tổ quốc, hoặc làm thi xướng họa chơi cho tiêu-khiển. Lúc sơ khởi thì cũng gặp nhiều khó-khăn, vì trong đêm đầu ba vị đốt nhang khấn vái, ngồi để tay trên bàn từ 9 giờ tối đến 2 giờ khuya mà không có kết quả gì hết, cố tâm nhẫn-nại, ba vị ngồi thêm đêm thứ nhì (nhằm ngày ) thì đúng 12 giờ khuya có một vong-linh nhập bàn, gõ chữ ráp thành bài thi Đường-luật 8 câu. Đó là bài thi Tự thuật của Cụ Cao-Quỳnh-Tuân là thân sinh của Ông Cao-Quỳnh Cư. Ba ông rất cảm-động và ngạc-nhiên. Cách mấy đêm sau, vong-linh Cô Đoàn Ngọc Quế nhập bàn cho bài thi Tự thán (cũng là bài Thác vì tình), thiệt là lời châu ngọc, điệu thi văn nghe qua ngậm-ngùi xúc-cảm. (Đoàn-Ngọc-Quế là giả-danh của Cô Vương Thị Lễ, tức là Tiên-cô Thất-Nương Diêu Trì-Cung). Thấy sự hiển-linh và huyền -diệu trong sự tiếp xúc với người cõi vô-hình, ba Ông tích-cực say-mê việc xây bàn, đêm nào cũng họp nhau ngồi cho tới ba hoặc bốn giờ sáng mới nghỉ. Từ đó về sau thì các vị Tiên, Thánh, thường nhập bàn, khi thì cho thi-phú hoặc giải nghĩa thi văn, khi thì xác-luận về vận-mệnh nước nhà, đánh trúng chỗ yếu-điểm của tâm-hồn ba ông, khiến cho ba ông ngây-ngất trong niềm vui sướng. Tiếp được bài thi nào hay thì khi dứt cuộc xây bàn, 104

105 ba ông nán lại: hai ông rao đờn, một ông ngâm thi, rồi cùng nhau mượn chung rượu đầy vơi trong lúc tàn canh để gợi hứng niềm hoài cảm. Cái đêm mà ba Ông ng ậm -ngùi và xúc động hơn hết là đêm Đức Tả-quân Lê-Văn-Duyệt nhập bàn cho thi Nhờ chơi xây bàn mà ba ông CƯ, TẮC, SANG, học hỏi đạo-lý, trau-giồi trí-thức cho tới ngày Đức AĂÂ xưng chính danh là Đức Chí -Tôn, dạy ba ông Vọng thiên -bàn ngoài sân, quì giữa trời mà cầu Đạo (nhằm ngày mùn g 1 tháng 11 Ất Sửu, dương-lịch ). Đó là ba vị Đệ tử mà Đức Chí-Tôn thâu nhập -môn trước nhứt trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ Toà-Thánh Tây-Ninh. Sau đó, Đức Chí -Tôn thâu-phục chư vị Thời-quân Hiệp-Thiên-Đài, vị Đầu-sư Thượng Trung-Nhựt và các vị Đại-Thiên-phong Cửu Trùng-Đài... Do lịnh Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng Đế, ba vị Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh, Hộ -Pháp, hiệp với chư vị: Bảo-Văn Pháp-Quân, Bảo -Pháp, Hiến -Pháp, Khai Pháp, Tiếp-Pháp, chia nhau đi khắp các tỉnh Nam-phần để phò loan thâu người cầu Đạo nhập-môn (ĐHP22-12 Đinh-Mùi 1958) 12- Ông Nguyễn Ngọc Tương đưa ra những dẫn chứng về sự hại của Cơ bút khi tâm của người đứng đầu Minh Chơn Lý là ông Ca còn hám vọng: Anh suy-nghĩ đến thì Anh thấy liền, Cơ ấy lợi dụng cái danh, cái chức của Đạo mà dụ người. Anh thấy rõ trong hàng Chức -sắc theo Anh có một phần đông chưa trừ được cái lòng háo danh. Có khi cũng còn vì tranh nhau cái phẩm cao thấp mà gây hờn chác giận, té ra Anh đã công kích hẳn cái sự trục lợi nơi người rồi Anh trở lại không tránh khỏi cái sự cầu danh nơi mình đó. Phải chi 105

106 hết thảy chư vị theo giúp Anh, Nam Nữ cũng vậy: - Đừng một ai cầu phong Chức-sắc, - Đừng một ai nghe Anh cầu phong cho ham mà lãnh, - Đừng một ai nghe nói Cơ Bút phong chức cho, lật đật vui chịu, thì Minh-Chơn Lý của Cơ bút Hậu -giang đặt ra để mà công kích Tây-Ninh đó còn có chỗ phải nghĩa.! Lời thơ của Ông Tương gián khuyên Ông Ca) 13- Cái lắt-léo của Cơ để cho biết mà phân biệt chơn giả Lời thơ ông Nguyễn Ngọc Tương khuyên Ông CA: Anh sẽ thấy rõ các sự Anh đã làm trong một năm rưỡi nay, đối với đạo-đức ra sao? Thế nào? Xa đạo-đức bao nhiêu dặm, chừng ấy Anh hết lầm nghe Cơ Bút Hậu giang nữa. Biết được sự thiệt rồi, mau mau tự nhiên Anh sẽ bãi hết các cuộc Anh đương gầy, giải chức Thái Đầu-sư mới của Anh. Vì: - Anh sẽ thấy rõ chữ Nhựt trong Đạo-hiệu Thái-Ca Thanh của Anh. Đó là một cái lắt-léo của Cơ để cho Anh biết mà phân biệt chơn giả đó. - Trong lòng Anh thi ệt hết giận rồi, tự nhiên Anh cũng sẽ thấy rõ-ràng là không có Thần hay Tiên Thánh nào xúi Anh thêm ngh ịch, dạy Anh chia lìa, đốc Anh truyền rao nhục mạ Tây-Ninh rồi lại gia phong cho Anh và các vị theo giúp Anh, hối đốc lập dựng Thánh Thất Cầu Vỹ mà làm Toà-Thánh để nhóm Hội-Thánh Tây Ninh, mượn nhà Anh mà làm Hiệp-Thiên-Đài, - Anh sẽ thấy rõ ràng là cơ cám dỗ nương cái hơi phiền-phức của Anh và chư vị kia mà phát hiện những sự ấy đặng giúp cho mấy Anh Em được thoả tình tư tưởng. Lời lẽ như thế nhưng hai ông Tương và Trang cũng ra đi. (Bức thơ số 1 của ông Thượng Tương Thanh) (Trích tập HUYỀN DIỆU CƠ BÚT cùng Soạn giả đã in) 106

107 CHƯƠNG IV A-TamTrấn Oai-nghiêm Khái niệm: Khi lập ra mối Đại-Đạo này lẽ ra phải có đủ Tam Giáo: Phật- Tiên- Thánh như hai lần Phổ-Độ trước. Nhưng để thích nghi với trình đ ộ của dân trí, phù hợp với nhân tâm cùng sự tiến hóa vượt bực của nhân loại trong thời kỳ nguyên-tử-chuyển này. Chính vì thời buổi thay đổi, Đức Chí-Tôn mới đến lập nền Đại-Đạo chuyển Tam giáo qui nguyên Phục nhứt cho hợp với Thiên-thơ, Đức Chí-Tôn mới chọn ba vị: Phật, Tiên, Thánh cầm quyền Tam-Trấn thay mặt cho Tam giáo giáng cơ lập thành đạo đức. Ngài lập Tam Trấn Oai-nghiêm thay cho Tam giáo lập Đạo vô-vi, không hình thể như trước, gọi là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. TAM TRẤN OAI NGHIÊM là ba vị trấn nhậm với một quyền hành Oai nghiêm. Ba vị này thay thế ba Đấng Giáo-chủ của Thích- Đạo- Nho để Phổ độ chúng sanh trong kỳ ba Đại Ân xá của Đức Chí-Tôn. Nay bước qua Thượng nguơn Tứ chuyển là nguơn phục cổ nên thuộc về Phật, do vậy mà đại diện của: - Phật Đạo là Đức Phật Quan-Âm chưởng quản về Phật giáo, quyền Nhị trấn Oai nghiêm. - Tiên Đạo là Đức Lý Đại Tiên Chưởng quản Tiên giáo, quyền Nhứt Trấn Oai nghiêm. -Thánh Đạo là Đức Quan Thánh Đế Quân, chưởng quản Thánh giáo, quyền Tam Trấn Oai nghiêm, cũng gọi là Nho-Tông chuyển thế. 107

108 Như vậy Tôn chỉ của Tam-kỳ Phổ-Độ là Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục nhứt. Thế nên không còn có các vị Giáo-chủ làm đầu Tôn-giáo như trước nữa, vì vậy Đức Chí Tôn lập Tam-Trấn Oai-Nghiêm thay quyền Phật vị. Đây cũng là cơ Đại-Ân-xá của Đức Chí-Tôn, Ngài đến xưng là AĂÂ tức là Tam ngôi nhứt thể Qui các Đạo hữu hình làm một chính là thời kỳ này. 1-Tại sao gọi là Tam Trấn Oai-nghiêm? Tam trấn tức là ba Trấn. Ba Trấn cũng có nghĩa là Tam giáo. Như Nhứt kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ các Đấng ấy giáng thân lập Đạo kêu là Tam giáo. Nay, Đức Chí-Tôn lấy huyền-diệu lập Đạo mà chấn hưng Tam giáo, lại phải có ba vị thay thế cho: Phật, Tiên, Thánh nên kêu là Tam Trấn có nghĩa là tr ấn nhậm. Đấy cũng là Đ ức Chí-Tôn chọn lựa công quả Chơn thần thiêng liêng của ba vị đương lúc còn ở thế, như: - Thái-Bạch Kim-Tinh công bình minh chánh. - Quan-Âm Bồ-Tát tiết hạnh trinh liệt. - Quan-Thánh Đế-Quân trung can nghĩa khí. Ngài lập Tam Trấn đặng giao trách nhiệm thế quyền cho đủ số Tam-giáo trong lúc Tam-Kỳ Phổ-Độ này. 2-Quyền-hành Tam Trấn: Tam trấn Oai-nghiêm thay quyền Phật vị tại thế này. Ấy vậy, các Đấng ấy đối phẩm cùng các Đấng trọn lành của Bát-Quái-Đài (PCT/19) Thầy lập đặng thay mặt cho Thầy nơi Cửu Trùng Đài cầm quyền chánh trị là Phật đó vậy. Cửu Trùng Đài phù hợp với Cửu trùng Thiên thì dầu cho cả Chơn linh trong Càn khôn cũng ph ải vào nơi đó đoạt cho đặng các phẩm vị giả trạng ấy mới mong mỏi tạo lập Thiên vị mình, chẳng vào cửa Đạo hiệp cùng Cửu-Trùng-Đài thì chẳng đi 108

109 đường nào mà vào Cửu Trùng Thiên cho đặng (Diễn văn ĐHP: 14-2 Mậu-Thìn) 3- Ba thời kỳ Chí-Tôn mở Đạo: Vậy thì từ trước đến giờ đã có ba lần mở Đạo: Phật-giáo là Nhiên-Đăng Cổ-Phật, *Nhứt kỳ Phổ-Độ Tiên-giáo là Thái-Thượng Đạo Tổ. Thánh-giáo là Văn-Tuyên Đế-quân - Phật-giáo: Thích-Ca Mâu-ni *Nhị kỳ Phổ-độ - Tiên-giáo: Thái-Thượng Lão-quân - Thánh-giáo: Khổng-Phu-Tử. Thay Phật-giáo:Quan-Âm như Lai. *Tam-kỳ Phổ-độ Thay Tiên-giáo:Thái-Bạch Kim-Tinh.. Thay Thánh-giáo Quan-Thánh Đế 4- Niệm danh Tam Trấn: Trong các nghi thức lễ bái, tế tự hay lòng sớ dâng về Thiêng liêng của Đạo Cao-Đài, các Môn-đệ của Đức Chí-Tôn sau khi nguyện lấy dấu: Phật- Pháp- Tăng và niệm danh Thầy, rồi kế đến niệm danh Tam Trấn: - Nam Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát - Nam Mô Quan Thế Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát - Nam Mô Lý Đại Tiên TRưởng kiêm Giáo-Tông Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. - Nam Mô Hiệp-Thiên Đại Đế Quan-Thánh Đế-Quân - Nam Mô chư Phật chư Tiên, Chư Thánh, chư Thần. Với năm câu nguyện như trên, nhưng ba câu giữa là niệm danh Tam Trấn đủ thấy quyền năng và trách nhiệm của Tam Trấn là trọng đại trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ này. Ấy là ba ngôi hiệp cùng Nhị khí Âm Dương đó vậy. 5- Đức Chí-Tôn lập Tam Trấn: Thánh ngôn Hiệp tuyển. Thầy dạy: Trong Tam-Kỳ Phổ-Ðộ và qui Tam-Giáo nầy: 109

110 - Phật thì có Quan-Âm. - Tiên thì có Lý-Thái-Bạch. - Thánh thì có Quan-Thánh Ðế-Quân khai Ðạo. Vậy con lập cho đủ ba Trấn chứng đàn; con phải lập bàn Ngũ -Lôi, như Thầy dạy lúc trước; phải có bùa Kim Quang-Tiên, còn con viết bùa Giá ng-ma-xử để bàn vọng Hộ-Pháp; rồi Cư chấp bút nhang cho Thầy triệu Ngũ Lôi đến; rồi nó xuống đứng gần bàn Hộ-Pháp với Tắc và Sang; còn mấy đứa phò-loan đứng vòng theo đó. Con biểu Tương, Kim, Thơ thề y như buổi trước; chư Môn-đệ thề như buổi Thiên-Phong. Con phải nhớ dặn chúng nó tịnh tâm mới đặng, vì có cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật chứng đàn. Các con nghe Tịch Ðạo, thi: THANH ÐẠO tam khai thất ức niên, Thọ như Ðịa huyển thạnh hoà Thiên. Vô-hư quy phục nhơn-sanh khí, Tạo vạn cổ đàng chiếu Phật duyên. THANH là tịch các con. Đây là Tịch Đạo cho Nam - phái. Ngay trong buổi Giáo -Tông này thì Tịch Đạo cho Nam là chữ THANH Nhưng vào thời Giáo -Tông kế nữa đây, thì Nam phái sẽ lấy chữ ĐẠO. Vậy thì theo lời Thầy dạy. Ví dụ Chơn-thần như: - Tương là Thượng-Tương-Thanh, - Kim là Thượng-Kim-Thanh, - Thơ là Thái-Thơ-Thanh. Phải dùng tên ấy mà thề. (Nếu như ngày sau đổi Tịch Đạo thì ví như: Tương là Thượng Tương Đạo Kim là Thượng-Kim-Đạo Thơ là Thái-Thơ-Đạo 110

111 6-Tam Trấn cũng là Tam Bửu: Tinh- Khí-Thần Nay Đức Chí-Tôn lập Tam Trấn thì: - Đức Phật Quan-Âm tượng cho Thần, là đức BI. - Đức Lý Đại-Tiên tượng cho Khí, là đức TRÍ. - Đức Quan-Thánh tượng cho Tinh, là đức DŨNG. Ba đức BI- TRÍ -DŨNG chính là Tam bửu mà người Môn đệ Cao-Đài học hỏi nơi T am Trấn rồi dâng lên cho Chí Tôn. Phải có đủ Bi- TRí- Dũng như vậy mới có thể tiến đến Đại Đồng. Nhân loại ngày nay chiến tranh tàn khốc vì chỉ có hai đức: Trí và Dũng mà thiếu đức Bi cho nên tiếng khóc không bao giờ nguôi. Vì sao?-vì Trí có thừa nên chế ra nguyên tử, đạn dược giết người hàng loạt; cũng như đức Dũng lại quá thừa nên dám ôm bom liều chết mà cướp đi bao nhiêu sinh mạng của những con người vô tội. Thế giới muốn Hòa bình, Hạnh phúc phải tăng cường đức BI nữa mới mong lập lại cán cân công bình cho hạnh phúc được. 7- Tại sao thờ Tam Trấn? - Tại thời kỳ khai Đại Đồng Tam giáo: Nho, Thích, Đạo Qui Nguyên, Đức Chí-Tôn làm ch ủ cầm quyền Chưởng pháp cho phù hợp trong buổi Hạ nguơn tuần hoàn chuyển thế. Ba vị Tam Trấn chấp chưởng cơ quan mầu nhiệm, trấn nhậm quyền hành, lập Luật pháp, Đạo Nghị Định cho hiệp với Thiên thơ. Vì thọ mạng lịnh Đức Chí Tôn nên trong toàn bổn Đạo phải để tâm thành kính và phụng thờ Tam Trấn. Thế nên Kỳ Phổ-Độ này Đức Chí-Tôn lập Tam Trấn Oai-Nghiêm thay quyền cho Tam-giáo. Hết Tam-Kỳ Phổ-Độ thì nguyên-căn qui nhứt trở lại mở Nhứt-Kỳ Phổ Độ nữa sẽ có vị Phật ra đời cầm quyền vi chủ định-luật Càn-khôn. Đó là cơ-quan quản-trị Càn khôn vũ-trụ vậy. 8- Dâng Tam Bửu cho Đức Chí Tôn:. Đức Hộ-Pháp nói: Quyền hành của các Ngài 111

112 trong Tam Trấn Oai Nghiêm, có liên quan với cái L ễ tối trọng tối yếu của chúng ta là phải dâng Tam Bửu cho Đức Chí Tôn. Bần Đạo đã có dịp giảng về Tam Bửu ấy. Tỷ như một người kia tìm Đạo, người ta thấy mình dâng ba món ấy mà mình gọi là ba báu, rồi người ta để mắt thấy Bông- Rượu - Trà người ta để dấu hỏi, ba món ấy báu lắm hay sao? Báu ấy là báu gì? Bần-Đạo đã giảng ba cái đó tượng trưng cho báu vật của ta là: - Thứ nhứt thân phàm xác thịt của chúng ta đây, thuộc về Tinh. BÔNG tượng trưng xác thịt. - Thứ nhì là trí não của ta, khôn ngoan hơn vạn vật gọi là Khí. RƯỢU tượng trưng cho trí não. - Thứ ba TRÀ tượng trưng cho linh hồn của chúng ta là cái hằng sống thiêng liêng của chúng ta, nó mới gọi là ba cái báu. Thật ra chúng ta suy nghĩ coi không có gì quí hơn xác thịt ta, trí óc ta và linh hồn ta hơn hết. Đức Chí Tôn đến biểu chúng ta dâng ba báu vật ấy cho Ngài, Ngài không đòi hỏi dâng cho Ngài cái gì khác. Giả tỷ như đời Thượng Cổ nhơn loại dâng cho Ngài tới sanh mạng con người, nên người ta phải giết người để làm tế vật. Sau đó thay thế mạng sống con người, nhơn loại lại dâng Tam sanh tức nhiên bò, trâu, heo và sau nữa bên Âu Châu theo Đạo Do Thái thì dâng cho Đức Chí Tôn một con chiên trắng, con chiên ấy phải trắng như tuyết mà thôi. 9-Giờ phút này Đức Chí Tôn đến biểu chúng ta dâng Tam Bửu: Bông- Rượu- Trà. Tưởng đâu là gì, thiên hạ nói báu gì đâu ba món ấy gọi là báu. Ai ngờ ba món báu ta dâng cho Ngài là báu vật, bởi vì Ngài là Chúa của ta, Ngài tạo sinh ta, Ngài là Cha 112

113 của ta về phần hồn và phần xác, Ngài đòi ba món quyền sở hữu của Ngài cho ta, lấy ba món báu của ta đó vậy. Bây giờ nếu như người tầm Đạo kia nói: Tôi không biết Ông đòi ba món ấy để làm gì? Và tôi không biết Ông dùng ba món báu ấy là xác thịt, trí não và linh hồn của mình để Ông làm gì? Người ta để dấu hỏi, tức nhiên ta phải trả lời: - Chúng ta đã thấy hiện tượng Đức Chí Tôn đến qui Tam Giáo: Nho- Thích- Đạo, lấy cả tinh thần đạo đức của ba nền Tôn Giáo ấy đặng làm môi giới chuẩn thằng. Rồi lập thêm làm gì Tam Trấn Oai Nghiêm? Có phải chăng lập Tam Trấn Oai Nghiêm là để bảo vệ ta và Tam Trấn Oai Nghiêm có bổn phận dâng lên cho Đức Chí Tôn? Sự thật như vậy. Nếu không phải vậy Đức Chí Tôn chẳng hề khi nào sắm Tam Trấn Oai Nghiêm ra làm gì cho chúng ta thờ phượng. Thánh thể Dâng Tam bửu: Ấy vậy, cái lời của Chí-Tôn để trên mặt thế gian này có hai phương pháp, siêu hình cũng trong đây, mà siêu vật cũng trong cửa Đạo này.đức Hộ Pháp hỏi: Tại sao? - Tại vì có một Đạo Giáo Ngài đến một thân Ngài mà thôi. Cả con cái của Ngài đã ch o đầu kiếp dưới thế gian này trước, rồi Ngài mới đến sau, Ngài chung hiệp lại làm Thánh Thể của Ngài, Ngài biểu nó dâng Tam Bửu là dâng xác thịt, trí não, dâng cả tâm hồn tức nhiên dâng cả sanh mạng của nó cho Ngài để làm chữ KHÍ, rồi Ngài trả chữ Khí của Càn Khôn Vũ Trụ, tức nhiên cái sống của nhơn loại đi đến mục đích chữ Tu, Ngài biểu cả toàn thể dâng xác thịt cho Ngài, Ngài trả lộn lại cái sống của Càn Khôn Vũ Trụ, trong mình nó sống dậy mà làm Thánh Thể của Ngài. Chúng ta tưởng tượng một ngày kia, toàn cả 113

