Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info. Mọi góp ý, đề nghị thay đổi, sửa chữa những sơ sót, có thể có, xin vui lòng gởi e

Size: px
Start display at page:

Download "Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info. Mọi góp ý, đề nghị thay đổi, sửa chữa những sơ sót, có thể có, xin vui lòng gởi e"

Transcription

1 ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ TÒA THÁNH TÂY NINH CHI PHÁI CAO ĐÀI nữ soạn-giả NGUYÊN-THỦY ấn bản ngày:

2 Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info. Mọi góp ý, đề nghị thay đổi, sửa chữa những sơ sót, có thể có, xin vui lòng gởi vào địa chỉ: Thành thật tri ơn Nữ Soạn-giả Nguyên-Thủy, Ban Phụ Trách Kinh Sách Website daocaodai.info đã bỏ nhiều tâm-huyết và công sức trong việc sưu tập, biên khảo, đánh máy, in ấn ngỏ hầu Giáo-Lý Đại-Đạo được phổ truyền rộng rãi, lưu lại di-sản tinh-thần vô-giá cho thế-hệ hiện tại và nhiều thế-hệ tiếp nối mai sau. California, 31/03/2013 Tầm Nguyên 2

3 CHI PHÁI CAO ĐÀI nữ soạn-giả NGUYÊN-THỦY 3

4 4

5 Mục Lục LỜI NÓI ĐẦU CHƯƠNG I A. Chi phái Lý do nào có Chi phái? Tiên tri sự phân chia Chi phái Thầy đau lòng mà nhìn sự rạn nứt ra Chi phái Một số các Chi phái hồi đó dùng cường quyền mà đoạt-vị Hậu quả việc phân chia Chi phái a. Những hậu quả tai hại b. Trong cái dở cũng có ẩn tàng cái hay gượng ép Đạo Trời tồn tại đến thất ức niên B. Các Chi phái đầu tiên của Ðạo Cao Ðài Histoire et Philosophie du Caodaïsme của Gabriel Gobron Các Chi phái trong Ðại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ theo tài liệu ông Huệ Lương Các Chi phái còn lại C. Sáu Chi phái sau này Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt Hội Thánh Tam Quan (Phái Chơn lý Cầu Kho) Thiên Khai Huỳnh Ðạo Cao Thượng Bửu Tòa Nữ Chung Hòa Trung Hòa Học Phái D. Các nhóm nhỏ không đáng kể là Chi phái Tịch Cốc (hay Tuyệt Cốc) Ông Cao Triều Phát, phái Minh Chơn Ðạo Ông Huệ Lương Trần Văn Quế

6 4. Thông Thiên Ðài Tam Kỳ Nguyên Nguyên Bản Bản Tây Tông Vô Cực Cung Tòa Thánh Nhị Giang Tòa Thánh Tiền Giang E. Nhóm đặc biệt: Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Ðài Giáo Việt Nam F. Vấn đề qui hiệp các Chi phái Cao Ðài I. Các phong trào thống nhứt Chi phái II. Mục sư Tin lành Olliver nhận định G. Tại sao các Chi phái không thống nhứt được? CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Thái Chưởng Pháp: Hòa Thượng Như Nhãn ( ) bỏ Đạo a- Như Nhãn đòi Chùa nên toàn Đạo phải tìm mua đất làm Đền-Thánh b- Đức Hộ-Pháp nói về việc mượn chùa Từ Lâm của Hoà Thượng Giác Hải Ông Ngô Văn Chiêu ( ) A Bên lề cuộc sống của Ngài Ngô văn Chiêu Tiểu sử Ngài Ngô Văn Chiêu Quá trình Ngài Chiêu ngộ Đạo Cao Đài Thời kỳ làm việc ở Sài Gòn Đức Chí Tôn lập thêm một nhóm Phò cơ khác Sự hợp tác giữa hai nhóm Đức Chí Tôn dự bị phong Ngài Ngô Văn Chiêu vào chức Giáo-Tông Ngài Ngô Văn Chiêu tách riêng lập Chi phái