114 nhơn sanh đứng làm phần tử Thánh Thể của Ngài phụng sự cho Vạn Linh, tức nhiên phụng sự cho nhơn loại, hiệp trí não tâm hồn dâng cho Ngài hết, còn trở lực nào ngăn cản nữa, nhơn loại sẽ đến một cái tối trọng và thiên hạ nhứt gia như Đức Chí Tôn đã muốn. 10-Tam Trấn Oai Nghiêm tượng trưng ba báu ấy: Đức Hộ-Pháp nói: 1/-Đức Quan Thánh tượng trưng TINH, tức nhiên tượng trưng xác thịt của chúng ta, vì cái sống trong xã hội nhơn quần của chúng ngày nay không có cái giá trị nào bằng giá trị Tinh, Khí, Thần. Quả vậy tôi tưởng chắc rằng: Nếu chúng ta có mảnh thân phàm này mà muốn cho nên, đứng cho vững vàng, đáng giá nơi thế này, kiếp sống ta không có một kiểu vở nào, không một nền Tôn Giáo nào có tôn chỉ đặc biệt về xã hội nhơn quần của chúng ta hơn là Nho Giáo. Ấy vậy hôm kỳ Vía của Ngài, Bần-Đạo đã có nói Quan-Thánh, Ngài tượng trưng Tinh, tức nhiên Ngài là đại diện của Nho Tông Chuyển thế đó vậy. 2/-Bây giờ nói Đức Lý, tức nhiên Anh cả Thiêng Liêng chúng ra giờ phút này, Đấng Thiêng Liêng đến cầm quyền Giáo-Tông trong Đại -Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ mà cũng là Nhứt Trấn Oai Nghiêm nữa, Ngài đại diện cho Tiên Giáo đó, mà Tiên Giáo chúng ta ã đthấy gì? Thấy kiểu vở Tiên Giáo trong tinh thần chữ Đạo. Ấy vậy Đức Lý tượng trưng cho cả trí não tinh thần chúng ta, bảo vệ Đạo tức nhiên bảo vệ sống còn của nhơn loại vạn linh. Thuộc về KHÍ. 3-Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Ngài tượng trưng cho linh hồn chúng ta, phải chăng chúng ta sanh ở thế gian này đương mang nặng thi hài xác thịt này, cả toàn 114

115 nhơn loại trên mặt địa cầu có mặt nơi đây, phải chăng do quả kiếp của họ, Bần Đạo không nói trọn hết thảy bị quả kiếp, cũng có những Đấng lãnh sứ mạng của Đức Chí Tôn đến giáo Đạo dìu dắt Vạn linh. Hại thay! Chín mươi hai ức nguyên nhân cũng vì sứ mạng tối yếu tối trọng ấy thay vì lãnh sứ mạng của mình trọn vẹn, lại quá ham sống, gây nên tội tình phải bị sa đoạ. Thành ra một ông Thầy đến giáo Đạo lại trở thành một học trò quá tệ hơn trò nữa.! Chín mươi hai ức nguyên nhân, giờ phút này có một điều thắc mắc hơn hết, chúng ta thấy trong Vạn linh, con người tối linh hơn vạn vật, mà ta ngó thấy có thứ người không phải người, họ đã mang xác thịt làm như người mình, họ tàn ác dối trá gian ngược, làm cho các Đấng Thiêng Liêng hay là người đạt Đạo ở thế gian này cũng vậy để dấu hỏi, đến phẩm người mà vậy, hỏi họ có đáng làm người không? Họ c ó đáng ngồi trong phẩm vị Đại-hồi này hay Tiểu-hồi vật loại? Nếu chúng ta để nhóm người đó ở trong Tiểu-hồi vật loại thì bất công, chính mình người ta đã đạt tới nhân phẩm, nếu để trong Đại-hồi, trong nhân phẩm thì không đáng vị, bởi vì cớ cho nên Đạo giáo để phẩm Maya, tức nhiên quỉ vị, phẩm riêng biệt là quỉ vị. Ấy vậy Đức Quan Âm Bồ Tát là một Đấng Thường Du Nam Hải, các cửa Phong đô nơi Cửu tuyền đài kia, là con đường của Ngài đi lên đi xuống không biết mấy lần, không biết thế kỷ nào dứt, để tận độ cho thiên hạ, Ngài tượng trưng cho một cơ thể thiêng liêng giải cả oan nghiệt tội tình, giải cả Nhơn quả cho chúng sanh đạt vị, tức nhiên đạt cơ giải thoát. Hỏi có người nào tượng trưng cho Đấng đó hơn Quan Thế Âm Bồ Tát không? Ba cái gương ba kiểu vở kia đặc biệt chúng ta không thể gì làm được. Đức Quan-Âm tượng THẦN. 115

116 Tóm lại: 1-Đức Phật-Quan-Âm tượng cho THẦN 2-Đức Lý Đại-Tiên tượng cho KHÍ. 3-Đức Quan Thánh Đế tượng cho TINH. B- TAM THÁNH KÝ HÒA-ƯỚC 1-TRUYỆN KÝ TƯỢNG TAM THÁNH *Cụ NGUYỄN BỈNH KHIÊM: Nhà tiên tri danh ếng ti lớn ở đời Mạt Lê, thi đậu Trạng nguyên, tước vị là Trình Quốc Công, tục gọi là Trạng-Trình, giáng cơ tự xưng là Thanh Sơn Đạo Sĩ, tức là Sư Phó của Bạch Vân Động. *Cụ VICTOR HUGO: Nhà thi gia trứ danh của Pháp quốc, giáng cơ tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức là 116

117 đệ tử của Cụ Nguyễn-Bĩnh-Khiêm ở Bạch-Vân-Động. *Cụ TÔN DẬT TIÊN: Đại-cách-mạng gia nước Trung Hoa, nhũ danh là Tôn-Văn, giáng cơ tự xưng là Trung Sơn Chơn Nhơn, tức là đệ tử Cụ Nguyễn-Bĩnh-Khiêm ở Bạch Vân Động. Ba vị Thánh-nhơn trên đây là Thiên-sứ đắc lịnh làm Hướng đạo cho nhơn loại để thực hành Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước. Trên đây là Bức hình Truyên ký Tượng Tam Thánh đặt tại Tịnh-Tâm-Đài thuộc phạm vi Hiệp-Thiên Đài của Đền Thánh Toà Thánh Tây Ninh. Bên cạnh bức Tượng Tam Thánh, có tấm bia để giải thích về bức tranh. Tượng Tam Thánh Bức tượng Tam Thánh nầy do vị Hiền Tài Lê Minh Tòng vâng lịnh Đức Hộ Pháp truyền họa, khuôn khổ: 2 m 80 X 1 m 90. Hình tượng bằng người thường. - Đức Thanh Sơn cầm bút lông thỏ. - Đức Nguyệt Tâm cầm bút lông ngỗng - Đức Tôn Sơn cầm nghiên mực. Hai Đấng đang viết trên bia đá những * 8 chữ Hán văn: Thiên thượng - Thiên hạ - Bác ái - Công bình 天上天下博愛公平 * 4 chữ Pháp-văn: DIEU et HUMANITÉ- AMOUR et JUSTICE 2- Về việc Trấn Thần Tam Thánh: Đức Hộ-Pháp nói: Trấn Thần ba vị Thánh rất khó, vì phải kêu Chơn linh họ đến nhập vào tượng ảnh, mà muốn Chơn-linh họ đến phải thấu đáo cả căn kiếp của họ mới đặng. Còn 9 cây nhang dùng để trấn Thần là 9 cái thang bắc lên Cửu 117

118 Trùng-Thiên cho các Chơn-linh nương theo đó. Ch ẳng biết họ ở từng Trời thứ mấy mình cứ đưa lên đủ, họ gặp họ tới ngay. Quan hệ là trước khi trấn Thần, phải xem lại coi có tắt cây nhang nào không. Thảng như họ ở từng thứ 7 mà cây nhang thứ 6 rủi tắt đi, thành ra bị cách khoảng, họ không thể tới được. Bây giờ chúng ta chỉ thông công với các Đấng trong Cửu Thiên Khai Hóa, rồi đây cũng có ngày Bần đạo kêu lên Đức Di-Lạc ở từng thứ 11 chưa biết chừng, khi ấy sẽ phải dùng đến 11 cây nhang, chớ không phải 9 cây nữa. Khi Đức Hộ-Pháp trấn Thần tượng ảnh Tam Thánh xong, cả nhân viên tùng sự lui theo cửa hông trở ra, vòng ra cửa trước, đi vào Hiệp -Thiên-Đài, thỉnh Thánh t ượng đặt lên vách tường, ngó mặt ra trước cửa Đền-Thánh. Đức Hộ Pháp giải thích về Ba vị Thánh: 1. Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn. 2. Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ. 3. Đức Tôn Trung Sơn. Là đại diện của Hội -Thánh Ngoại -Giáo, các Ngài là những Thiên mạng truyền giáo Ngoại quốc (Missionnaires étrangers) cho nên tượng ảnh để ở Hiệp Thiên-Đài, day mặt ra ngoài cho thiên hạ đều thấy mà hưởng ứng theo tiếng gọi Thiêng liêng của các Ngài.. Cả ba vị Thánh đều mặc cổ phục. Cái nghiên mực trên tay Đức Tôn T rung Sơn có hào quang chiếu diệu, tượng trưng sự rực rỡ của nền văn minh tối cổ Trung Hoa. Cái khuôn xi măng đúc trên vách Hi ệp -Thiên-Đài, từ ngày tạo tác Tổ đình, là để dành ngày nay đặt tượng ảnh Tam Thánh lên đó. Trước kia, Bần Đ ạo cũng không hiểu để làm gì, chỉ biết tạo theo lịnh của Đức Lý Giáo Tông. 118

119 Ngày nay thời cuộc biến thiên, vị Hiền Tài LÊ MINH TÒNG ở Hải đảo trở về đây, Đức Lý truyền lịnh cho vẽ tượng ảnh nầy, mới hiểu rằng Đức Lý chờ người mà Ngài cần dùng đến. Trước tượng ảnh không có bàn thờ chi hết vì Chơn linh đã nhập vào đó như người sống vậy. Kể từ ngày 10-7 Mậu-Tý (dl ) tượng ảnh Tam Thánh đã đặt lên vách tường Hiệp -Thiên-Đài là biểu hiệu cho Chủ nghĩa Đại Đồng của Đạo Cao Đài, mở đầu một giai đoạn tiếp dẫn chúng sanh Vạn quốc vào cửa Đại Đạo, mà cũng là ngày khởi đoan sự bành trướng ngoại giáo. Cuộc lễ bế mạc lúc 9 giờ cùng ngày. Tòa Thánh, ngày 10-7 Mậu-Tý (dl ) Luật Sự VÕ QUANG TÂM tường thuật. 3-Tam Thánh ký Hoà-ước: Ðức Chúa Jésus-Christ thương nhơn loại một cách nồng nàn thâm thúy. Bởi Ngài đã ngó thấy: - Nhứt Kỳ Phổ-Ðộ nhơn loại ký Hòa-ước với Chí Tôn mà đã bội ước, nên phạm Thiên-Ðiều, nhân-quả nhơn loại gớm ghiết. Do nhân-quả ấy mà tội tình nhơn loại lưu trữ đến ngày nay, Thánh-Giáo gọi tội Tổ tông. - Chính mình Ngài đến, đến với một xác thịt phàm phu, Ngài đến giơ tay để ký Đệ Nhị Hòa ước với Ðức Chí Tôn chịu tội cho nhơn loại, ký đệ nhị Hòa-ước đặng dìu dắt chúng sanh trở về cùng Ðấng Cha lành của họ tức nhiên là Ðức Chí -Tôn, là Ðại Từ-Phụ chúng ta ngày nay đó vậy. Ðấng ấy vô tận vô biên, thấy nạn của nhơn loại đã dẫy-đầy, Ngài chỉ xuống tại mặt thế nầy làm con tế vật đặng chuộc tội tình cho nhơn loại, mà lại còn đem quyền của Chí-Tôn để nơi tay của nhơn loại, bàn tay đó đã ký đệ nhị Hòa-ước cho nhơn loại, nó làm cho Ngài thế nào? 119

120 Do tay Ngài ký tờ hòa ước với Chí Tôn, nên hai tay của Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự giá. Hai chân của Ðấng ấy đã đi trước nhơn loại dìu đường hằng sống cho họ, rồi hai chân của Ðấng ấy cũng bị đóng đinh trên cây Thánh-Giá, còn trái tim yêu ái nhơn sanh vô hạn ấy bị một mũi kiếm vô tình đâm ngay cạnh hông của Ngài, lấy giọt máu cuối cùng đó đặng cứu nhơn loại, một tình ái vô biên ấy để lại cho loài người một tôn chỉ yêu ái. Tôn chỉ nhìn nhơn loại là anh em cốt nhục và khuyên nhủ nhơn loại coi nhau như đồng chủng. Ðức Chúa Jésus Christ đã lấy máu thịt đặng chuộc tội cho loài người. Giờ phút nầy là giờ hiển Thánh của Ngài dùng quyền hành yêu ái vô biên của Ðức Chí Tôn mà tha tội cho nhơn loại đó vậy. Thế gian người ta thường nói chúng ta chết là hết, chúng ta thử suy đoán: với một kẻ mà đã đem trọn kiếp sanh mình làm con ế t vật cứu thế như Ðức Chúa Jésus Christ đem thân ra chịu khổ hạnh truyền giáo thật ra chỉ vỏn vẹn có hai năm thôi, kế bị dân Do-Thái đóng đinh trên cây Thánh-Giá như kẻ thường tình kia. Tam Thánh đứng đầu Bạch Vân Động gồm: 1/. Thanh Sơn Đạo Sĩ: Ngài giáng trần ở Việt-Nam là Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm ( ). 2/. Nguyệt Tâm Chơn Nhơn: Ngài giáng trần tại nước Pháp là Đại văn hào Victor Hugo ( ). 3/. Trung Sơn Chơn nhơn: Ngài giáng trần ở Trung Hoa là nhà Cách mạng Tôn Dật Tiên,tức Tôn văn ( ) Ba vị Thánh kể trên.là Người của Bạch Vân Động 4- BẠCH VÂN ĐỘNG là gì? Đức Hộ Pháp giải thích về Bạch Vân Động : Xưa nay người ta vẫn coi Nguyệt cầu (Mặt Trăng) là nơi dừng chân của những vị Thánh, Thần, trước khi xuống 120

121 trần giới (Địa cầu) đầu thai. Các vị đó phải ở lại Nguyệt cầu ít lâu để liên lạc với Địa cầu, để quen lần với đời sống ở thế gian nầy. Từ cổ, Thần thoại đã mệnh danh Nguyệt cầu là Bạch Vân Động (Quảng Hàn Cung). Cơ giáng ở Âu Châu, mệnh danh là LOGE BLANCHE (Bạch Động). Giáo chủ của Bạch Vân Động là Bạch-Vân Hòa-Thượng, miêu duệ của Từ-Hàng Đạo -Nhơn, dòng dõi Đức Phật Quan Âm. Bạch Vân Hòa Thượng đã hai lần giáng trần ở Pháp và một lần ở Việt-Nam. - Một lần là Hồng Y Giáo Chủ Richelieu, - Một lần là Quận Công La Roche Foucault. - Ở VIỆT-NAM, Ngài giáng trần là Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức gọi là Trạng Trình". 5- Luật Bác-ái và pháp Công-bình: Trên cảnh Thiêng liêng hằng sống, các Đấng chơn hồn không Tôn giáo thường cải lý. Đức Hộ-Pháp nói: Nếu như các Ngài còn chối cải, dầu cho chỉ muôn đường ngàn nẻo mà các Ngài chối không tùng con đường của nhơn loại đi là con đường Tín-ngưỡng Trời và Người đặng dìu dắt nhơn-loại trong Luật Thương-yêu và Pháp Công-chánh, đến trước mặt Tòa Tam Giáo đặng cầu rỗi, tôi dám chắc chẳng hề khi nào chối tội đặng. Dầu có cượng lý bao nhiêu các Ngài cũng không chối sự chơn thật đó đặng. Nếu các Ngài muốn chối, tôi xin để bằng cớ hiển nhiên là Ðạo Cao Ðài đã xuất hiện. Ðức Chí Tôn đã đến, chính mình Ngài đến mở Ðạo 24 năm trường nay. Ngài đã ký kết với nhơn loại bản Hòa-ước thứ ba. Hai Hòa-ước kỳ trước nhơn loại đã phản bội, không giữ sở tín của mình vì cớ cho nên phải thất Ðạo, nhơn loại đi trong con đường diệt vong tương tranh, tương sát nhau. Vì lòng Bác-ái Từ -bi Chí-Tôn đến ký hòa -ước 121

122 thứ ba nữa để trong luật điều. Chúng ta thấy các Ðấng Thiêng-Liêng chỉ tấm Tượng Tam -Thánh biểu nhơn loại tín-ngưỡng; Thiên thượng, Thiên hạ (Dieu et Humanité) về luật có Bác-ái, Pháp có Công-bình, ngoài ra dầu luật pháp muôn ngàn hình tướng, Hội-Thánh Ðạo Cao-Ðài dìu dẫn tâm lý nhơn sanh, chỉ dẫn họ vô mặt luật tối cao là Luật Bác-ái và vô một nền chơn pháp tối trọng là Pháp Công-bình. Luật pháp của Ðạo Cao Ðài, ngoài ra luật Bác-ái và pháp Công-bình, tất cả luật điều khác, đều là phương pháp lấy giả tạo chơn mà thôi. 6-Đức Chí Tôn muốn dành để cho họ phẩm vị gì? Và phận sự của họ phải làm gì? Từ tạo Thiên lập Địa đến giờ chúng ta đã rõ được nguồn sử của nhơn loại tiềm tàng khảo cứu, chúng ta đã ngó thấy tinh thần của con người, dầu ai có muốn chối cái tinh thần ấy là chủ quyền cái sống của họ cũng không được. Tại sao? Tại họ đã thọ lãnh cái điểm linh về tinh thần của họ nơi Đấng Tối-linh kia. Đấng Tối -linh ấy ban cho họ, muốn cho nhơn-loại từ từ đi từ phẩm-vị con người đạt cho đến quyền năng, đạt cho tới cái địa vị làm Trời hữu hình tại thế này đó vậy. Ngày giờ nào không lấy Luật Thương -yêu thiên nhiên của Đức Chí-Tôn để trong tâm não của họ, thì họ chưa hề có can đảm làm phận sự tôi tớ của họ mà phụng sự nhơn loại một cách đắc lực, một cách vui vẻ, một cách hữu hạnh, hữu phước, một cách làm cho mình có th ể chung lại với nhau đặng hưởng hòa bình yêu ái của toàn nhơn loại nơi mặt địa cầu này. Muốn làm Chúa thời phải thiệt hiện Hòa-bình tâm lý trước đã và Hòa-bình hình chất sau. Nhưng chỉ có Đức Thương-yêu của Đức Chí-Tôn để nơi tâm khảm của chúng 122

123 ta làm khí cụ, làm môi giới dìu dắt và nâng đỡ họ, thì họ mới có thể hưởng cái hạnh phúc ấy mà thôi. 7- Thầy là Cha của sự thương-yêu: Đức Chí-Tôn có dạy: Thầy thường nói với các con rằng: Thầy là Cha của sự thương-yêu, do bởi thương yêu Thầy mới tạo thành thế-giới và sanh dưỡng các con. Vậy thì các con sản-xuất nơi sự thương-yêu. Đã sản-xuất nơi sự thương-yêu, các con tức là cơ thể của sự thương-yêu. Ấy vậy, sự thương-yêu là giềng bảo-sanh của Càn khôn thế-giới. Bởi thương-yêu mà vạn loại Hoà-bình, Càn khôn an-tịnh mới không thù-nghịch nhau, không thù nghịch nhau mới không tàn hại nhau. Không tàn hại nhau mới giữ bền cơ sanh-hóa. Còn kẻ thù-nghịch cơ sanh hóa là ai? Là Quỉ vương đó! Quỉ vương vốn diệt-hóa cũng như có sống của Thầy ắt phải có chết của Quỉ-vương. Quỉ-vương lấy cơ thể nào mà tàn hại các con? Ấy là sự ghét. Vì ghét nhau vạn loại mới nghịch lẫn nhau, nghịch lẫn nhau mới tàn hại lẫn nhau, mà tàn hại lẫn nhau là cơ diệt thế. Vậy Thầy cấm các con từ đây, nếu không đủ sức thương-yêu nhau cũng ch ẳng đặng ghét nhau. 8-Tín-ngưỡng thờ Người và thờ Trời: Do mặt Luật Bác-Ái và Công-Bình, những phương pháp của các vị Giáo-Chủ, dầu cho luật-pháp đã lập nền Tôn-Giáo bất điều hòa với nhau nhưng đó cũng mở đường chỉ nẻo cho nhơn-loại đi đến con đường của Đạo-Giáo, tức là tín-ngưỡng thờ Người và thờ Trời. Còn về luật-pháp của mình, Đức Phật Thích-Ca có nói nếu như Ngài không Bác-Ái không Công-Bình, thì Đạo -Giáo của Ngài không Bác-Ái Công-Bình đặng lập đạo từ trước đến giờ. Hỏi 123

124 Đấng ấy lập giáo của họ trên nền tảng nào? Có phải là Bác-Ái và Công-Bình chăng? Nếu không phải Bác -Ái và Công-Bình thì chưa có tìm một triết -lý cao siêu, để vào tâm-lý tinh-thần nhơn-loại mặt thế này. Chúng ta đã ngó thấy của ấy là Nhân đó vậy. Nhưng trái ngược lại, họ còn giành phần họ đánh ép mình, nếu chúng sanh không có tinh-thần với họ và nếu không có công-bình, tâm-lý, tinhthần và không lòng thương yêu đầy dẫy, chưa đồng tâm tánh trí não, thì các Ngài chưa hạ mình xuống đặng n âng đỡ tinh thần loài người dường ấy. Đức Lão-Tử thấy thiên-hạ không biết nhìn phẩm-vị của mình, không biết chơn-tướng của mình để nơi nào mà định vị cho mình. Trái ngược lại, Ngài sanh ra tại đất Trung-Hoa, buổi tâm-lý nhơn sanh điêu tàn, họ không biết phẩm-giá con người là gì? Đến đỗi tâm-lý loài người buổi ấy cũng xáo trộn, không còn chơn-phẩm của người. Họ không biết tự tôn họ, họ chưa biết phẩm-vị họ, thì họ chưa tin thiên-hạ, tức nhiên là thú-chất vật loại; nếu không phải có bác-ái từ -bi thức tỉnh nhơ n-loại buổi ấy, thì họ chưa biết phẩm-vị tối cao tối trọng của họ. Họ không còn làm con vật nữa! Nếu chẳng Bác -Ái Công-Bình chưa hề khi nào lập nên nền Tôn-Giáo như thế đặng. Đến ngày nay nước Tàu còn lưu lại, Ngài nói chẳng phải nói Á-Đông mà thôi đến Âu châu cũng vậy. Ngài nói cái triết -lý Đạo cao siêu chơn thật, người ta theo không biết bao nhiêu. Nói về chơn thật thì chúng ta bảo vệ tinhthần mà thôi. Các Ngài tìm thấy, các Ngài ngó lụng lại, các Ngài thấy tinh -thần mà thôi, dầu luật-pháp Tôn-Giáo cũng do Bác-Ái Công Bình mà lập thành, những phương - pháp họ tạo ra cho có hình-tướng cốt yếu dìu dắt tinh thần nhơn-loại, đi đến mức cao thượng là Bác-Ái Công-Bình. 124

125 Bác-Ái Công-Bình ấy là Đạo Nhơn -Luân đó vậy. Nho - Giáo, Đức Khổng-Phu-Tử lập tại Trung-Hoa vì Ngài thấy nhơn luân buổi nọ điên đảo điêu tàn nên mới lập ra Nho Giáo để bảo vệ Nhơn-Luân. Cũng vậy nữa, Lão-Tử, Ngài thấy nhơn-phẩm suy đồi không còn giá-trị tâm-lý, nhơn sanh buổi ấy mất hẳn giá-trị của nhơn-loại, nên Ngài hạ mình xuống đặng định Luật- Pháp, trụ cái Đạo Nhơn-Luân làm căn bản, hễ biết trọng mình, biết địa-vị mình, tức nhiên Thiên-Đạo, biết Thiên-Đạo tức nhiên biết Thiên-Điều, biết Thiên-Điều tức nhiên biết Đức Chí-Tôn; tạo Đạo mình phải giữ Đạo. Ngài không lẽ lấy danh tánh của Đức Chí-Tôn làm của tư được. Ngài nói đệ nhứt Đạo tối cao tối trọng, đặng chỉ mặt Luật Bác-Ái và Pháp Công-Chánh. Đã định cái sống trong Càn-Khôn Vũ-Trụ thì phải định cái sống cho loài người, định cái sống cho toàn cả chủng-tộc cho toàn mặt địa-cầu này. Luật-Pháp của Ngà i nó đã trái hẳn phong -hóa mặt địa-cầu, nói về tinh-thần đạo-đức của Tôn-Giáo nó là mô giới, cho nên ngày giờ này cả vạn-quốc đều để tâm tìm kiếm Luật Pháp ấy. Vì cớ cho nên Đạo Cao-Đài Đức Chí Tôn có tiên-tri rằng: Đạo Cao-Đài tức nhiên là một cây cờ báo hiệu cho Vạn-Quốc toàn-cầu hay trước là Thời kỳ Nho-Tông chuyển thế đã đến. Đạo Đức Chúa Jésus-Christ tức nhiên là Công Giáo, nếu Người không có Bác -Ái thì chưa đem xác thịt của mình làm con vật đặng tế Đức Chí-Tôn. Ngài cầu xin tha thứ tội tình cho nhơn-loại, Người ấy là Người đáng để lòng thương yêu, nếu đem ra làm kiểu mẫu cho nhơn -loại bắt chước thì Tôn-Giáo Gia-Tô đã đoạt được bao nhiêu tinh-thần thương yêu nơi mặt địa-cầu này vậy. 125

126 Nếu các Ngài còn chối cãi thì tôi nói rằng: "Dầu cho muôn đường ngàn nẻo thì các Ngài cũng phải chọn một, các Ngài chối không chịu dìu-dẫn tâm-lý loài người đi trong con đường tín -ngưỡng và dìu-dắt tinh-thần loài người trong Luật Yêu-Thương và Pháp Công-Chánh, các Ngài chỉ đem mấy bản hồ -sơ ra để trước mắt Tòa Tam - Giáo mà cầu rỗi lấy mình, tôi dám chắc các Ngài không phương thế gì chối tội đặng. Dầu cượng lý bao nhiêu cũng không chối đặng, các Ngài chối tội xin có bằng cớ dĩ nhiên rằng: Kỳ tới Bần-Đạo giảng cái quyền-năng là cái hiệu - nghiệm của Luật Bác-Ái và Công-Bình. C-Buộc phải thi-hành quyền Công-Chánh Từ tạo Thiên lập Địa đến giờ, Luật Thương-Yêu dầu vạn-vật cũng thế, người cũng thế, Luật Thương-Yêu muốn đủ cao trọng hơn nữa, cao sang hơn nữa, thì luật định luật nơi Ngọc-Hư-Cung và Tây-Phương Cực-Lạc, tức Cực-Lạc Thế-Giái. Nếu nói thiệt đủ tinh thần mặt Luật Thương-Yêu ấy, trừ lại cơ -quan Tạo -Đoan, cả vạn -vật trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này là Cung Diêu-Trì tức nhiên là Cung Đức Phật-Mẫu đó vậy. Nói thật nếu Đức Chí -Tôn Ngài không có những tình-ái, không phân ra đệ -nhị xác thân Ngài, là bạn, Ngài là cơ hữu -vi Tạo -Đoan Càn-Khôn Vũ -Trụ đương nhiên bây giờ, cũng như ta nếu chúng ta sợ cái cơ -quan Tạo - Đoan ấy, tức nhiên tạo đời của mình. Nếu bên Nam, bên Nữ, sợ vợ, sợ chồng thì đâu có tạo ra đời của mình, phải có tình ái nồng-nàn, nó mới nên chồng vợ. Không phải vợ chồng thương nhau mà thôi, nó còn xô đẩy cao xa hơn nữa. Nếu chúng ta biết lương-tâm, nòi giống, quốc -gia, chủng-tộc tức nhiên chúng ta tạo đời, không phải thương 126

127 chồng vợ mà thôi, Luật Thương-Yêu ấy nó còn cao xa hơn nữa! Bởi vậy cho nên Khổng Phu-Tử lập Giáo, Đạo Nho-Tông của Ngài chú trọng nhứt là Ngài lấy nhơn-luân làm căn bản, chặt -chịa mạnh-mẽ chắc-chắn lắm vì cớ cho nên Đạo Nho-Tông của Ngài để lại hơn hai ngàn năm vẫn còn nguyên-lực của nó, đương nhiên bây giờ nó còn đủ sức chuyển-thế đặng nó làm căn-bản mạnh-mẽ chắc-chắn. Căn-bản nhơn-luân chỉ sản-xuất nơi tình-ái mà ra, ấy Luật Thương-Yêu Đức Chí-Tôn buộc phải theo, theo mới được, ký Hòa-Ước với Ngài, phải thi-hành cái luật ấy. Tờ Hòa-Ước này, ký với Ngài phải cho có hiệu - nghiệm. Ngài buộc ký với Ngài, thi-hành theo luật, cho chúng ta khỏi phải bội ước với Ngài, đã hai kỳ ký Hòa - Ước với Ngài, đều hai kỳ bội ước. Nếu chúng ta xét đoán hai kỳ trước, Ngài có buộc luật ấy hay chăng? Sao không có, có chớ! Mà tại Ngài không nói với nhơn-loại, không nói tức không buộc, không buộc thì không làm, đã có định-luật mà không có buộc, không buộc thì không đặng. Kỳ này Đức Chí-Tôn không nói, mà Đức Chí -Tôn buộc, lại buộc phải thi-hành quyền Công-Chánh, chúng ta không cầ n tìm Trời -Đất chi cả, cơ-quan dưới thế, nếu không có mặt công -bình về tâm-lý, không có mực thước công-lý tại mặt thế này, thì Bần -Đạo dám chắc rằng: Cả cơ-quan hiển nhiên bây giờ không còn tồn tại được. Có một điều khuyết -điểm chúng ta ngó thấy, một trường hỗn -loạn, tương-tàn tương-sát với nhau, vì muốn thi hành mặt công -lý, tức nhiên lấy cân công -chánh làm mô giới cả cơ quan trị thế. Nhơn -loại loạn lạc tức nhiên mặt luật công-bình chúng ta đã ngó thấy, quả nhiên không thể chối cải cái gì được. Công-chánh là nơi miệng lưỡi loài 127

128 người, tức nhiên vạn-quốc đương dùng bây giờ là một phương-pháp để lường gạt tâm-lý nhơn-loại. Mặt cân công-bình thiên-hạ gọi là công-lý mà thế gian này chưa có công-lý, mạnh thì công-lý của họ khác, giàu thì công-lý của họ khác, sang thì công-lý của họ khác, vinh hiển thì công-lý của họ khác, nghèo thì công-lý của họ khác. Cái công-lý của nhơn-loại bây giờ là công-lý giả, vì bởi công -lý giả ấy, cho nên mới có trường hỗn loạn, tương-tàn tương-sát với nhau, phải họ đem công-lý về mặt tinh-thần quả quyết, đặng cân phân cùng các chủng-tộc nơi mặt địa-cầu này, nếu cân công-chánh ấy thiệt tướng của nó, thì thiên-hạ không có tương-tàn tương-sát với nhau, ngày nay máu sông xương núi, họ dùng lời, dùng tiền thực hiện công-chánh đặng lòe-loẹt nghĩa lý công chánh của họ, con người chưa có đoạt đặng công-chánh thật sự vì cớ con người chưa có mặt luật Công-Bình Bác-Ái dưới thế-gian này. Bởi cớ cho nên Đức Chí -Tôn buộc cả con cái của Ngài nhứt là Thánh-Thể của Ngài thi-hành cho được thiệt tướng. Bởi vậy có câu Thánh-Ngôn của Ngài nói: "Ngày giờ nào các con dòm thấy một lẽ bất công nào nơi mặt thếgian này thì ngày giờ ấy chưa thành Đạo". Hai khoản Hòa-Ước Anh Cả Thiêng -Liêng của chúng ta là Đức Lý Giáo-Tông đã nói: "Đức tin một khối tượng nên hình, Đã hiệp Vạn-Linh với Chí-Linh." Nghĩa là Đạo Cao-Đài đã thành, nhưng từ -từ đi lên cho đến cái địa cảnh vô đối của nó. Ta chán biết Chí -Tôn đến ký Hòa -Ước dưới thế gian này, chúng ta ngó thấy Hòa -Ước của nhơn-sanh nhứt 128

129 là các liệt-cường ký với nhau khoản này, khoản nọ, khoản kia đủ thứ, ký không biết mấy khoản. Với Đức Chí-Tôn chỉ có hai khoản mà thôi: 1/-Luật thương-yêu: Ngài định -luật cho chúng ta là thương-yêu, không phải thương yêu nhơn -loại mà thôi, mà phải thương-yêu cả toàn Vạn-Linh nữa. 2/-Quyền công-chánh: Ngài chỉ định là quyền công-chánh. Từ thử, ta chưa ngó thấy Hòa -Ước nào mà đơn sơ như thế, mà nó oai quyền làm sao! Không thể gì thực hiện đặng! Dầu cho tận-thế loài người cũng không khi nào thực-hiện ra đặng! Chúng ta đã hiểu và tin rằng thế nào nó cũng thành, nhưng thời gian ta không biết định đoạt, ta chỉ lương-tri, tức là lấy trí-tri để hiểu chơn-tướng của Đạo Cao-Đài, làm thế nào đem hạnh-phúc cho nhơn-loại hưởng được và tạo hòa-bình cho thiên-hạ cả Đại-Đồng Thế-Giới. Chí-Tôn muốn con cái của Ngài nên Thánh thì phải làm sao? Phải đem cả thảy vô đây, tắm rửa cho sạch-sẽ làm cho thiên-hạ muốn gần, vì đáng tôn-sùng yêu-ái mà gần. Hình-luật Tam-giáo là nước Cam-lồ để tắm rửa linh hồn vậy.chơn-truyền từ trước đến nay Đức Chí-Tôn để tại mặt thế trên các Đạo: Phật, Tiên, Thánh là phương để gội rửa linh-hồn mà thôi Thế nên phương tu phải có LUẬT và PHÁP. Nó là nhu-cầu tối yếu, tối trọng là vậy. Pháp-luật Đại-Đạo cần-yếu cho người tu cũng như chi ếc cầu bắc sang sông cho người người về đến nơi đến chốn mà mình mong đợi. 129

130 D- ĐẠO THÀNH DO 3 NGƯỜI 1-Ba vị Tướng soái của Đức Chí-Tôn: Hiệp-Thiên-Đài là nơi Thầy ngự, cầm quyền Thiêng Liêng mối Đạo, hễ Đạo còn thì Hiệp-Thiên-Đài còn. Hiệp-Thiên-Đài dướ i quyền Hộ -Pháp Chưởng quản, tả có Thượng-Sanh, Hữu có Thượng -Phẩm, phần của HỘ PHÁP Chưởng quản về Pháp (PCT) Dưới quyền HỘ-PHÁP có 4 vị: -Tiếp-Pháp - Khai Pháp - Hiến Pháp - Bảo Pháp Thượng-Phẩm thì quyền về Đạo, dưới quyền là: - Tiếp Đạo - Khai Đạo - Hiến Đạo - Bảo Đạo Dưới quyền Thượng-Sanh có 4 vị Thời quân chi Thế: - Tiếp Thế - Khai Thế - Hiến Thế - Bảo Thế Cả thảy 12 vị Thời-quân còn gọi là Thập Nhị Chơn quân a/-đức Chí-Tôn đến trao cho một nền VƯƠNG ĐẠO lấy LỄ làm đầu: Khởi điểm bấy giờ là một tối thứ Bảy, nhằm lối thượng tuần tháng 8 năm 1925, ba Ông CƯ, 130

131 TẮC, SANG, đem bàn ra sân đốt nhang khấn -vái và mời các vị Tiên nương. Hôm nay có Tiên-cô Đoàn-Ngọc-Quế giáng, đàm luận một hồi. Thời gian sau rồi ba Ông lại xin kết làm huynh-muội với Đấng Nữ-Tiên, Thất-Nương bằng lòng, bèn kỉnh: * Ông Cao-Quỳnh-Cư làm Trưởng-ca * Ông Phạm-Công-Tắc làm Nhị-ca * Ông Cao-Hoài-Sang làm Tam-ca Nếu mỗi vị được biểu-tượng một vạch như vầy sẽ có được một quẻ CÀN (Nam, đó là nét dương, biểu thị bằng vạch liền ) Còn Cô là Tứ muội (Nữ, tượng bằng một nét âm, vạch đứt nếu đặt xổ xuống xuyên qua quẻ Càn thành ra chữ VƯƠNG 王 Đây chính là tên thật của Thất-Nương VƯƠNG-THỊ LỄ 王氏禮 còn cái tên Đoàn Ng ọc-quế là một giả danh. Phải chăng Đấng Thượng-Đế đã sắp đặt cho Diêu-Trì-Cung đến để báo trước cho ba Ông biết rằng Thượng-đế sắp giao cho một mối Đạo nhà là một nền Vương Đạo, lấy LỄ làm đầu, đồng thời dẫn-dắt cho ba Ông lần vào con đường đạo-đức. b/-thử-thách về Đức-tin Trong suốt thời-gian đầu, Đấng Đại-Tiên AĂÂ đến với ba ông: CƯ, TẮC, SANG bằng tình thân-thiết, dạy thi văn hoặc giải-thích những điều gì khó-khăn mà các vị này cầu hỏi; tuy nhiên các vị phải cam -kết với Ngài trong các điều-kiện mà Ngài muốn. Muốn cho Bần-Đạo đến thường, xin chư vị nạp mấy lời yêu-cầu của Bần-Đạo sau đây: - Một là đừng kiếm biết Bần-Đạo là ai? - Hai là đừng hỏi đến Quốc-sự, - Ba là đừng hỏi đến việc Thiên-cơ. 131

132 Quí vị xây bàn đều hứa giữ ba điều ấy. Cho đến khoảng tháng 9 năm Ất-Sửu, Đấng AĂÂ giáng nói với ba ông như vầy: Tôi nói lộ Thiên -cơ, trên Ngọc -Hư bắt tội, xin Tam vị Đạo-hữu cầu trên Ngọc-Hư-Cung tha tội Tôi, nếu không lo cầu giùm thì tôi sẽ bị phạt ; Ba ông Cư, Tắc, Sang rất lo lắng. Ba Ông vọng bàn hương án cầu Diêu-Trì Cung. Ngài Cao-Quỳnh-Cư có làm một bài thi rồi đọc trước bàn hương-án như vầy: THI Vái-van xin quí Cửu-Thiên-Nương, Tâu với Ngọc-Hư tỏ ngọn nguồn. Vì nghĩa Ă.A. mang trọng tội. Nghĩ tình đồng Đạo để tình thương. (Mồng 3-9 Ất-sửu 1925) Duyên thơ giữa các vị ngày một khắn-khít hơn, nhờ đó mà Diêu-Trì-Cung đến với ba Ông để xướng hoạ thi văn làm nhịp cầu nối liền Tiên tục. Trong số ấy phải kể đến ba vị Tiên-nương có trách-nhiệm trực-tiếp là: Thất Nương, Lục Nương, Bát-Nương. Riêng phần ở trần-giới thì đây là cơ hội tốt để các bậc lương-sanh lần -lượt đến để cứu vớt quần-sanh, thế nên về sau trong Hội -Thánh có đầy -đủ Chức-sắc Hiệp Thiên Đài, Cửu-Trùng-Đài. Chính lúc xây bàn để cầu các Đấng vô -hình giáng điển linh, các bậc tiền-bối này được cơ-hội làm quen với các Đấng Thiêng-liêng cũng là duyên khởi mà Chí-Tôn đã sắp đặt hầu mở đường xuất Thánh, cũng là cơ hội Đức Chí-Tôn đến trao cho một mối Đạo nhà như ngày nay. c/-huyền-vi mầu nhiệm của Đạo trời: - Đức Chí-Tôn đến với giả danh là AĂÂ: 132

133 - Thất-Nương Diêu-Trì-Cung VƯƠNG-THỊ LỄ đến với giả danh Đoàn-Ngọc-Quế, hẳn phải có lý-do: 1/-Là thời-kỳ ẩn-danh của Đức Chí-Tôn,của Thiêng Liêng chuẩn-bị đến trao mối Đạo nhà cho Việt-Nam. 2/-Là thiêng-liêng đưa cái giả là cái bóng đến trước rồi cái hình là thật đến sau, tức nhiên T hể-pháp có trước mới bày ra Bí-pháp sau. 3/- Riêng Đức Chí-Tôn tạo sự thân-mật, gần-gũi để tình-cảm đến một cách tự-nhiên, không gượng ép. Như vậy, nhìn về các con số thì: * Đức Chí-Tôn là THẦN, có đủ 3 con số: AĂÂ ( một mà ba). * Diêu-Trì-Cung là KHÍ, có đủ 3 nhân-vật: Thất-Nương, Bát-Nương, Lục-Nương (ba mà một là cùng ở Diêu-Trì-Cung) *Về hữu-hình là TINH, các Đấng gọi là Tam vị Đạo-hữu là ba Ông: Cư, Tắc, Sang (ba mà một). Ba lần con số 3 (3x3) là 9 ấy là một con số huyền diệu, nhiệm-mầu, huyền-diệu hơn hết là số đó, nó là cơ chuyển-biến đến mực độ tận-thiện, tận-mỹ, toàn năng, toàn tri. Thế nên trong cửa Đạo có Cửu -Trùng-Đài hiệp với Cửu-Trùng-Thiên, người tu-hành phải nương vào đây đi theo con đường Cửu -Thiên khai-hóa để bước vào Cửu phẩm Thần Tiên mà đạt vị nhờ khai thông Cửu khiếu. Số 9 nó là (1+8) tức là cơ vận-hành trong trạng thái tĩnh được lý Thái-cực thúc-đẩy thêm cho nên năng-tri sáng-suốt. Nó cũng là 3+6, 3 và 6 đều là hai lý nhiệm mầu và đều ở trong trạng-thái động. Nó cũng có nghĩa là 3x3 hay ba bình phương là cấp bực Tam ngôi biến-hóa vận-hành suốt thông trời đất. Đến số 9 là đến chỗ tột cùng vận-động để hiệp về 133

134 cơ qui nhứt. Phép toán-học thử đến 9 rồi trở về 0 (không) là vậy.cùng -cực cái động tức trở về trạng-thái tịnh nguyên-thủy. Số 3 là con số khởi thuỷ, con số căn bản, để rồi luỹ thừa lên mới thành 6, 9,12, 24,36 2- CƠ KHỞI THUỶ 1/- Đạo thành hình do ba người: a/- Ba người đó là ai? Chính là ba vị Tướng soái của Thầy đã chọn lựa sẵn cho xuống trước, ngày nay Thầy đến lập nền chơn giáo chỉ qui-tựu lại mà thôi, nên tất cả đều có đầy đủ để giao cho sứ-mạng xây cơ chuyển thế, khai Đạo cứu đời. Đức Hộ-pháp có nói ằng: r Dùng lương sanh để cứu vớt quần-sanh. Những ngày đầu, Đấng AĂÂ gọi ba vị này là Tam vị Đạo-hữu, một từ thân-mật là các ông: -Cao-Quỳnh-Cư, sau đắc phong là THƯỢNG-PHẨM, tuổi Mậu-Tý (1888) -Cao-Hoài-Sang, sau đắc phong là THƯỢNG-SANH, tuổi Tân-sửu (1901) -Phạm-Công-Tắc, sau đắc phong là HỘ-PHÁP, tuổi Canh-Dần (1890) Thầy đã ân-cần nhắc-nhở: CƯ, TẮC, SANG, ba con đã lãnh mạng lịnh lớn lao vẹt đường tăm-tối trong buổi ban sơ. Thầy lại khiến ba đứa phải liên-hiệp nhau mới có thể xây đắp nền Đạo cho đến cùng. Đức Chí-Tôn cũng nói rõ về phần yếu -trọng của ba người nữa: CƯ, TẮC, SANG, con ơi! Lập Đạo thành đặng chăng tại nơi ba con. Con đã nghe quyền -hành của yêu quỉ Thầy cho lớn đến bực nào? Chẳng phải là cơ thử Thánh, Tiên, Phật mà thôi, lại còn là Công -bình thiêng 134

135 liêng của Tạo hóa. Nếu hai đầu cân chẳng song bằng thì tiếng cân chưa đúng lý. Tự nơi các con làm thế nào cho bên Thánh-Đức nặng hơn tà-mưu thì làm mới ra công quả. Các con chớ ngại, ngày nay Đạo đã khai tứ c là Tà khởi. Vậy các con phải làm hết lòng, hết sức mà gìn-giữ lấy mình, đã chẳng phải giữ mình các con mà thôi, lại còn giữ-gìn cả Môn đệ Thầy nữa. Nội nơi Nam-phương này, như có mặt cho Tà-thần yêu-quái sợ thì duy có ba con. Vậy ráng giữ -gìn cho thanh-khiết. Thầy nói thật cho các con hiểu trước rằng: Cả Môn-Đệ Thầy đã lựa chọn, lọc-lừa, còn lại lối nửa phần Thầy cho yêu quái lấy danh Thầy mà cám-dỗ, đi bao nhiêu thì mất bấy nhiêu. Các con chớ buồn vì Thiên -cơ phải vậy, thi nhiều đậu ít là lẽ hằng. Các con liệu phương thế mà nâng đỡ đức-tin của Môn -đệ Thầy lên cao hằng ngày, ấy là công -quả đầu hết. (ĐCT Giáp-Dần 1926) Đức Chí-Tôn cho biết Đạo thành do ba người. Sự thành hình như vậy phải trải qua ba giai đoạn: 2/- Giai đoạn I là thời-kỳ khởi thủy do hai cơ quan: a/-tam Đầu chế Hiệp -Thiên-Đài: gồm có ba vị tính theo tuổi tác, nghĩa là thiên khai ư TÝ, Địa tịch ư SƯU, Nhân sanh ư DẦN, thì: - Thượng-Phẩm Cao Quỳnh-Cư, tuổi Mậu-Tý (1888) - Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang, tuổi Tân-Sửu (1901) - Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc, tuổi Canh-Dần (1890) 135

136 Nếu xếp thành quẻ thì số 1 và 3 là Dương, 2 là Âm, thì Hiệp-Thiên-Đài là quẻ Ly: Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Hộ -Pháp chưởng quản tả có Thượng-Sanh, hữu có Thượng-Phẩm. Thầy lại chọn Thập nhị Thời Quân, chia ra làm ba: - Phần của Hộ-Pháp chưởng quản là Chi Pháp: Lo bảo vệ Luật Đời và Luật Đạo, chẳng ai qua luật mà Hiệp Thiên-Đài chẳng biết. Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành đạo. Thầy cho các con biết trước rằng, hễ trọng quyền thì ắt trọng phạt. - Thượng-Phẩm thì quyền về phần Đạo: Lo về phần Đạo nơi Tịnh Thất, mấy Thánh Thất đều xem sóc chư môn đệ Thầy, bênh-vực chẳng cho ai phạm luật đến khổ khắc cho đặng. - Thượng-Sanh thì chưởng quản Chi Thế, lo về phần Đời. Ba vị này là người được Đức Chí-Tôn lựa chọn: Ý-nghĩa về các con số: Mới bắt đầu số 1, phát sinh ở hướng Bắc, tức là cái vi-dương (vi dương đây là ĐẠO). Bắt đầu có ở hướng Bắc cho nên trên quả địa-cầu lúc đó có đại-lục mà chỉ ở hướng Bắc hưởng thụ cái khí vi-dương đầu tiên của sao Bắc-đẩu. Thiên nhứt sanh thủy. Rồi dần dần phát-triển qua hướng Nam, tức là số 1 tiến dần đến số 2; số 2 ở về hướng Nam thể trên, tức là đaị-lục của Bắc Á-châu (chi THẾ xuất-hiện). Bấy giờ sang hướng Đông đến số 3. Số 3 tức là số của Thiếu-Dương (đây là lúc thịnh hành của cơ Pháp) cho nên trong thời thái-cổ theo sự phát triển về thời gian, vì lẽ ấy mà thời đó ở Á Đông văn-minh trước Âu -Tây, mà 136

137 chính cái văn minh tinh-thần vô-cùng sáng-suốt thấu hiểu được trời đất. Do lẽ ấy mới có câu: Thiên khai ư Tý. Địa tịch ư Sửu. Nhơn sanh ư Dần. Tức là Tý-hội khai thiên, qua Sửu-hội sanh địa-cầu và Dần -hội thì sanh nhơn-loại. Thiên, Địa, Nhơn gọi là Tam tài hay là Thiên-hoàng, Địa-hoàng, Nhân-hoàng 3- Nhân sanh ư Dần : Đạo Cao-Đài lấy giờ 01, ngày 01, tháng 01, năm Bính Dần (dl: ) làm Kỷ nguyên Đạo lịch của Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Như thế năm Bính Dần là năm Đạo lịch thứ nhứt (Như vậy: giờ 1 là Giáp Tý, Ngày 1 cũng là Giáp Tý. Tháng 1 là Bính Dần, năm Bính Dần. Trở lại một là 3, mà 3 cũng là 1) Vì năm Dần là năm thứ 3 (Tý, Sửu, Dần) là một sự tròn đầy. Nếu số 1 là số Trời Thái Dương thì số 3 là số của người Thiếu Dương Thiên nhơn tương hợp nên nói một mà ba, mà ba cũng là một. Số 3 tượng là CÀN Tam Dương khai thái là hình tam giác đều, tượng Tam giáo. Ngày giờ này Đức Chí Tôn khởi lập Đại Đạo, Tôn chỉ Qui Tam giáo thì Thầy đứng chủ trung Qui Nguyên Hiệp Nhứt mà thôi. Như vậy nhìn vào 2 thành số trên thì: ba con số 1 hiệp lại là 3 (Tam Dương). Năm Dần là 3 (Tam Âm). Càn Khôn định vị, thật tuyệt vời! Trước mặt ba vị: Cao Quỳnh Cư- Phạm Công Tắc Cao Hoài Sang. Đức Thượng Đế hỏi rằng: Thầy muốn dùng các con mà khai Đạo, các con có dám lãnh trọng-nhậm ấy chăng?. Ba ông bạch rằng: Trong các con từ bé chí trưởng, chẳng thông Đạo lý chi, duy nhờ Đức Chí-Tôn dạy bảo bấy lâu, thì sự biết chưa đặng trong muôn một, e cho chẳng xứng đáng mà lãnh trách-nhậm lớn lao ấy. 137

138 Đức Ngài nói rằng: Chi chi có Thầy gần bên các con, miễn là các con khứng chịu, gắng để trọn tấc lòng, thì chẳng hề chi.. Khấn vái xong rồi thì vào nhà phò loan, Đức Chí Tôn giáng dạy như vầy: - Thầy cho các con hiểu rằng: Buổi tạo Thiên lập Địa, Thầy sanh loài người ra nhằm ngày Dần Nhân sanh ư Dần. Vậy từ đây, Thầy dùng các con, làm tay chơn, mà gầy dựng nền Chánh-giáo. Lại cũng kể ngày nay là ngày phát khởi nguồn Đại -Đạo, lấy hiệu Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, còn Thầy thì Tá-danh Cao-Đài Tiên-Ông Đại Bồ-Tát Ma Ha-Tát. Đấng ấy đã thật sự đến dạy Đạo tại phương Nam. 4- Về mặt Tôn giáo qua lý Dịch: Bởi vì, trên tinh-thần một Tôn-giáo muốn sống bền vững và phát-triển tốt đẹp, thì Tôn-giáo ấy phải có đủ Tam-bửu: TINH, KHÍ, THẦN. - Về Thần: thì khi lập Đạo Cao -Đài, Thần đã sẵn có do Đức Chí-Tôn làm chủ linh-hồn của Đạo-giáo. - Về Khí: thì buổi phôi-thai chưa mấy tựu thành, nên Đức Chí-Tôn mượn hình thể của Diêu Trì-Cung làm Khí. - Về Tinh: thì hình thể của Đạo Cao-Đài tức là ba Chi: Pháp- Đạo- Thế, tượng-trưng là: Thượng -Phẩm, Hộ Pháp, Thượng-Sanh (là ba ông Cư, Tắc, Sang) Ấy vậy: Chúng ta xét thấy ĐẠO CAO -ĐÀI còn hạnh -phúc nhiều hơn các Tôn-giáo khác, nếu nhận quả -quyết thì được có ba người, mà ba người tức nhiên nhiều hơn thiên hạ rồi. Cái thiệt tướng của nền Chơn-giáo Đức Chí Tôn đã hiện tượng do quyền-năng vô-đối của Ngài mà đoạt được, mà trong đó các vị thừa hành mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó. 138

139 b/-tam đầu chế Cửu Trùng Đài: Chức sắc Nam-phái được một đặc-ân là ba vị Đầu Sư có Thánh-danh mang chữ: NHỰT - NGUYỆT- TINH, đó là Tam bửu của trời, như: - Thái Đầu-Sư Thái-Minh-TINH (Thiện-Minh) - Thượng Đầu-Sư Thượng-Trung-NHỰT (Lê-văn-Trung) - Ngọc Đầu-Sư Ngọc-Lịch NGUYỆT (Lê-văn-Lịch) Nhựt- Nguyệt- Tinh chính là Tam-bửu của Trời mà nay Đứ c Chí-Tôn đã đem đặt vào Hội -Thánh Cửu Trùng Đài của nền Đại -Đạo. Hội-Thánh Đại-Đạo chia ra làm hai Đài hữu-hình: - Hiệp-Thiên-Đài là cơ-quan bảo tồn luật-pháp Đạo. - Cửu-Trùng-Đài lo về cơ-quan giáo-hóa nhơn-sanh. Cơ phong Thánh Cửu-trùng-Đài Nam-phái được thành lập trước, vào ngày 14 rạng ngày rằm tháng 10 năm Bính-Dần (dl ). Với ba vị Đầu-sư này được thiên -phong vào những ngày: -Ông Lê-văn-Trung, Thánh-danh Thượng-Trung-Nhựt, đắc phong ngày Bính-Dần. -Ông Lê-văn-Lịch, Thánh-danh Ngọc-Lịch-Nguyệt, đắc phong ngày Bính-Dần. -Ông Thiện -Minh, Thánh-danh Thái-Minh-Tinh, đắc phong ngày Bính-Dần. Nhưng Đạo là lý, mà lý của vũ -trụ vốn vô-cùng. Nếu luận về Tam-bửu của Trời thì: - TINH là sao (tinh-tú) có rất nhiều ( thuộc âm ) - NHỰT là mặt trời thì có một ( nhựt thuộc dương) - NGUYỆT là mặt trăng, có một (nguyệt thuộc âm) Như vậy Cửu-Trùng-Đài là quẻ Khảm (Nếu kể tam thiên thế-giới và thất thập nhị điạ là tinh-tú thì có vì sao) Do vậy, mà phái Thái phải có đến hai vị, là: 139

140 1-Thái Minh-Tinh. 2-Thái Nương-Tinh Lý do đặt Thứ tự ba phái của Cửu-Trùng-Đài: Bởi theo thứ-tự BA PHÁI là Thái, Thượng, Ngọc: - Phái Thái thuộc Phật, - Phái Thượng thuộc Tiên. - Phái Ngọc thuộc Thánh. Trong Tam-Kỳ Phổ-Độ này thì: - phái Thái có hai vị, mang chữ TINH, số 2 thuộc âm - phái Thượng có 1vị, mang chữ NHỰT, số 1 thuộc dương - phái Ngọc có một vị, mang chữ NGUYỆT, thuộc âm Vậy: Cửu-Trùng-Đài thuộc quẻ Khảm khảm vi thủy Còn lại BÁT-QUÁI-ĐÀI là nơi thờ Đức Chí-Tôn và các đẳng Thần, Thánh, Tiên, Phật, thuần dương, thuộc quẻ CÀN (Càn vi thiên, Càn là trời vậy). Kết-luận về ba Đài: - Bát-Quái Đài, là quẻ Càn (càn vi Thiên). - Hiệp Thiên-Đài, là quẻ Ly (ly vi Hỏa). - Cửu Trùng-Đài, là quẻ Khảm (khảm vi thủy). Thể Đạo của Chí-Tôn cũng phải nương theo chữ HÒA mới toan thành lập. Chí-Tôn định lập thành Hội Thánh đặng thay thế hình ảnh của Người, thì cũng tùng theo phép tạo-hóa cá-nhân mà gầy nên ảnh-tượng: - Cửu-Trùng-Đài là thi-hài, ấy là Tinh. - Hiệp-Thiên-Đài là chơn-thần, ấy là Khí. - Bát-Quái-Đài là linh-hồn, ấy là Thần. Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong thành Đ ạo đặng 140

141 5/-Thời kỳ thứ hai là kiến thiết: Qua thời-kỳ kiến tạo để lập công, dành cho người biết dâng công đổi vị, thì bên Cửu-Trùng-Đài chính Đức Quyền Giáo-Tông về mặt hữu-hình đã góp vào một công quả to lớn để xây dựng Đức-tin, làm nền tảng Đại -Đạo ngày nay cùng với hai vị: Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp bên Hiệp Thiên-Đài.Với lời minh-chứng của Đức Hộ Pháp Bần-Đạo xin nhắc lại, xin làm chứng cho cả thảy con cái Đức Chí-Tôn: Nam Nữ cũng vậy. Nếu toàn thể con cái của Ngài một đôi triệu chơn-linh mà có đức -tin vững chắc như đức-tin của: - Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh-Cư. - Đức Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt. - Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc. Với lý do: Cả toàn con cái Đức Chí-Tôn buổi nọ còn lại có ba người. Thật ra hồi ban sơ chỉ có ba người. Ba người ấy thiên-hạ kêu là ba người lỳ. Bần Đạo nói không có gì, Đức Chí Tôn đã đến một cách tình cờ, một cách không ai tưởng tượ ng được, khi Ngài đến thì chỉ có Đức Cao Thượng-Phẩm và Bần-Đạo mà thôi, về sau Bần Đạo và Đức Cao Thượng -Phẩm mới đến nhà Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt đặng Chí-Tôn chuyện vãn cùng người. Và Ngài nói: Chúng tôi nhứt tâm, nhứt trí quyết làm cho thành, cho vừa lòng Đức Chí-Tôn. Bởi vì không biết duyên cớ nào chúng tôi hiểu rằng: chúng tôi phải báo hiếu cho Đức Chí-Tôn và ự t nhiên quyền -năng thiêng liêng giúp chúng tôi biết ĐẠO CAO -ĐÀI này tương-lai sẽ cứu quốc, cứu chủng-tộc và giống-nòi. Chúng tôi hiểu rõ-rệt như thế, nên ba Anh em chúng 141

142 tôi nhứt định hy -sinh kiếp sống mình, hy sinh cả hạnh phúc để tạo cho nên tướng, nhứt quyết như thế nào, bất kể sống chết. Cả ba chúng tôi, nhứt định phải làm cho Đạo Cao-Đài thành, thành đặng cứu khổ, cứu chủng-tộc chúng tôi. Sự quyết chí về tương-lai như thế, nên phải bỏ Chùa Gò-kén, tức là chùa Từ-Lâm-Tự, để về đây, về làng Long Thành Tây-Ninh để lập nên Toà-Thánh bây giờ đây. Bần-Đạo thú thật, buổi nọ: Chỉ có ba Anh em, ôm sứ mạng thiêng-liêng âý nơi mình. Lãnh sứ -mạng khó khăn thì tưởng đâu Đạo Cao -Đài thì cũng như Đạo Phật hay Minh-sư, Minh đường. Đáo -để, cạo đầu vô chùa làm Thầy chùa tu là cùng, tưởng dễ-dàng lắm, kiếp sanh nơi thế, thời bấy giờ đã khổ-não tâm-hồn và xác thịt, lệ thuộc như thế. Ổng biểu tu, nào dè mở Đạo trong thời-gian ngắn-ngủi, không bao lâu thấy cả con cái của Ngài đến cùng Ngài cả muôn cả triệu, chừng đó mới biết sợ -sệt. Chính mình buổi nọ, Đức Quyền Giáo -Tông ra hậu -điện, Người hỏi Bần-Đạo: làm cái gì vậy? Xem thế, thì người tu lập công bằng con đường Cửu Phẩm Thần Tiên theo gương của Đức Quyền Giáo-Tông cũng đoạt được ba hào dương của quẻ Càn, tức là đắc Đạo vậy (đó là chiết Khảm điền Ly phản vị Càn là thế ). Bởi giai-đoạn kiến-thiết có ba vị: -Thượng-Phẩm, biểu tượng hào dương quẻ Ly -Thượng-Trung-Nhựt, hàodương quẻ Khảm Càn -Hộ-Pháp biểu tượng hào dương quẻ Ly Như thế, Đức Chí-Tôn đã mở con đường phụng -sự vạn-linh để hiệp về nhứt linh vậy. 6-Thời-kỳ định-vị: Nếu lập công bằng con đường Phước -Thiện (nằm trong Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài) thì hãy xem gương của Ngài Khai-Pháp Trần-Duy-Nghĩa. 142

143 Đức Hộ-Pháp giải-thích rằng: Từ thử tới giờ nếu nói về kẻ đảm-nhiệm gánh vác Hiệp-Thiên-Đài thì Bần -Đạo quả-quyết cho Ba người thôi. Ban sơ có Cao Thượng-Phẩm, sau có KHAI PHÁP và Bần-Đạo thôi. Ngài Khai-Pháp Chơn-Quân tuổi Tý (1888) là người có tuổi đứng đầu trong Thập Nhị Địa Chi, mà cũng đứng đầu của Thập-Nhị Thời-Quân, tức là con số 1, cũng biểu tượng bằng hào Dương, nếu đặt vào giữa quẻ Ly (Hiệp Thiên-Đài) sẽ biến thành quẻ Càn: -Thượng-Phẩm, hào dương quẻ Ly -Khai-Pháp, số 1tượng hào dương Quẻ Càn -Hộ-Pháp, hào dương quẻ Ly Cơ định vị cũng đúng vào quẻ Càn. Ba vị trên là Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài đó vậy. Ngài Khai-Pháp là người đã thừa lịnh Đức Hộ-Pháp đến nhà tịnh nơi Trí-Giác-Cung Địa-linh-động là nhà tịnh của Hiệp-Thiên-Đài KHAI PHÁP cho cơ Đạo nhằm lúc khởi công kiến-tạo vào năm Mậu-Tý (1948). Đức Hộ-Pháp kết luận: Chính mình Hộ -pháp là người cầm đầu trong Hiệp-Thiên-Đài, trách-nhiệm đó nặng-nề làm sao đâu! Khi ấy chỉ có ba người HiệpThiênĐài lãnh phận-sự Thầy Chí-Tôn nói: Thầy muốn nơi nào có dấu chơn của ba con đến thì nơi ấy hết khổ. Bởi: Cái khổ ách của nhơn-loại là cùng khắp thế gian, nên Thánh-ý Thầy muốn giao cơ cứu khổ cho con phải làm thế nào nên ngọn cờ cứu-khổ, để giải khổ cho nhơn-sanh cùng khắp mặt địa-cầu này (17-4-Ất-mùi 1955) Nhìn chung thì ập l công bằng con đường Cửu Thiên khai-hóa như Đức Quyền Giáo-Tông hay bằng con 143

144 đường Thập-nhị đẳng cấp thiêng-liêng, là cơ-quan cứu khổ của Phước-thiện cũng được hiệp nhứt với Trời, tức là hội hiệp cùng Đức Chí-Tôn bởi hình ảnh các Ngài là đã tượng-trưng cho ự s HIỆP TAM -BỬU tức nhiên hiệp TINH KHÍ THẦN đó vậy! Tóm lại: Đạo Cao-Đài thành hình do ba người, nhưng phải trải qua ba giai-đoạn: Như vậy: 1-Cơ khởi thủy:thượng-phẩm, Thượng-Sanh, Hộ-Pháp (giữa) 2-Cơ kiến-thiết:thượng-phẩm, Giáo-Tông, Hộ-Pháp (trái) 3- Cơ định-vị:thượng-phẩm, Khai-Pháp, Hộ-Pháp (phải) 7- Tại sao Đạo Cao-Đài thành hình chỉ có ba người? Bởi cái thiệt tướng của nền chơn-giáo Đức Chí Tôn đã hiện tượng do quyền -năng vô đối của Ngài mà đoạt được, mà trong đó các vị thừa-hành mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình nắn nên tướng của nó. Hiện nay các bậc tu-hành tốn không biết bao công 144

145 trình tìm pháp để tu tắt, hòng mong cho mau đắc Đạo: - Nơi cửa Đạo Cao-Đài này Chí-Tôn đã khai Pháp cả rồi qua hình ảnh Khai-Pháp Trần-Duy-Nghĩa đó. - Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc là người nắm pháp thiên-điều, thì Phạm chính là cửa Phật. Như vậy, người tu muốn đến nhanh trong cửa Phật thì hãy bấm Công-tắc như một nút điện vậy. - Còn con đường để đi đến nơi là con đường TRUNG, NGHĨA (Lê -văn-trung, Trần -Duy-Nghĩa). Ba nguơn-linh cao-trọng ứng vào Tam tài đó vậy. Trong Thánh-ngôn đề trái địa-cầu là 68, mà nếu cả Cửu-Phẩm Thần Tiên mỗi kiếp sanh đi có một phẩm, thì cả triệu năm cũng chưa đoạt đến địa-vị đặng. Đức Chí-Tôn nói tiếp: Các con, trong một kiếp sanh đã đoạt pháp là vì các con đi con đường tắt, đó là Bí-pháp chơn-truyền của Đạo. Chính Đức Hộ-Pháp xác nhận: Chúng ta xét lại thấy ĐẠO CAO-ĐÀI còn hạnh phúc hơn các nền Tôn -giáo khác, nếu nhận quả -quyết thì có ba người, mà ba người tức nhiên nhiều hơn thiên-hạ rồi. 145

146 Cái thiệt tướng của nền Tôn-giáo Đức Chí Tôn hiện tượng do quyền-năng vô đối của Ngài mà đoạt đặng, trong đó các vị thừa -hành mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó. Bần-Đạo kiếu lỗi cùng con cái của Ngài không phải tự kiêu hay là tự đắc, chính tay Bần Đạo có một phần khá lắm, vì cớ Bần-Đạo rủ chúng ta dùng phép hồi-quang phản chiếu đặng định tướng diện của mình, cốt-yếu là một phần tử trong nền Tôn-giáo. Hễ mình coi chơn tướng của mình, rồi tổng số các chơn tướng đó làm chơn tướng của Đạo. Bần-Đạo thấy Đạo Cao-Đài nên hình đặng tức là thành tướng thương-yêu. Ta không có mơ vọng và không có lường gạt tâm-lý nhơn-sanh, trước mặt mỗi người đều thấy, hỏi do quyền năng nào tạo thành quyền-lực ngày nay? Quyền tạo ngày nay do luật Thương-yêu mà thành tướng. Vậy mà nếu do luật Thương-yêu thành tướng thì không có quyền -năng nào tàn phá nó ặng, đ nó có sợ chăng là sợ luật thù hận. May thay, cả lực-lượng thù hận cũng không xung-đột được bởi có bàn tay thiêng-liêng gạt thù hận ra khỏi rồi. Nó nên hình bởi sự thương-yêu, trưởng thành trong sự thương-yêu bởi hình chất của thương -yêu. Hễ càng ngày càng lớn lên càng tráng-kiện, nó sẽ làm Chúa cả thù hận không hề xâm-lấn nó đặng. Nói quả-quyết Bần-Đạo đã đánh tan thù hận ra, khi các đảng-phái dùng quyền-lực đặng chiếm ngôi vị của Chí Tôn để tại mặt thế -gian này. Bần-đạo đã can-đảm dùng quyền của Bần Đạo đánh ngã hết đặng bảo-trọng hình tướng thương-yêu của Đạo, Bần-Đạo lỗ vốn cũng nhiều, Bần-Đạo gánh lấy cả thù hận ấy đặng bảo-tồn hình thể của Chí-Tôn cho trọn thương-yêu 146

147 Đó là Tam đầu chế của HIỆP-THIÊN-ĐÀI Sự Huyền-diệu của con số 3: Số 3 là do 1 với 2 hỗn-hợp lại mà biến ra 3. Ba tức là cơ-quan hữu tướng cùng vô tướng hiện có ở càn-khôn vũ trụ này. Số 3 là cơ-sở của Tam thể: Phật, Pháp, Tăng, nên nó vừa có năng-lực huy-động mà cũng có năng-lực dung hòa. Vật nào có số 3 là vật ấy thuộ c bản thể cứng rắn, nhiều hành-động. Số 3 là một con số thiêng-liêng mầu -nhiệm và nhiều huyền-bí nhất. Trong nền Đại-Đạo con số 3 đã tác động mạnh-mẽ và chi-phối đến mọi vấn-đề. Qua các hình ảnh như Tam kỳ, Tam giáo qui nguyên, Tam thánh, Tam-Trấn.. Bởi: Cơ-quan quản-trị gồm có 3 ngôi: Phật, Pháp, Tăng. -Phật cầm quyền-năng của chơn-linh. -Pháp cầm quyền-năng của khí -thể tức là cơ sản xuất hữu hình, cầm quyền sự sống của vạn loại, vì khí-thể là chất sanh vạn-vật. -Tăng là cầm quyền-năng nuôi sống thể hài. Đấy là quyền-năng của ba ngôi: Số 3 là tượng-trưng cho cơ HÒA: Thể Đạo của Chí-Tôn cũng phải nương theo chữ Hòa mới toan thành lập. Chí -Tôn định thành Hội -Thánh đặng thay thế hình ảnh của Người, thì cũng tùng theo phép tạo-hóa cá-nhân mà gầy nên ảnh-tượng: * Cửu-Trùng-Đài là thi-hài, ấy là Tinh * Hiệp-Thiên-Đài, ấy là Khí * Bát-Quái-Đài là linh-hồn, ấy là Thần. Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong thành Đạo 147

148 cho đặng. Nếu có một quyền-hành nào tại thế này mà làm cho thân-thể Chí-Tôn phải chia phui manh-mún ra đặng thì là Đạo Ta là giả Đạo, tất nó phải bị tiêu-diệt trong một lúc ngắn-ngủi chi đây. Còn như quả là Chí-Tôn vì thươngyêu con cái của Người, chính mình đến lập Đạo đăng giải thoát cho chúng sanh, thì những mưu -chước của tà-quyền ngăn cản bước Đạo của Thầy khó mong nghịch mạng với Chí-Tôn, ắt là không mong bền vững. 8-Muốn được vậy thì ở con người phải thế nào? Thân-thể cho mạnh-mẽ tinh-vi, đừng để sa-đà vào lục dục thì là thuận cùng trí lự khôn ngoan. Khí-lực cho cường thạnh thanh-bai, đừng để đến đỗi mê-muội bởi thất tình, thì trí lự khôn ngoan thuận theo linh-tâm mà nẩy-nở. Linh-tâm phải định-tĩnh từ-hòa, đ ừng để đến đỗi mờ-ám bởi tội-tình, thì thuận với lòng trời, hiển linh tại thế đặng đoạt phép huyền-vi. Thân là TINH, lực là KHÍ, trí là THẦN. Nói rõ ra thì TINH là thân thể, KHÍ là điển lực, nghĩa là trí-lự; THẦN là linh-hồn; ba cái báu của mình ngày nào tương đắc, nghĩa là hòa -hiệp cùng nhau, thì người mới mong đắc Đạo. Cơ Đạo của Chí-Tôn đến lập buổi Hạ-nguơn Tam-kỳ phổ-độ này duy lấy một chữ hòa làm tôn-chỉ E- Tam lập: Vấn đề tự lập là vấn đề mỗi người phải tự lo: Thầy dạy (Ngày 15 Avril 1927 (Phú-nhuận) Máy Thiên-cơ các con chưa rõ; các con cứ tưởng lầm rằng Thầy không kềm chế kẻ vô lương đặng. Các con hằng muốn thấy kẻ ấy bị hành phạt nhãn tiền, thì mới vừa 148

149 lòng các con. Nhưng Thánh -Ý Thầy không phải vậy đâu. Thầy đã nói cho các con hay trước rằng: nếu các con không tự lập ở cõi thế nầy, là cái đời tạm của các con, thì Thầy cũng không bồng ẵm các con mà đỡ lên cho đặng. Ấy vậy cái vấn đề tự lập là vấn đề các con phải lo đó. Thầy vì công lý mà khai Ðạo cho các con cũng là một phúc hạnh lớn cho các con. Nếu Thầy còn đưa tay bồng ẵm thì các con chẳng còn để ý chịu nhọc vì Ðạo, Thầy lại có nói rằng: Ngày nào các con còn trông thấy một đ iều bất bình ở đời nầy, thì Ðạo chưa thành vậy. Mối Ðạo Thầy đưa cho các con phăn đầu hết, thì các con phải biết trách nhậm các con lớn lao cao thượng là chừng nào - Nếu các con không biết nghĩa vụ của Ðạo, thì sao cho xứng đáng. Vậy thầy khuyên các con cứ thìn lòng thìn nết, cho có trật tự trong Ðạo, thì tức nhiên muôn điều khó nhọc cũng tan như giá. Các con vì Ðạo là việc công-lý mà công lý đánh đổ cường quyền, thì Ðạo mới phải Ðạo. Các con hiểu à! 1-Thể-pháp của Đạo Cao-Đài: - Nói về Thể-pháp chúng ta hân-hạnh làm sao, muốn cho chúng ta lập đức chính mình Đ ức Chí-Tôn đã cho chúng ta mượn danh thể của Ngài, chúng ta đã làm Thánh-thể của Ngài nơi mặt thế của Ngài. Ôi! Quyền-lực về phương-pháp lập đức đối lại với cảnh thiêng-liêng là mua ngôi-vị của chúng ta đó vậy. - Lập công là Ngài đã t ạo hình thể của Ngài, tức nhiên Đền-Thánh đó là Đền thờ hữu-hình của Ngài để tại mặt thế này. Chúng ta phải lập công với sanh-chúng tức nhiên lập công cùng con cái của Ngài. Ngài để cho chúng ta lập công chớ không phải làm nô-lệ cho ai tất cả. Chúng ta thấy Ngài phụng-sự cho con cái của Ngài, chúng ta lập công là tạo danh thể của Ngài, do lập công mà ra. 149

150 - Bây giờ tới lập ngôn. Chính mình Ngài, Ngài phải làm, cầm cây Cơ, bút, viết dạy chúng ta từ lời nói, việc làm; từ tánh đức, từ đạo-lý. Còn ngôn, có ngôn gì ơn h Ngài nữa, để cả thảy các thể-pháp đặng chúng ta định vị chúng ta, chính tay Ngài cho chúng ta mượn cả thảy Nơi Cửu-Trùng-đài Thầy định-quyết cho Người (Giáo-Tông) có quyền dạy-dỗ mà thôi, song quyền-hành có rộng thêm đôi chút là dạy-dỗ trọn cả đường Đạo và đường đời. Nghĩ cũng ch ẳng chi làm lạ, vì cả Chức-sắc Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài của Thầy lập, phải tùy theo tôn-chỉ Đạo, nghĩa là xu-hướng về phần giáo-dục mà thôi. Thầy đã xưng là Thầy đặng dạy-dỗ, còn tên của Chức-sắc đủ chỉ rõ-ràng phận-sự giáo-hóa, là chánh vai của mỗi người, như Giáo-hữu, Giáo-sư, Phối-sư, Đầu-sư, Giáo- Tông Xem rõ lại thì tên mỗi vị chẳng mất chữ Giáo hay chữ Sư. Cơ Đạo từ cổ chí kim vẫn vậy, lại hiệp lời này Thiên mạng chi vị tánh, suất tánh chi vị Đạo, tu Đạo chi vị giáo. Thầy chỉ cậy Hội-Thánh Thầy đã đ ến lập, thay quyền cho Thầy mà dạy-dỗ cả con cái của Thầy, nghĩa là chúng-sanh đặng lành, ấy là phận-sự cần nhứt của Hội-Thánh đó (PCT) Đức Hộ-Pháp nói: Việc đào tạo Chức Sắc là quyền sở hữu của Vạn Linh, nếu Chức Sắc trong Thánh Thể Đức Chí Tôn thiếu thì Bần Đạo có thể đổ cho quyền Vạn Linh bất lực. Bần-Đạo đã nói do quyền Vạn Linh thì việc đào tạo Chức Sắc do quyền Vạn Linh định quyết, chớ Học Đường, Hạnh Đường lập ra trọng-yếu là để tạo nhơn tài mà thôi, chỉ có con đường chơn lý của Đạo mới đào tạo tánh đức cho họ. Ngài muốn lập thân danh phải lập Đức, lập Công, lập Ngôn. 150

151 - Lập Đức thì phải nhớ Đạo lý. - Lập Công thì phụng sự Nhơn sanh. - Lập Ngôn thì phải để hết trí óc tìm hiểu về triết học tinh thần, tìm tòi mọi lẽ cao sâu để thuyết minh chánh giáo. Học đường là nơi con người học hỏi để lập Ngôn. Lập Đức là do đường Đạo lý. Lập Công là do quyền Vạn Linh định đoạt. Người biết dùng ba điều trên thì nên, còn không thì phải chịu mai một và do quyền Vạn Linh biết dùng họ thì họ mới lập công với Đạo được. 2-Trong cửa Đạo Cao-Đài có ba cách về với Đức Chí Tôn hay là có ba cách lập vị mình: 1/-Cách thứ nhứt: Các chơn-hồn mượn xác phàm phải đi theo phẩm-trật Cửu-Thiên Khai-Hóa, tức là theo Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài, dùng tài sức mình lập công để đoạt Đạo, nghĩa là phải đi từ bậc Đạo-Hữu lên Lễ-Sanh, Giáo-Hữu, Giáo-Sư,... Phải lập công từ Tiểu-Thừa, Trung- Thừa đến Thượng-Thừa; phải ăn chay từ sáu ngày mỗi tháng đến mười ngày, rồi ăn chay trường luôn, phải tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Các chơn-hồn đi theo phẩm-trật Cửu-Thiên Khai-Hóa còn phải có tự-tín rồi thatín, tức là giác -nhi giác-tha đó vậy. Có tự -tín rồi tha -tín tức là có tự độ mình rồi độ chúng-sanh. Đạo Cao -Đài khác vớ i các nền Tôn -Giáo khác là ở chỗ đó, trước hết phải độ mình, độ gia-đình mình rồi độ ngoài thân tộc, tức là độ cả nhơn-loại vậy; mình phải học để mình hiểu Đạo. Hiểu Đạo rồi, nói sao cho thân-tộc mình hiểu Đạo, chẳng những nói Đạo cho thân-tộc mình biết mà thôi, mà phải nói Đạo cho toàn nhơn-loại nữa. 151

152 - Mình học để biết Đạo là lập Đức, - Nói Đạo cho thân tộc mình biết Đạo là lập Công, - Độ toàn nhơn-loại là lập Ngôn. Có làm đủ ba điểm đó mới về được với Đức Chí - Tôn bằng con đường Cửu-Thiên Khai-Hóa. 2/-Cách thứ hai: Lập vị mình theo Thập-Nhị Đẳng- Cấp Thiêng-Liêng tức là theo Hội -Thánh Phước -Thiện, nơi đây ngoài vi ệc ăn chay giữ -gìn luật Đạo tùng theo chơn-pháp của Đức Chí-Tôn còn phải dùng Đức để lập vị mình. Muốn lập đức phải đi từ Minh-Đức, Tân-Dân, Thính-Thiện, Hành-Thiện, Giáo-Thiện, Chí-Thiện... Lập đức là gì? Là dùng sự thương yêu để cứu độ chúng-sanh mà Đức Chí-Tôn đã có nói: "Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch-Ngọc-Kinh" là vậy đó. Các đẳng chơn -hồn tái kiếp đang chơi-vơi trong "Tứ-Diệu-Đề-Khổ". Muốn thoát khổ họ phải thọ khổ, có thọ khổ mới thắng khổ. Người đi theo Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng là dạy người ta thọ khổ để thắng khổ. Muốn dạy người ta thọ khổ trước hết thì mình phải thọ khổ đã, muốn thọ khổ thì không gì hay bằng dùng Đức Thương Yêu. Cho nên ậc b thứ nhất của Thập -Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng là Minh-Đức đó vậy. Có thương yêu mới thọ khổ được, ta thương Cha Mẹ ta, ta mới chịu khổ mà bảo dưỡng Cha-Mẹ lúc tuổi già, ta thương con ta, ta mới lo tảo lo tần nuôi nó khôn lớn, ta thương những người cô thế tật nguyền ta mới tầm phương giúp đỡ họ, mà tầm phương giúp họ là thọ khổ đó vậy. Thọ khổ rồi mới thắng khổ, thọ khổ không phải một ngày, một bữa, mà phải thọ khổ cho đến nơi đến chốn, 152

153 nghĩa là nuôi Cha-Mẹ cho đến tuổi già, lo cho con từ khi còn bé cho đến lúc nó tự lo cho nó được. Hai điều đó còn dễ, đến lo cho thiên-hạ hết khổ mới khó. Vì khi lo người này, hết người này đến người khác và cứ như vậy trọn kiếp sanh mới gọi là thắng khổ, có thắng khổ mới về được với Đức Chí-Tôn bằng con đường Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng. 3/-Cách thứ ba: Cách thứ ba Là cách Tu-Chơn hay là Tịnh-Luyện cũng thế. Những người đi trong Cữu-Phẩm Thần-Tiên hay đi trong ậpth -Nhị Đẳng-Cấp Thiêng- Liêng, khi mình nhận thấy là đã Lập-Đức, Lập-Công, Lập- Ngôn rồi. Hay là đã thọ khổ và thắng khổ rồi mà còn sức nữa, thì vào nhà Tịnh để được Tu-Chơn. Nơi đây các vị đó sẽ được học phương-pháp luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, tức là Tinh-Khí Thần hiệp nhứt là Hườn-Hư đó vậy. 3- PHƯƠNG PHÁP LẬP THIÊN VỊ: Đền Thánh ngày 19 tháng 4 năm Tân Mão (1951) Đêm nay Bần Đạo giảng phương pháp lập thiên vị của mình. Ngày Bần Đạo đến tại Trí Huệ Cung, có đặng nhiều bức thơ của mấy bạn chúng ta cầu xin nhập vào Trí Huệ Cung một lượt với Bần Đạo nhiều lắm. Ngày giờ ấy chính mình Bần Đạo cũng chưa biết thế nào tuyển chọn những chơn linh đem vào cửa Thiêng liêng ấy đặng. Đang lo không biết giải quyết thế nào về phương pháp nhập Trí Huệ Cung nên chưa quyết định. Nhứt là về mặt tuyển chọn không biết trả lời làm sao. May duyên thay Đức Chí Tô n thấy không thể giải quyết đặng, mới cho hội diện cùng các Đấng cầm quyền Thiêng liêng của Đạo. Khi đặng hiểu rõ rồi, Bần Đạo lấy làm hân hạnh thấy rằng: Cái nền Chơn Giáo của Đức Chí Tôn vẫn là 153

154 đường đường ngay chánh, nhứt định về thể pháp Chơn truyền, không hề mê hoặc ai cả thảy". Và Bần Đạo cũng quả quyết rằng: "Những phương pháp mê hoặc của thiên hạ về Đạo lý sẽ bị Chơn truyền của Đức Chí Tôn từ từ tiêu diệt hết". Muốn định Thiên vị của mình, quyền Thiêng liêng đã buộc. Buộc hẳn mà chớ, phải có Tam lập của mình mới được, gọi là nhơn luân. Điều ấy Bần Đạo có truyền cho Chức Sắc Hiệp Thiên Đài hay trước rồi và dường như Đức Trần Khai-Pháp đã có thuyết minh điều ấy rồi. Bần Đạo không cần luận thêm nữa. Bây giờ chỉ nói tại sao phải có Tam lập ấy? Nếu người nào không có Tam lập thì không có ở chung với ai được hết, chính mình đối với cơ thể hữu vi của đời, tức nhiên Thể pháp mà không có bằng cớ chi hết thì ai tin rằng có Bí pháp để đạt pháp, đạt Đạo. Thể pháp mà không làm đặng, Bí Pháp vẫn khó, làm sao ch o rồi, nếu mà không rồi hành tàng của họ về Bí Pháp tức nhiên mê hoặc chúng sanh mà thôi. Phải có hình mới có bóng, khi nào thấy bóng tức nhiên chúng ta quyết định có hình, bóng hình phải tương liên với nhau mới đặng. Ấy vậy Tam lập là: Lập Đức, lập Công, lập Ngôn, con người khi sanh ra mặt địa cầu nầy không có Tam lập thì giá trị con người không có gì hết. Tam lập ấy quyết định cho ta, ta phải có mới sống chung với xã hội nhơn quần được. Nếu con người không có đức thì làm sao xử sự trong gia đình, ngoài xã hội đặng. Con người không có Công thì ở với ai cũng không được. Người ta làm ngã ngửa, còn mình ngồi đó hả họng hưởng, không làm gì có nghĩa với người, với đời, thì sống với ai? Cũng như người ta thì chơn chất thật thà, hiền lương đạo đức, còn mình 154

155 xảo ngữ lường gạt, không chút dạ nhơn từ, thì dầu cho người có tài tình đến mấy mà thiếu ba điều đó thì không thể gì sống với ai được hết, như vậy thì địa vị mình tại mặt thế nầy chưa rồi... Gần đây Bần Đạo sẽ định phương châm truyền giáo Ngoại Quốc, Bần Đạo sẽ mạo hiểm, cưỡng bách tuyển chọn Chức Sắc xuất đương giáo Đạo. Bần Đạo cho biết trước trong kỳ xin ân phong này, có người được tuyển chọn xuất dương mà Giáo Đạo. Ấy đừng nói đó là việc tình cờ. Trong Hiệp-Thiên-Đài thì Hộ-Pháp thay quyền cho các Đấn g Thiêng-liêng mà gìn-giữ công-bình tạo -hóa, bảo-hộ nhơn-loại và vạn-vật lên cho tới địa-vị tận thiện tận mỹ; người thì tận thiện còn vật thì tận mỹ. Chẳng cần lấy sức mình mà lập, chỉ bảo-hộ cho sự tấn-hóa tự nhiên khỏi điều trở ngại, nếu nói có quyền bảo-hộ thì phải có luật-pháp, lấy luật-pháp mà kềm chế nhơn-sanh cũng như các Đấng trọn lành lấy Thiên-điều mà sửa trị càn-khôn thế giới. Hộ-Pháp là thể các Đấng trọn lành, Người lại giao quyền cho Thượng-Phẩm lập Đạo đặng dìu-dắt các chơn-hồn lên tột phẩm-vị của mình, tức là nâng-đỡ binh vực cả tín-đồ và chức sắc thiên-phong ngồi an địa-vị, cũng như chư Thần, Thánh điều -đình càn-khôn thế giới cho an tịnh mà giúp sức cho vạn-loại sanh sanh hóa hóa. Thượng-Phẩm tiếp các chơn-hồn của Thượng Sanh giao vào cửa Đạo. Thượng-Phẩm là người thể Đạo đối với hàng Thánh, ấy là người làm đầu các Thánh. Còn Thượng-Sanh về Thế độ, đem các chơn-hồn vào cửa Đạo, dầu nguyên-nhân hay là hóa-nhân cũng vậy, phải nhờ Người độ-rỗi. Thượng-Sanh đặng mạng lịnh 155

156 chuyển thế, buộc Thượng-Sanh phải gần kẻ vô đạo đặng an-ủi, dạy dỗ, mà kể từ hạng vô-đạo trở xuống cho tới vật chất thuộc về phàm, ấy vậy Thượng-Sanh là thể Đời, Người đứng đầu của phẩm phàm-tục (PCT) Bởi giá trị tinh-thần của ba Ngài được mệnh danh là Tướng-soái của Chí -Tôn nên sở hành của các Ngài đã cống-hiến cho nền Đạo thật là to-tát. Ngài Hiến -Pháp Trương-Hữu-Đức luận về tâm-lý của ba ông: Luận về tâm-lý, trong ba ông, mỗi người đều có một đặc-tính mà ta cần biểu -dương để xưng tụng công đức. Dầu muốn, dầu không, toàn thể Đạo Cao-Đài đều phải ca ngợi công khai Đạo của ba vị ấy: -Ông thứ nhứt là Thượng -Phẩm Cao Quỳnh-Cư, nhờ đức tính cao-thượng và cương quyết nên hễ làm việc gì thì cố-gắng làm cho kỳ được. Bởi thế nên khi nhận chân mối Đạo, thì ông nghe theo tiếng gọi thiêng-liêng mà phế đời hành Đạo, mặc dù lúc đó ông đang là một vị công chức của chính-phủ Pháp. Công-nghiệp của ông đã ghi đậm trang sử Đạo. (Ông là người đầu công trong việc mở mang ban đầu). -Ông thứ nhì là Hộ -Pháp Phạm -CôngTắc. Ông là người có tánh cao-thượng và hùng khí, lại thương đời mến Đạo nên khi nhận rõ mối Đạo cũng liền phế đời hành Đạo, ông cũng là công chức lúc ấy (Ông đã đóng góp trọn đời suốt 35 năm) -Ông thứ ba là Thượng-Sanh Cao-Hoài Sang cũng có tánh cao-thượng và yêu đời mến Đạo như hai ông kia, nhưng vì hoàn-cảnh còn phải ở lại với chức-vị của ông vì ông cũng là công -chức. Tuy nhiên ông cũng nghe theo tiếng gọi của thiêng-liêng mà hành-đạo trong lúc rảnh rang. Ông rất dày công phổ-độ lúc ban sơ và lúc cuối. 156

157 Ba ông đều đắc Thiên -phong trước hết và đắc lịnh chấp cơ truyền Đạo phổ-độ chúng sanh. Hai ông Hộ-Pháp và Thượng -Phẩm hiệp thành một cặp đồng-tử chấp cơ phong Thánh truyền giáo, lập Pháp-Chánh-Truyền và Tân luật là Hiến-chương của nền Đại -Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ hiện giờ. Chúng ta phải nhìn -nhận đầu công của hai ông này vào bậc nhất, vì trước hết và trên hết, Đức Chí -Tôn mượn tay Thần-lực của hai ông mà lập thành Đại-Đạo cho đến ngày nay. Chúng ta suy đoán chỉ có Thương-yêu, duy có một người hay nửa người thương mà các vị Giáo-chủ đã lập thành Tôn-giáo tại mặt thế này. F- LUẬT-PHÁP ĐẠI ĐẠO Đối với Đạo-pháp thì khi Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ thành hình năm Bính-Dần (1926) Đức Chí-Tôn cho lập ngay Pháp-Chánh-Truyền và Tân-luật, gọi chung là Pháp Luật Đại-Đạo hay là Tân Pháp Cao-Đài để làm giềng mối, làm trật tự điều-hòa. PCT: Thầy vì sợ phàm tâm tục tánh lập luật pháp rất nghiêm đặng đủ quyền hành buộc cả Hội Thánh, nghĩa là thân thể Thiêng liêng, hiệp làm một. Luật thì có Tân Luật. Pháp thì có Pháp Chánh Truyền. Quyền thì Tòa Tam Giáo. Ấy là: Cái còi, cây gậy, hàng rào thiêng liêng, đặng lùa cả 157

158 các chuồng chiên của Thầy hiệp một; mà hại thay, kẻ chăn chẳng biết lóng tiếng còi, đoàn chiên không kiêng ghê con gậy, rào thưa rích thưa ran để đến đổi bầy sói lũ hùm bắt chiên Thầy phân thây xé thịt; cái hại ấy do tại nơi đâu? Đức Thượng phẩm nói: Nền Đạo của Chí-Tôn cao lên bao nhiêu thì danh thể của các Em tăng tiến lên, trọng-yếu bấy nhiêu và trách nhiệm phải thế nào? Các Em cần lo trau-giồi cho đáng giá để làm gương mẫu hướng-dẫn quần chúng noi bước theo con đường đạo đức và lập quốc buổi tương lai đã đến vậy. Trong phương-diện hành-đạo có ba điều nên chú-ý - Một là Quyền. - Hai là Luật. - Ba là Pháp-điều của Đức Chí-Tôn vậy. - QUYỀN là giáo-hóa, dìu-dẫn chúng sanh vào khuôn linh đạo-đức. - LUẬT là thương-yêu, rộng dung tha-thứ cho kẻ lỗi biết ăn-năn. - PHÁP là giữ công-bình, chánh-trực. Nếu có kẻ không nghe lời giáo-hóa, cố tâm phạm luật thì ngư ời cầm quyền cai-trị lấy Thánh đức mà định hình phạt là cốt-yếu cạo gọt cho nên hình ng ư ời, chớ không phải kẻ cầm quyền mà để phạm vào tội ác sát nhân, bởi Đạo-quyền gọi là Thánh-trị chớ không phải phàm trị. Các em nên nhớ! (10-10 Canh-dần 1950) Đức Quyền Giáo-Tông dạy tiếp: Gần đây sắp mở Hạnh-đường, quyền Thượng và Ngọc Chánh-Phối-sư phải sửa cơ giáo-hóa cho có qui-tắc. Qua nhận thấy phần đông ra hành-đạo vì Quyền chớ không phải vì Phận, có nhớ chăng lời Thánh-giáo của Đức Chí Tôn nói rằng: 158

159 Hễ dưới mắt các con còn lẽ bất công thì Đ ạo chưa thành đó không? Em phải nhắc lại giùm, Qua thấy mấy em ấy lầm lộn mà phải đau lòng và r ất tiếc chẳng còn mảnh thân phàm nữa đặng dìu-dẫn. Đức Hộ-Pháp rất phiền lòng, Qua chẳng biết nói sao! Hôm trước Qua đã có nói v ề QUYỀN, LUẬT và PHÁP mấy em khá nhớ! - Quyền là giáo-hóa. - Luật là Bác-ái, Từ-bi. - Còn Pháp là Công-chánh đó vậy (18-10 Canh-Dần dl ) Đức Thượng-Phẩm cũng nhắc-nhở thêm: Các em cũng vẫn biết nơi đây là gốc để đem lại sự Thương-yêu cho toàn cả sanh chúng trên mặt địa-cầu này. Vậy các em khá để tâm, tất cả những cái gì làm thương tổn đến tình yêu-ái cũng là điều ích riêng hay chung đặng làm điều tư lợi, những cái đó ngoài mặt thế đã chán rồi, trong cửa Đạo phải tiêu-diệt cho hết thì mới mong sự Phổ-Độ được đắc thành mau sớm. Lúc ra đi hành Đạo nên nhớ: - Chơn-truyền là gốc. - Luật-pháp là chuẩn-thằng. - Từ-bi, Bác-ái là Đạo-pháp. Mỗi việc các em phải khá suy-nghiệm cho kỹ lưỡng, phải luôn nhớ rằng: Mình là ngư ời của chúng sanh, chớ không phải chúng sanh là người của mình. Mảnh thân phàm đã làm con v ật hy-sinh đặng Đức Chí-Tôn dùng, để sửa đời lầm-lạc ra thuần-phong mỹ-tục, thì phải biết nó ra thế nào rồi, giá-trị hay chăng là được trọn cùng không đó ( ) 159

160 G- ĐẠO CAO-ĐÀI XUẤT HIỆN QUA TIÊN TRI 1/-Hữu duyên mới gặp Tam-Kỳ Phổ-Độ: Vị Đại Tiên Tào Quốc cựu giáng cơ dạy: Rất hữu duyên mới gặp Đạo Tam Kỳ đến độ rỗi, khá rán luyện cho nên Đạo kẻo uổng. Người sanh trong đời khó gặp đặng, vì Đạo là rất báu trong đời không chi bì kịp. Chư Nhu có phước, có duyên nên mới gặp Đạo mở kỳ này là kỳ thứ ba. Thiệt chư nhu có đại căn mới gặp trước thiên hạ đó. Chư Thánh đều lâm phàm mà độ kẻ nguyên nhân, chư Nhu là kẻ nguyên nhân. Hễ thành tâm hành Đạo thì tự nhiên đặng (17-6 Quí Hợi 1923) Vào thời tiền khai Đại-Đạo tức là khoảng năm Giáp-Tý (1924) trở đi thì Đ ức Chí-Tôn đã giáng cơ phân rành mọi lẽ: Vốn Thầy lập một nền Chánh Đạo cho dân Việt Nam chẳng phải là việc nhỏ đâu! Các con ví biết Đạo là quí thì phải ân-cần thận trọng, đợi đến ngày thành tựu mới thấy rõ Thiên cơ thì ch ừng ấy các con muốn lập công bằng buổi này sao đặng! Vì mỗi việc khó-khăn trắc trở là lúc sơ khai. Vậy Thầy khuyên các con rán thành tâm hành Đạo, mà Đạo không phải giữ bằng lỗ miệng đâu 2/-Lời tiên tri của Đạo Tam Thanh: Vào thập ngũ thế kỷ bên Trung-quốc có một vị Đạo sĩ tên là Ngô-Chi-Hạc (Ou-Tche-Ho) có lập lên phái Tam Thanh, chuyên thờ ba Đạo lớn tại Trung quốc là: - Đức Thích-Ca (Phật giáo) - Đức Lão-Tử (Đạo giáo) - Đức Khổng-Tử (Nho giáo) Đạo Tam Thanh là bước đầu tiên của Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ ngày nay vậy. Ở Trung quốc thì từ đời 160

161 Tam quốc, Vương Bật cho rằng sách Lão-Tử và Chu-Dịch là một loại. Đến Nam Bắc triều các nhà Đạo học cho Lão học và Phật học vốn là một dòng. Rồi đến đời Tấn có sách Du học thiên xướng luận điệu Nho Phật nhứt trí. Tiếp đến Vương-Thông đời Tùy, tuy là một nhà Nho thuần túy mà cũng cho Tam giáo là đồn g nhất.đến đời Đường, thì tư tưởng ấy cũng phổ thông lắm. Lưu-Mật làm sách Thích Đạo Nho bình tâm luận cũng nói về Tam giáo đồng nguyên. 3- Về Thần linh học: -Chỉ sau nhiều cuộc khảo cứu và sưu tầm về Thần linh học nơi Ông Thầy Trời đem truyền nền Đạo -lý mới mẻ này. Đức Thượng-Đế giáng dạy: Thầy há chẳng có lời tiên tri rằng Thần-linh-học là một nền Đạo tương lai sao? Thầy cũng đã nói trước khi đến khai Đạo đặng hội-hiệp các Tôn giáo làm một, thì Người đã sai các Đấng Thiêng liêng cao trọng hạ trần mà bày ra các Hội giáo đạo -đức, đặng thức tỉnh nhơn sanh trước như là: - Khảo cứu Thiên Đạo giáo (Société Théosophique) - Khảo cứu Triết lý Phật Đạo (Société des Recherches Sur la philosophie Bouddhique) - Thần kinh và Tâm lý triết học (Société psychique) - Thần linh học (La spiritisme).. Ngày nay Đấng cao cả ấy tá danh Cao -Đài Tiên Ông Đại-Bồ-tát Ma-Ha-Tát, Chưởng giáo mối Đạo kỳ ba, cho nên khi giáng cơ dạy Đạo Đức Ngài xưng danh: Ngọc Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Tiên Ông Đại-Bồ-tát Ma-Ha-Tát giáo Đạo Nam-phương. Chính nền Tân Tôn-giáo này có tên Đại -Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ hay là Đại-Ân-xá lần ba đã có những bằng cớ chứng tỏ nền Đạo Cao-Đài do Đức Thượng-đế dùng 161

162 Huyền diệu Cơ Bút sáng lập tại miền Nam nước Việt. Trước khi Đạo Cao-Đài xuất hiện như vậy mà đã có nhiều lời tiên tri kế đây làm cho lòng Tín-ngưỡng của nhơn sanh được sáng thêm và kiên-cố hơn: 4/-ĐờiThái-bình phải mất vì mấy duyên-cớ sau: Trong sử còn ghi câu: Gia vô bế hộ, lộ bất thập di nghĩa là con người thuở ấy an-nhàn cho đến đ ỗi ban đêm ngủ không đóng cửa nhà, còn ngoài đường thấy của rơi không ai thèm lượm. Nhưng buồn thay cho đời Thái -bình phải mất vì mấy duyên-cớ sau nầy: 1-Những người hành-đạo đều phân chia ra nhiều phe, nhiều phái mà kích -bác lẫn nhau, chớ Tôn -chỉ của Tam-giáo đều như một là làm lành lánh dữ và kỉnh thờ Đấng Tạo-hóa. 2- Lại canh-cải mối Chánh-truyền của các Đạo ấy làm cho thất chơn-truyền. 3- Những dư-luận phản-đối nhau về Tôn giáo, mà ta thấy hằng ngày cũng tại bã vinh-hoa và lòng tham-lam của nhân-loại mà ra, nên chi người An-nam bây giờ đều bỏ hết những tục lệ tận thiện tận mỹ ngày xưa. Thấy tình thế như vậy mà đau lòng, cho nên nhiều người An-Nam, vì căn -bổn, vì Tôn giáo, đã tìm phương thế hiệp Tam giáo lại làm một: Qui Nguyên Phục nhứt, gọi là Đạo Cao-Đài hay là Đại-Đạo. Đạo Trời mở ra cho một nước, tất là ách nạn của nước ấy hầu mãn cho nên dù Đức Thượng -Đế chưa đến, nhưng tất cả các Kinh sách Phật-giáo đều đã có lời tiên tri cho sự xuất hiện của Đạo Cao-Đài. Hôm nay ngày rằm tháng 10 năm Bính Dần. Dương lịch ngày là ngày chính thức khai Đại -Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tại chùa Từ-lâm-tự (Gò-Kén) Tây-Ninh 162

163 B- Đạo Cao-Đài xuất hiện: Chí-Tôn sai các vị Giáo -Chủ đại-diện Ngài đến lập Đạo do danh thể Ngài, vâng mạng lịnh nơi Ngài, đến thay thế giáo-hóa con cái của Ngài, chưa vị nào an -ủi được sự đau thảm cho trọn vẹn cái khổ của đời, khối đau thảm ấy từ buổi có loài người chất-chồng vô số kể. Ngài đến bồng nhơn -loại vào tay ru rằng: Khối đau khổ tâm-hồn của các con là tại các con đào-tạo chớ không phải của Thầy! Khổ là do quả kiếp mỗi đứa dục khổ cho nhau. Muốn giải khổ không gì khác hơn là: Đập đổ các đẳng cấp tâm-hồn. Thống nhất nhơn loại. Nhìn nhau là anh em máu thịt, cùng một c ăn-bổn cội nguồn, hầu chia vui sớt nhọc, biết tôn-ti nhau: kẻ trên không áp-chế người dưới, trí không hiếp ngu, hèn sang không biệt, mực thước tâm -hồn nhơn-loại phải đồng phẩm-giá, đồng quyền-năng. Ngày giờ nào, nhơn-loại biết tôn-trọng nhau, dầu sang hèn, nhìn nhau là anh em ốt c nhục, ngày ấy phương giải-khổ không khó. Các con nghe lời Thầy và làm y như lời Thầy thì khổ ấy tự tiêu-diệt. Nếu các con còn đau thảm thì đấm ngực nói: Khổ này do các con tạo, không phải do Thầy định tội, đa nghe! Thật ra: Nhơn-loại đang bị thống khổ và sẽ lăn vào cảnh tang-thương vì tinh thần ly -tán nên ĐẠI -ĐẠO CAO ĐÀI xuất hiện đặng. (Hết Tập I - Xin đọc tiếp Tập II & III) MỤC LỤC SỐ 3 HUYỀN DIỆU I Lời nói đầu Trang 3 CHƯƠNG I: khái niệm về Tam Bửu Đại cương về Tam bửu 8 2-Tam Bửu là gì? Lý uyên nguyên của Tam Bửu.11 4-Tòa Thánh có ba Đài tượng Tam bửu?

164 5-Ba ngôi Phật Pháp- Tăng 15 6-Chúa Cứu Thế phán cùng nhân loại.22 7-Sứ mạng Cao-Đài-giáo phải làm gì? 24 CHƯƠNG II: Nguyên tắc căn bản về Số 3 huyền diệu 27 1-Nguyên lý.27 2-Tam Thế Chí-Tôn 29 3-Tam ngôi Nhứt thể 37 4-Tam ngôi: Phật-Pháp-Tăng.39 5-Tính chất của Ba ngôi 43 6-Tam nguơn hồn Đạo Cao-Đài xác định về Tinh-Khí-Thần 47 8-Sự sống của Tam thể xác thân Qui Tam bửu: Tinh-Khí-Thần Đức Chí-Tôn mở khiếu cho chúng ta Tam thể xác thân trong con người Có ba bậc phẩm trong chúng sanh CHƯƠNG III: Ba Đài A- Ba Đài là Hình thể Chí-Tôn tại thế.58 B-Lập Tân Luật phân quyền cho chức sắc Cửu Trùng Đài 62 C-Chức sắc không qui định trong Pháp Chánh Truyền 66 D-Thánh Thể Đức Chí-Tôn 70 E-Tinh thần Tam Giáo 71 F-Ba thời kỳ khai Đạo 90 G-Thể pháp Đại-Đạo: Huyền Diệu Cơ bút 97 CHƯƠNG IV A-Tam Trấn Oai nghiêm 107 B- Tam Thánh ký Hòa-ước..116 C-Buộc phải thi hành Quyền Công chánh. 126 D-Đạo thành do ba người E-Vấn đề Tam lập F-Luật pháp Đại Đạo 157 Mục lục SỐ 3 HUYỀN DIỆU 164 Mỗi lần in Soạn giả có sửa chữa. In ngày: Canh Dần (dl: ) 164

165 Hay là TAM BỬU (TẬP 01) Tây-Ninh Thánh Địa, mùa hoa Đạo nở. Ngày 01 tháng 03 Vía Đức Cao Thượng-Phẩm (Tháng 4 năm 2007) Nữ Soạn-giả NGUYÊN-THUỶ 165

166 Trọng giá của TAM-BỬU mà CHÍ-TÔN ưa chuộng để dâng Đại Lễ cho Ngài là nguyên-nhân chấm dứt cái hoạ tranh thù đã gây nên trường oan-nghiệt cho toàn Thế-giới (Đức Hộ-Pháp) 166

YLE Movers PM.xls

YLE Movers PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 18/11/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 BUI PHAM DANG NAM 11/06/2010 3 2 3 8 2 LE PHUC ANH 07/07/2009 2 4 2 8 3 VO GIA

More information

SBD HO TEN Ngày Sinh Sửa đổi DOAN THI AI DAO THI AN DO VAN AN DO XUAN AN LE

SBD HO TEN Ngày Sinh Sửa đổi DOAN THI AI DAO THI AN DO VAN AN DO XUAN AN LE 30001 DOAN THI AI 05.01.1993 30002 DAO THI AN 17.05.1995 30003 DO VAN AN 09.08.1995 30004 DO XUAN AN 20.09.1993 30005 LE HONG AN 29.07.1992 30006 LE XUAN AN 19.02.1994 30007 MA MY AN 25.08.2005 30008 MAC

More information

YLE Starters PM.xls

YLE Starters PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 08/12/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Starters 1 WANG NAN SIANG 28/02/2010 3 5 5 13 2 CHEN HSUAN BANG 08/04/2012 5 5 5 15 3 HUANG

More information

SBD HỌ TEN Ngày Sinh Sửa đổi NGUYEN VINH AI DO XUAN AN HOANG VAN AN LUU LE HONG AN

SBD HỌ TEN Ngày Sinh Sửa đổi NGUYEN VINH AI DO XUAN AN HOANG VAN AN LUU LE HONG AN 40001 NGUYEN VINH AI 26.10.1995 40002 DO XUAN AN 03.05.1998 40003 HOANG VAN AN 25.09.1994 40004 LUU LE HONG AN 19.03.2003 40005 NGO THI THUY AN 17.11.2000 40006 NGUYEN CONG AN 07.07.1997 40007 NGUYEN HUU

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NG

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NG DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NGUYEN THI NGOC HUYEN NGUYEN VAN DAN NGUYEN QUANGMINH

More information

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx277 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx111 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 3 DO DINH DAO 0943xxx000 03. TITANIUM STEPUP CREDIT

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

Mục lục 1.Chú ý an toàn 2.Danh sách các bộ phận 4~5 6 3.Chú ý trong thi công 7 4.Các bước thi công chính Chuẩn bị lắp đặt bồn tắm~lắp đặt bồn tắm (1)C

Mục lục 1.Chú ý an toàn 2.Danh sách các bộ phận 4~5 6 3.Chú ý trong thi công 7 4.Các bước thi công chính Chuẩn bị lắp đặt bồn tắm~lắp đặt bồn tắm (1)C NTE150 2013.10 HƯỚNG DẪN LẮP ĐẶT BỒN TẮM GANG TRÁNG MEN ĐẶT SÀN CÓ CHÂN FBY1756PWGE, FBY1756PWNE Để phát huy hết tính năng của sản phẩm, vui lòng lắp đặt đúng như bản hướng dẫn này. Sau khi lắp đặt, hãy

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR Class: Pre- Intermediate 1 1 Tran Duc Anh 6.5 5.7 4.3 4.9 4.0 4.0 5.9 6.7 5.3 D 2 Tran Ngoc Van Anh 7.6 8.2 6.9 8.2 7.3 7.3 8.9 9.4 8.0 B 3 Pham Dai Duong 7.4 8.2 7.6 7.4 6.6 7.1 8.5 9.2 7.8 C 4 Le Xuan

More information

DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM "SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN" DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY ,403 2 NGUYEN THI

DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY ,403 2 NGUYEN THI DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM "SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN" DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY 025355865 152,403 2 NGUYEN THI HUONG HUYEN 320635110 1,500,000 3 HA DUY THANH 023146891

More information

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx277 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx111 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 3 DO DINH DAO 0943xxx000 03. TITANIUM STEPUP CREDIT

More information

N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN LUU LE HONG AN NGUYEN CONG AN NGUYEN DINH NGAN AN

N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN LUU LE HONG AN NGUYEN CONG AN NGUYEN DINH NGAN AN N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN 23.10.1996 0002 LUU LE HONG AN 19.03.2003 0003 NGUYEN CONG AN 07.07.1997 0004 NGUYEN DINH NGAN AN 13.01.2000 0005 NGUYEN HAI AN 05.12.1995 0006 NGUYEN QUOC AN

More information

Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/ /12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG G

Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/ /12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG G Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/2018-31/12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN 422076XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG GIANG 457353XXXXXX8460 1,000,000 3 NGO VAN PHUC 422076XXXXXX7476

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Intermediate 1   RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PR Class: Intermediate 1 1 Dang Quang Anh 8.0 6.0 6.1 7.9 6.8 7.3 7.3 7.7 7.1 C 2 Nguyen Thuy Quynh Anh 8.3 6.4 6.0 7.5 6.6 7.3 5.4 9.1 7.1 C 3 Nguyen Tran Ha Anh 8.8 6.4 8.5 8.7 9.0 7.1 9.9 8.5 8.4 B 4 Chang

More information

YLE Movers PM.xls

YLE Movers PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 16/12/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 NGUYEN HUU XUAN KHANG 10/04/2009 4 4 5 13 2 TRAN LONG MINH DUY 01/10/2008 2 2

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Elementary 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROG

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Elementary 1   RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROG Class: Elementary 1 1 Tran Nguyen Binh An 7.6 6.0 6.1 6.9 6.8 5.9 7.1 6.6 C 2 Phung Lam Ngoc An 8.2 6.8 8.1 7.9 8.2 6.4 8.7 7.8 C 3 Tu Pham Tieu Bang 7.4 8.1 8.4 8.4 8.6 8.3 9.3 8.4 B 4 Nguyen Thi Truong

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER 1 SCHOOL YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER 1 SCHOOL YEAR Class: Pre- Intermediate 1 1 Tran Phuc An 8.6 6.7 6.8 6.5 6.9 7.4 8.7 8.4 7.5 C 2 Nguyen Manh Dan 9.1 8.4 7.9 6.9 5.2 6.7 9.5 6.7 7.6 C 3 Huynh Tuan Dat 8.7 7.4 6.8 6.3 4.1 7.7 9.7 7.6 7.3 C 4 Lam The

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM No. Class: Starter 1 Name RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM No. Class: Starter 1 Name RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR Class: Starter 1 1 Tran Nguyen Binh An 7.2 5.6 7.1 5.3 3.8 5.3 8.6 6.1 D 2 Phung Lam Ngoc An 7.8 8.2 8.6 7.6 4.3 7.1 9.3 7.6 C 3 Tu Pham Tieu Bang 7.5 8.3 9.2 7.4 4.4 7.9 9.6 7.8 C 4 Nguyen Thi Truong

More information

SBD HO N5 TEN NGAY SINH BUI NGOC AN HOANG THI NHI AN HOANG THI UT AN NGUYEN BINH AN

SBD HO N5 TEN NGAY SINH BUI NGOC AN HOANG THI NHI AN HOANG THI UT AN NGUYEN BINH AN SBD HO TEN NGAY SINH 50001 BUI NGOC AN 16.08.1989 50002 HOANG THI NHI AN 19.08.1993 50003 HOANG THI UT AN 19.08.1993 50004 NGUYEN BINH AN 15.12.1995 50005 NGUYEN HUU AN 06.10.1993 50006 PHAM THI AN 05.04.1984

More information

Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20, xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20, xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000

Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20, xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20, xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000 Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20,000 090xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20,000 093xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000 098xxxx068 3/3/2017 9:00 DO TUAN ANH 20,000 012xxxx122

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

Movers PM.xlsx

Movers PM.xlsx BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 24/03/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 NGUYEN LINH CHI 31/12/2009 5 5 5 15 2 BUI HOANG QUAN 19/06/2008 5 4 5 14 3 BLINO

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1   RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Chemistry Mathematics 1 Dang Quang Anh 7.8 7.6 6.8 7.9 7.0 6.2 8.7 8.4 7.6 C 2 Nguyen Thuy Quynh Anh 7.6 8.7 6.7 7.3 6.5 6.1 6.8 7.3

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Flyers 1 RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR 2015

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Flyers 1 RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR 2015 Class: Flyers 1 No. Name Speaking Listening Grammar 1 PHAN DIEN KY BOI 8.3 9.1 8.8 8.9 7.6 7.8 8.6 7 8.3 Distinction 2 LUC PHU HUNG 8.5 9 7.9 8 7.3 6.8 9.1 7 8 Distinction 3 LUU DUONG BAO KHANH 7.5 9.6

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLISH

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLISH Class: Movers 1.1 No. Name Speaking Listening Grammar Social Studies 1 NGUYEN CAO THIEN AN 7.7 9.3 9.8 8.8 9.7 8.9 8.9 9.6 9.1 High Distinction 2 LE PHUONG ANH 7.7 8.7 9.0 7.8 9.1 6.5 7.8 8.6 8.2 Distinction

More information

N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH DUONG QUOC AI CHU MINH AN NINH VAN AN PHAM THI THUY AN

N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH DUONG QUOC AI CHU MINH AN NINH VAN AN PHAM THI THUY AN N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH 50001 DUONG QUOC AI 16.09.1993 50002 CHU MINH AN 14.08.1990 50003 NINH VAN AN 22.06.1994 50004 PHAM THI THUY AN 17.05.2000 50005 VUONG THI AN 03.09.1992 50006 BUI THI ANH 08.08.1997

More information

KET for Schools_ August xls

KET for Schools_ August xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE Kỳ thi ngày: 11/08/2018 Cấp độ: KET 0001 CONG CHIEN NGUYEN Pass 128 0002 BA RIN PHAM Z 0003 THI MAI ANH DO Council of Europe Level A1 112 0004 KHOI

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Upper-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YE

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Upper-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YE Class: Upper-Intermediate 1 History Economics Math Biology Physics Chemistry 1 Le Hai An 8.3 8.7 8.8 9.0 9.4 9.6 7.4 9.1 8.8 B 2 Hoang Truc Anh 7.1 5.5 7.2 7.4 8.0 7.7 6.0 6.9 7.0 C 3 Nguyen Phu Cuong

More information

Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC

Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC DIEM 093xxxxx779 1,000,000 3 NGUYEN TIEN DUNG 090xxxxx796

More information

NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do

NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do - Hanh phuc Dia< M3D1 16/12/201 ~.98 T*. Khai,HaN6i

More information

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name   Speaking Listening Grammar RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Chemistry Mathemati 1 Le Hai An 8.9 9.0 7.6 7.7 9.9 7.4 7.3 9.0 8.4 B 2 Le Minh Anh 7.1 5.6 6.6 5.4 7.3 7.7 7.7 5.3 6.6 C 3 Hoang Truc

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Date of issue: Ja

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Date of issue: Ja Class: Intermediate 1 Geograph Histor Econom ic Math Phsics Chenistr GPA 1 Vu Nhat Chuong 8.9 9.0 6.4 8.6 7.6 6.5 7.5 7.0 7.7 C 2 Nguen Tran Anh Du 9.0 8.9 6.7 8.3 8.7 8.4 7.6 8.2 8.2 B 3 Do Le Y Duen

More information

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers 2.1 Name Speaking RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR List

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers 2.1 Name   Speaking RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR List No. Class: Movers 2.1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Writing Social Studies Science Maths 1 NGUYEN HOANG ANH 8.8 9.7 8.6 9.7 9.8 9.9 9.8 9.2 9.4 High Distinction 2 DOAN NGOC TRUC GIANG 8.6 9.8

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG H

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG H DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG HA 2,000,000 2 Sở giao dịch NGUYEN PHUOC MINH DUC 2,000,000

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: TOEFL Beginner 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR 2

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: TOEFL Beginner 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR 2 Class: TOEFL Beginner 1 Speaking Listening Grammar Reading & Literature Geography History Economics Math Biology Physics Chemistry 1 Le Hai An 8.9 9.2 8.3 9.2 8.7 9.6 8.2 8.9 8.9 B 2 Hoang Truc Anh 8.7

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Starters RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLIS

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Starters RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLIS Class: Starters 2.1 No. Name Speaking Listening Grammar Social Studies Science 1 PHAM HUYNH LOC AN 7.5 7.4 6.7 8.7 5.9 6.9 8.0 7.4 7.3 Pass with Merit 2 JI YOU BIN 7.8 10.0 10.0 9.5 9.0 7.5 9.3 9.3 9.1

More information

GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM NHCT SAM SON HUA THANH PHONG NHCT CA

GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM NHCT SAM SON HUA THANH PHONG NHCT CA GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN 1294090 NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM 6327127 NHCT SAM SON HUA THANH PHONG 0737415 NHCT CA MAU NGUYEN THI CAI 6532757 NHCT QUANG NINH NGUYEN

More information

Final Index of Viet Ad Person.xls

Final Index of Viet Ad Person.xls 11000-001 Truong Tan Sang 11000-002 Nguyen Thi Doan 12100-001 Nguyen Phu Trong 12220-001 Nguyen Phu Trong 12220-002 Truong Tan Sang 12220-003 Nguyen Tan Dung 12220-004 Nguyen Sinh Hung 12220-005 Phung

More information

THÔNG CÁO BÁO CHÍ

THÔNG CÁO BÁO CHÍ HỘI SỰ NGHIỆP TỪ THIỆN MINH ĐỨC Minh Duc Charitable Foundation (MDCF) 明德慈善事業基金會 Website: http://www.tuthienminhduc.com Địa chỉ: Chùa Trung Lâm, xã Tân Xã, Thạch Thất, Hà Nội Số 242A Minh Khai, Quận Hai

More information

Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải

Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải 法輪大法義解 Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải 李洪志 Lý Hồng Chí Lời nói đầu Để làm tốt hơn nữa công tác phụ đạo Pháp Luân Đại Pháp, và theo yêu cầu của Hội Nghiên cứu và các trạm phụ đạo các nơi, [một số] giảng Pháp

More information

Tinh Tan Yeu Chi 3

Tinh Tan Yeu Chi 3 法輪大法 Pháp Luân Đại Pháp 精進要旨三 Tinh Tấn Yếu Chỉ 3 李洪志 Bản dịch tiếng Việt trên Internet http://phapluan.org http://vi.falundafa.org MỤC LỤC Lời chúc đến Pháp hội tại New York...1 Sư phụ chúc mừng năm mới...1

More information

DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG HO THI MY QUYEN NGUYEN THANH VINH LAM QUA

DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG HO THI MY QUYEN NGUYEN THANH VINH LAM QUA DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG 1 28342753 HO THI MY QUYEN 2 28259949 NGUYEN THANH VINH 3 28265356 LAM QUANG DAT 4 23156836 NGUYEN NGOC NHO 5 26231419 NGUYEN

More information

Giáo trình tư duy thơ hiện đại Việt Nam

Giáo trình tư duy thơ hiện đại Việt Nam G'.0000016852 A I H O C Q U O C G I A H A NGUYEN BA THANH g i A o t r i n h i n DUY TH0 HIEN DAI VIET NAM O K ] O D G Ha NQI NHA XUAT BAN DAI HOC QUOC GIA HA NO' GIAOTRiNH TITDUY THAT HIEN DAI VIET NAM

More information

BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0CfflNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, n

BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0CfflNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, n BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0ClNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, nang cao chat hrong, hieu qua boat dong cua Lien hiep

More information

Bốn bài thi của Phó đại sĩ

Bốn  bài  thi  của  Phó  đại  sĩ 1 Bốn bài thi của Phó đại sĩ Tác giả : Văn Thận Độc Dịch giả : Dương Đình Hỷ Phó đại sĩ (497-569) là một cư sĩ đời Tề, Lương người huyện Nhĩa Ô nay thuộc tỉnh Triết Giang. Năm 16 tuổi lấy Lưu thị, sanh

More information

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng 5 nam 017 V/v huong din danh gia, hoan thanh h6 so BDTX nam hoc 016-017 Thuc hien KS

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH "HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA" Giai đoạn 1: Từ 28/4/ /5/2016 STT GI

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA Giai đoạn 1: Từ 28/4/ /5/2016 STT GI DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH "HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA" Giai đoạn 1: Từ 28/4/2016-27/5/2016 1 GIAI 01: MAY ANH VO TIEN HUY AN DUONG 2 GIAI 01: MAY ANH

More information

TIEM LUC CAN BANG-BAOVE SINH THAI VA PHAT TRIEN NONG THON QUA XAY DUNG HE THONG CHAN NUOI GIA CAM DAC SAN TAI VIETNAM

TIEM LUC CAN BANG-BAOVE SINH THAI VA PHAT TRIEN NONG THON QUA XAY DUNG HE THONG CHAN NUOI GIA CAM DAC SAN TAI VIETNAM The role of Old Hungarian Poultry Breeds in development of poor regions with regards to agrarian environmental protection and gene conservation in Vietnam VAI TRO CAC GIONG GIA CAM CHAN THA HUNGARY TRONG

More information

CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON XX

CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON XX CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON 457353XXXXXX8443 LE HONG THUY TIEN 230,000 2 HAI PHONG 478097XXXXXX3147

More information

Microsoft Word - VIETFAIR's EXHIBITION SCHEDULE 2018 (Vietnamese Version) - update 28.9

Microsoft Word - VIETFAIR's EXHIBITION SCHEDULE 2018 (Vietnamese Version) - update 28.9 KẾ HOẠCH HỘI CHỢ TRIỂN LÃM (CHỦ YẾU) NĂM 018 do Công ty VIETFAIR tổ chức thực hiện TẠI HÀ NỘI STT Tên Hội chợ, Triển lãm Thời gian Địa điểm tổ chức Nội dung, quy mô Đơn vị chủ trì, ủng hộ, phối hợp Ghi

More information

TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ s

TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ s ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ TÒA THÁNH TÂY NINH TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Chú Giải TRẦN VĂN RẠNG 2010 TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info.

More information

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa 觀無量壽佛經 疏鈔演義 Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Tịnh Không Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Giảo chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang Quán Vô Lượng Thọ

More information

MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM)

MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM) MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM) TAP DOAN HOA CHAT VIET NAM CONG TY CO PHAN BOT GIAT

More information

UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIE

UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIE UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Xu- do - Hanh phiic Hd Tinh, ngdy/flf

More information

_x0001_ _x0001_

_x0001_	_x0001_ 1 BAO DO 2 HO NGUYEN 3 TAM PHAM 4 MY LINH TONG 5 THU DO 6 HONG NGUYEN 7 THOM NGUYEN 8 BINH VO 9 MY LE VO 10 HAI DUONG NGUYEN 11 DAO THI NGUYEN 12 LAN NGUYEN 13 ROMAI THI NGUYEN 14 TOAN NGUYEN 15 PHI VO

More information

Microsoft Word - Duoc Su_ready for print.doc

Microsoft Word - Duoc Su_ready for print.doc Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Thiển Thích Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Lược Giảng 1 Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch Tuyên Hóa

More information

KINH VÀO HỌC

KINH VÀO HỌC KINH VÀO HỌC (Giọng nam xuân) KINH VĂN Đại từ phụ xin thương khai khiếu, Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ, Gần điều nên, lánh lẽ hư, 4. Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn. Dò đường Thánh khó khăn chẳng

More information

PHÁP LUÂN CÔNG 法輪功 Lý Hồng Chí 李洪志 MỤC LỤC Chương I Khái luận...1 I. Khởi nguồn của khí công...1 II. Khí và công...2 III. Công lực và công năng...3 1. Công lực là dựa vào tu tâm tính mà xuất lai...3 2.

More information

UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi,

UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi, UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi, kiem ta danh gia tong cac ky thi ket thuc hoc phan

More information

2015 Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES) Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gi

2015 Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES) Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gi TÀI LIỆU DỊCH TLD-11 TẦM NHÌN VÀ HÀNH ĐỘNG THÚC ĐẨY CÙNG XÂY DỰNG VÀNH ĐAI KINH TẾ CON ĐƯỜNG TƠ LỤA VÀ CON ĐƯỜNG TƠ LỤA TRÊN BIỂN THẾ KỶ XXI Cơ quan ban hành: Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia, Bộ

More information

PwC 2

PwC 2 www.pwc.com/vn Sổ tay thuế Việt Nam 2016 PwC 1 PwC 2 Mục Lục Hệ Thống Thuế Tổng quan 5 Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp ( TNDN ) 7 Thuế suất Ưu đãi thuế TNDN Xác định thu nhập chịu thuế TNDN Các khoản chi không

More information

CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN

CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN CHUONG TRINH TAp HuAN Sau khi ky HQ'P dong tham gia ban hang da c~p voi Cong ty, Nha phan phoi c6 nghia vu hoan

More information

* Tiểu kết chương CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ PHẬT GIÁO THỜI MINH MẠNG ( ) Đặc điểm Phật giáo thời Minh Mạng ( ).

* Tiểu kết chương CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ PHẬT GIÁO THỜI MINH MẠNG ( ) Đặc điểm Phật giáo thời Minh Mạng ( ). MỤC LỤC MỞ ĐẦU... 1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI... 1 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU... 2 3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU... 2 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU... 3 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN... 4 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN

More information

2. Quê quán 3. Tên họ 4. Chức tước 5. Lão tử với Khổng tử có gặp nhau không? Khổng tử có hỏi Lão tử về lễ không? 6. Lão tử có phải là Lão Lai tử không

2. Quê quán 3. Tên họ 4. Chức tước 5. Lão tử với Khổng tử có gặp nhau không? Khổng tử có hỏi Lão tử về lễ không? 6. Lão tử có phải là Lão Lai tử không Nguyễn Hiến Lê Lão Tử Đạo Đức Kinh MỤC LỤC Vài lời thưa trước Phần I: ĐỜI SỐNG và TÁC PHẨM Chương I: Đời sống 1. Sự tích Lão tử 1 Lão Tử - Đạo Đức Kinh Nguyễn Hiến Lê www.thienquan.net 2. Quê quán 3. Tên

More information

Viện nghiên cứu Phật học

Viện nghiên cứu Phật học Mục lục Lời nói đầu CHƯƠNG I Phần dẫn luận: Khái quát về 5 việc của Đại Thiên và phương pháp nghiên cứu CHƯƠNG II Thảo luận về những nguồn tư liệu liên quan đến Đại Thiên và 5 việc của ông 1. Vấn đề văn

More information

So tay di cu an toan.indd

So tay di cu an toan.indd Bộ ấn phẩm: Sáng kiến phòng chống mua bán người và di cư không an toàn Sổ tay di cư an toàn World Vision International 2014 ISBN 978-0-918261-41-0 Tầm nhìn Thế giới (TNTG) là tổ chức nhân đạo Cơ đốc, thực

More information

CONG TY CP NHI/A BINH MINH CQNG HOA XA HQI CHU NGHIA VlfT NAM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DAI HQI CO DONG

CONG TY CP NHI/A BINH MINH CQNG HOA XA HQI CHU NGHIA VlfT NAM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DAI HQI CO DONG CONG TY CP NHI/ BINH MINH CQNG HO X HQI CHU NGHI VlfT NM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DI HQI CO DONG THUONG NIEN NM 2018 - Can cu Luat Doanh nghiep so 68/2014/QH13

More information

Microsoft Word - Sachvck1.doc

Microsoft Word - Sachvck1.doc OSHO OSHO Tín Tâm Minh Sách về Cái không HSIN HSIN MING The Book of Nothing HÀ NỘI 3/2010 @ OSHO INTERNATIONAL FOUNDATION Mục lục Tín Tâm Minh - Sách về cái không Copyright 2000 Osho International Foundation,

More information

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG DỊCH VỤ SACOMBANK EBANKING Sacombank ebanking phiên bản Ngân hàng điện tử mới Ưu việt Thân thiện An toàn Hãy trải nghiệm các chức năng nổi trội của Sacombank - ebanking: Cá nhân hóa giao

More information

2 TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI Kỉnh nguyện hồi hướng cho âm siêu dương thới, quốc thái dân an, đạo pháp trường lưu, chánh giáo hoằng dương, vạn linh thức tỉnh h

2 TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI Kỉnh nguyện hồi hướng cho âm siêu dương thới, quốc thái dân an, đạo pháp trường lưu, chánh giáo hoằng dương, vạn linh thức tỉnh h ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ T H I Ệ N Q U A N G TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI IN LẦN THỨ NHẤT Nhà xuất bản San Martin, California, USA Vía Đức Quan Âm 19-9 Giáp Ngọ (2014) 2 TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI Kỉnh nguyện hồi hướng cho

More information

2 汉语和越南语形容词的体 Trí thông minh về vận động (bodily/kinesthetic): Những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua cách vận động và sử

2 汉语和越南语形容词的体 Trí thông minh về vận động (bodily/kinesthetic): Những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua cách vận động và sử 1 汉语和越南语形容词的体 ỨNG DỤNG THUYẾT ĐA TRÍ TUỆ TRONG VIỆC GIẢNG DẠY TIẾNG TRUNG TẠI KHOA ĐÔNG PHƢƠNG ThS. Hoàng Thị Thu Thủy Bộ môn Trung Quốc học, khoa Đông phương học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

More information

hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng. Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một

hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng. Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một 1 Sự hình thành và phát triển Thiền phái Trúc Lâm Thích Như Pháp Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được gắn liền với tên tuổi của Ngài, với dòng Thiền do Ngài mở lối, là một đại nhân duyên không phải tầm thường

More information

Hình này cho thấy, từ giáp cốt văn đến kim văn, đại triện đều là dưới mái nhà có hình con heo. Tiểu triện và lệ thư có bộ 宀 (miên, nghĩa là mái nhà),

Hình này cho thấy, từ giáp cốt văn đến kim văn, đại triện đều là dưới mái nhà có hình con heo. Tiểu triện và lệ thư có bộ 宀 (miên, nghĩa là mái nhà), Gia đình, gia thất Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ấn định đường hướng mục vụ cho Giáo Hội tại Việt Nam trong năm 2014 là năm Tân Phúc-Âm-Hoá đời sống gia đình. Logo năm gia đình của Tổng Giáo Phận Tp.HCM là

More information

BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve d

BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve d BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve dy an Luat Nhap canh, xuat canh, cu tru cua ngiroi nircrc

More information

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG DỊCH VỤ SACOMBANK EBANKING Sacombank ebanking phiên bản Ngân hàng điện tử mới Ưu việt Thân thiện An toàn Hãy trải nghiệm các chức năng nổi trội mới của Sacombank - ebanking: Cá nhân hóa

More information

H

H H.T. THÍCH TRÍ THỦ Chủ trương LÊ MẠNH THÁT Chủ biên TỰ ĐIỂN BÁCH KHOA PHẬT GIÁO VIỆT NAM A Tập II Từ A Di Đà (Tịnh Độ Giáo) đến A Di Đà Tự Phật Lịch 2548 TL 2004 Lời Tựa Từ điển BÁCH KHOA PHẬT GIÁO VIỆT

More information

Danh Sách Mã Dự Thưởng Chương Trình Bốc Thăm May Mắn Tháng 6/2018 Mã số dự thưởng cho Khách hàng tham gia chương trình bốc thăm may mắn tháng 6/2018 L

Danh Sách Mã Dự Thưởng Chương Trình Bốc Thăm May Mắn Tháng 6/2018 Mã số dự thưởng cho Khách hàng tham gia chương trình bốc thăm may mắn tháng 6/2018 L Danh Sách Mã Dự Thưởng Chương Trình Bốc Thăm May Mắn Tháng 6/2018 Mã số dự thưởng cho Khách hàng tham gia chương trình bốc thăm may mắn tháng 6/2018 Lucky draw entries for Lucky Draw Program for cycle

More information

The Sutra of the Past Vows of Earth Store Bodhisattva

The Sutra of the Past Vows of Earth Store Bodhisattva Câ m Nang Thiê n I: Tư Ho c Thiê n Thi ch Vi nh Ho a LƯ SƠN TƯ Lu Mountain Temple 7509 Mooney Drive Rosemead, CA 91770 USA Tel: (626) 280-8801 Xuâ t ba n lâ n thư nhâ t, ISBN 978-0-9835279-6-1 Copyright:

More information

Số 76 Bản Tin Thế Đạo ngày

Số 76 Bản Tin Thế Đạo ngày Baûn Tin Theá Ñaïo Soá 76 ngaøy 19-3-2017 TIN ÚC CHÂU: Tường Trình thành lập Điện Thờ Phật Mẫu tạm tại Châu Đạo Victoria, Melbourne, Úc Châu Điện Thờ Phật Mẫu theo mô hình mẫu số 3 do Hội Thánh thiết kế

More information

GU285_VNM_Cover.indd

GU285_VNM_Cover.indd GU285 Hướng dẫn Sử dụng www.lgmobile.com P/N : MMBB0353931 (1.0) ELECTRONICS INC. GU285 Hướng dẫn Sử dụng TIẾNG VIỆT 简体中文 ENGLISH Bluetooth QD ID B015843 Một số nội dung trong sách hướng dẫn này có thể

More information

UBND TINH SON LA SO' GIAO DUC VA BAO TAO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ttr do - Hanh phuc S6: 1341/KH-SGDDT Son La, ngay 28 thdng 9 na

UBND TINH SON LA SO' GIAO DUC VA BAO TAO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ttr do - Hanh phuc S6: 1341/KH-SGDDT Son La, ngay 28 thdng 9 na UBND TINH SON LA SO' GIAO DUC VA BAO TAO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ttr do - Hanh phuc S6: 1341/KH-SGDDT Son La, ngay 28 thdng 9 nam 2018 KE HOACH Boi duong thuong xuyen can bo quan

More information

Liêt Tử Và Dương Tử

Liêt Tử Và Dương Tử Liêt Tử Và Dương Tử Tác giả: Thể loại: Trung Hoa Website: Date: 24-October-2012 Trang 1/54 NHÂN VẬT LIỆT NGỰ KHẤU Trước hết về bản thân Liệt tử, có một số học giả còn nghi ngờ. Như Cao Tự Tôn (thế kỉ XII),

More information

Phục hồi chức năng bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não

Phục hồi chức năng bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não Cao D ing Y te Plu'i Thp - Tlur vi?n PGS.TS. BSCC TRAN VAN CHUONG PHUC Hdl CH LfC NANG b n h n h a n l i t n u a n g u o i D O T A I B IE N M A C H M A U N A O NHA XUAT BAN Y HOC Ha Noi - 2010 PGS. TS.

More information

Bí quyết niệm Phật tu tâm của pháp sư Sơn Ðường

Bí quyết niệm Phật tu tâm của pháp sư Sơn Ðường NIỆM PHẬT PHÁP YẾU 念佛法要 Cư sĩ Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính sưu tập ( 惕園毛凌雲敬緝 ) Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa (theo bản in năm 2002 của Tịnh Tông Học Hội Dallas, TX) Phật Lịch 2546-2002 Lời

More information

Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp

Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp chuyên môn của mình. Chúng tôi cùng nhau chuẩn bị

More information

Mục lục TỦ SÁCH PHẬT HỌC TỪ QUANG TẬP 9 Tháng 7 năm 2014 (PL. 2558) TRONG TẬP NÀY: Chánh Trí : Đại Trai đàn Chùa Xá Lợi Pháp sư Diễn Bồi : Nhơn quả củ

Mục lục TỦ SÁCH PHẬT HỌC TỪ QUANG TẬP 9 Tháng 7 năm 2014 (PL. 2558) TRONG TẬP NÀY: Chánh Trí : Đại Trai đàn Chùa Xá Lợi Pháp sư Diễn Bồi : Nhơn quả củ T Ủ SÁCH PHẬ T HỌ C - T Ừ QUANG TẬ P 9 1 Mục lục TỦ SÁCH PHẬT HỌC TỪ QUANG TẬP 9 Tháng 7 năm 2014 (PL. 2558) TRONG TẬP NÀY: Chánh Trí : Đại Trai đàn Chùa Xá Lợi Pháp sư Diễn Bồi : Nhơn quả của Phật pháp

More information

Ngân hàng câu hỏi thi, kiểm tra môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

Ngân hàng câu hỏi thi, kiểm tra môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin TS. PHAM VAN SINH (Chu bien) NGAN HANG CAU HOI THI, KlfeM TRA MON NHUNG NGUYEN LY C(T BAN CUA CHU NGHIA MAC - LENIN (Dung lam tai lieu tham khao phuc vu thi, kiem tra cho cac trirang dai hoc, cao d^ng)

More information

Eyes of Compassion Relief Organization Ngày Nhận Check Date Tỉnh bang Province USD CAD VND Người Đóng Góp - Benefactor Chuyển tiền 16/01/2017 Transfer

Eyes of Compassion Relief Organization Ngày Nhận Check Date Tỉnh bang Province USD CAD VND Người Đóng Góp - Benefactor Chuyển tiền 16/01/2017 Transfer Eyes of Compassion Relief Organization Ngày Nhận Check Date Tỉnh bang Province USD CAD VND Người Đóng Góp - Benefactor Chuyển tiền 16/01/2017 Transfer date Rate: 22735 20-Dec-16 Phac Nguyen CA 400.00 23-Dec-16

More information

LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI

LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI - DỰ BÁO V -NHẦM LẪN GIỮA CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG VI

More information

Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD)

Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD) Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD) 大越 國總覽圖 Trần Việt Bắc (Tiếp theo) Như đã trình bày trong phần trước theo như Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn đã ghi: - Là bản-đồ nước ta do hai Đại-tướng nhà

More information

Luật hải quan Việt Nam và quốc tế

Luật hải quan Việt Nam và quốc tế TRl/CSNG DAI HOC KINH TE Q U O C DAN KHOA THLfflNG MAI VA KINH TE QUOC TE' Chu bien: PGS. TS. NGUYEN THlTA LOC WIMAN (XMf; NHA XUAT BAN DAI HOC KINH TE Q UO C DAN TRLTCJNG DAI HOC KINH TE QUOC DAN KHOA

More information

MỤC LỤC MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU (trang ) CHƯƠNG I: (trang ) TÂN GIÁO CAO-ĐÀI 新教高臺 1- Đạo tâm bửu giám 2- Vạn vật phụ âm nhi bảo dương,trung

MỤC LỤC MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU (trang ) CHƯƠNG I: (trang ) TÂN GIÁO CAO-ĐÀI 新教高臺 1- Đạo tâm bửu giám 2- Vạn vật phụ âm nhi bảo dương,trung ĐẠO-TÂM BỬU-GIÁM 道心寶鑑 Nữ Soạn-giả NGUYÊN-THUỶ Mùa Hội-Yến Diêu-Trì-Cung Năm Bính-Tuất (2006) Ấn bản 09-2008 Tài liệu tham khảo kính biếu. http://dichlycaodai.com/ MỤC LỤC MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU (trang 001-004)

More information

2

2 HIỆN THÀNH CÔNG ÁN 1 2 ĐA O NGUYÊN HY HUYÊ N HIÊṆ THAǸH CÔNG AŃ Bi nh gia : Shohaku Okumura va ca c ta c gia kha c Biên di ch: Thuâ n Ba ch va Huê Thiê n 2014 3 4 HIÊ N THA NH CÔNG A N 1 (Âm) 1- Chư pha

More information

Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai. info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ sót, có thể có, xin vui lòng gởi điệ

Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai. info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ sót, có thể có, xin vui lòng gởi điệ ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ TÒA THÁNH TÂY NINH THIÊN NHÃN THẦY Nữ Soạn Giả NGUYÊN THỦY Năm Mậu Tý 2008 Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai. info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi

More information

font chữ Arial Unicode MS Standard hoặc Chu Nom Minh download ở đây: (arialuni.rar, độ lớn 13MB) hoặc (taifont.zip, độ lớn 5.3MB). Nói đến Kinh dịch d

font chữ Arial Unicode MS Standard hoặc Chu Nom Minh download ở đây: (arialuni.rar, độ lớn 13MB) hoặc (taifont.zip, độ lớn 5.3MB). Nói đến Kinh dịch d Kinh dịch - Đạo của người quân tử Nguyễn Hiến L ê Mục lục Lời nói đầu Lời nói đầu của Nguyễn Hiến Lê Chương 1 : NGUỒN GỐC KINH DỊCH VÀ NỘI DUNG PHẦN KINH Chương 2 : NỘI DUNG PHẦN TRUYỆN Chương 3 : CÁC

More information

Microsoft Word _09_04__DS_08__Part_1_Bai_So_00_09_Nghien_Cuu_Bien_Khao_Editing_OK.doc

Microsoft Word _09_04__DS_08__Part_1_Bai_So_00_09_Nghien_Cuu_Bien_Khao_Editing_OK.doc Một Cách Thiền Để Dưỡng Sinh Trong Thái Cực Quyền (Trích sách TẬP THÁI-CỰC DƯỠNG SINH, Let s Practice Nutri-Living TaiChi Exercises! Đỗ Quang-Vinh, Canada, 2013) Giáo Sư Đỗ Quang-Vinh 1-Thái-cực-quyền

More information

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUG VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET Boc lap - Ty do - Hanh phiic NAM S6:^^0 /KH-GD&DT Khdnh San, ngay2, ^ th

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUG VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET Boc lap - Ty do - Hanh phiic NAM S6:^^0 /KH-GD&DT Khdnh San, ngay2, ^ th UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUG VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET Boc lap - Ty do - Hanh phiic NAM S6:^^0 /KH- Khdnh San, ngay2, ^ thdng 4 nam 2017 KE HOACH Xet duyet Sang kien kinh nghiem

More information

I CONG TY CP DAU Tir THUONG MAI SMC CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu- do - Hanh phuc So: 1 3 /2016/SMC TPHCM, ngay 12 thang 01 nam 2016

I CONG TY CP DAU Tir THUONG MAI SMC CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu- do - Hanh phuc So: 1 3 /2016/SMC TPHCM, ngay 12 thang 01 nam 2016 I CONG TY CP DAU Tir THUONG MAI SMC CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu- do - Hanh phuc So: 1 3 /2016/SMC TPHCM, ngay 12 thang 01 nam 2016 BAO CAO TINH HINH QUAN TRI CONG TY NAM 2015 Kinh gu-i:

More information

Ban đầu, con tập dùng hạnh lắng nghe, để tư duy phân biệt tốt xấu, động tĩnh Sau đó tu tập quán chiếu vào tánh nghe không phân biệt, quên hẵn tiếng ng

Ban đầu, con tập dùng hạnh lắng nghe, để tư duy phân biệt tốt xấu, động tĩnh Sau đó tu tập quán chiếu vào tánh nghe không phân biệt, quên hẵn tiếng ng Sự Giác Ngộ và Hóa độ của Bồ tát Quán Thế Âm qua Triết lý Tánh Không - Bát Nhã I-Duyên khởi: Trong nhiều bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, có nói về Bồ tát Quán Thế Âm; một vị Bồ tát luôn luôn khởi lòng

More information