7 9. Ông Ngô văn Chiêu Lập Cơ Tuyển Độ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi Những cuộc du lịch sau cùng của cuộc đời Liễu đạo trên sông Cửu Long Tiền Giang Đám tang Ngài Ngô Minh Chiêu B- NGÀI NGÔ MINH CHIÊU GIÁNG CƠ C- Phần kết Ông Vương Quan Kỳ ( ) Đầu-Sư phái Thái: Hòa Thượng Thiện Minh, Thánh danh là Thái Minh Tinh Ông Phối Sư Thái Ca Thanh (lập Minh Chơn Lý) Phái Tiên Thiên: Giáo Hữu Ngọc Chính Thanh Phái Minh Chơn Ðạo Hai vị Quyền Đầu-Sư tách ra lập Chi Phái Bên Tre CHƯƠNG III A- Kết quả về hành động của Chi phái: Năm bức thư Bức thơ số 1:Ông Thượng Tương Thanh gởi cho Thái Ca Thanh Bức thư số 2: Ông Ngọc-Trang-Thanh gởi các Họ Đạo đề cao cảnh giác Thái-Ca-Thanh Bức thư số 3: Ông Lê-Thế Vĩnh gởi Chức-sắc và bổn Đạo nói về Lê-Bá-Trang Bức thư số 4: Thượng-Tương-Thanh gởi thơ cho Đức Hộ- Pháp Bức thư số 5: Của Đức Hộ-Pháp phúc đáp Thượng Tương Thanh B- TỜ VI BẰNG BUỔI HỌP Đại hội Vạn linh CHƯƠNG IV LỬA THỬ VÀNG GIAN NAN THỬ ĐẠO Đại công của Đức Hộ-Pháp đối với Đạo Cao Đài

8 Tinh thần tích cực của Đức cao Thượng-Phẩm Một đức hy sinh vô bờ bến của Đức Quyền Giáo- Tông Lê Văn Trung Lời Thánh giáo nói về Chi phái KẾT LUẬN

9 Đức Quyền Giáo-Tông LÊ VĂN TRUNG Toà Thánh Tây Ninh 9

10 10

11 LỜI NÓI ĐẦU LỜI NÓI ĐẦU Đức Chí-Tôn đến trong thời kỳ cùng cuối này là có duyên cớ; Đức Hộ-Pháp đã nói rằng: Chí Tôn biết rõ loài người tiến hóa tột bực mà tự đắc tự tôn, chỉ biết lo cho xác thịt mà thôi, không chuyên lo cho đệ nhị xác thân và tinh thần, nên Chí Tôn đến khai Ðạo là cố ý giáo hóa cho loài người biết rõ câu tội phước, giồi luyện cho con người tận thiện đến hiệp cùng Ngài. Nếu chúng ta biết được vậy thì toàn thể thế giới nầy những điều tinh ma quỉ quái sẽ tiêu diệt, thần tử không hề đến ta được. Nếu ta thấy được cõi Hư Linh kia, cái tình của vạn loại bị giết chóc một cách tàn nhẫn, bởi loài người kết oán thù thâm với nó, chực chờ thù ghét, vì vậy mà có vay trả luân hồi mãi mãi đọa đày, bất năng thoát tục. Mong sao chúng ta từ đây phải biết trọng lấy lẽ ấy mà luyện đệ nhị xác thân cho đủ đầy sự tinh khiết, là phải thương loài vật, phải thương tất cả để chấm dứt cái oan nghiệt ấy mà truyền bá cái hườn thuốc linh đơn nầy là đạo đức của Chí Tôn, để cứu vớt quần sanh thoát vòng đọa lạc hoàn toàn. Cả thế gian nầy biết được vậy thì chắc chắn không còn cảnh thảm khổ nầy tái diễn lại nữa. Loài người do một nguyên căn mà thôi, bởi do tâm lý và tập quán của các nước, của các sắc dân, vì cái khác ấy mà chia phôi nhau, nghịch lẫn nhau, thù địch nhau, mà tranh tranh đấu đấu không ngừng. Vậy Thánh Ý của Chí Tôn khai mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt 11

12 là muốn dung hòa tâm lý toàn cả con cái của Người để cứu vãn trọn 92 ức nguyên nhân, vì thế mà phải bị sa đoạ nơi đây. Chí Tôn đã đại từ đại bi chỉ rõ căn nguyên và ban ơn cho ta, dạy dỗ cho ta để đạt ngôi vị là phải trau luyện cho Tinh hiệp với Khí, Tinh Khí hườn Thần là cơ huyền bí để mà đắc Ðạo vậy. (Lời ĐHP:15-2 Đnh Hợi (dl ) Như vậy thì không vì một lý do gì mà nói rằng sự chia phe phân phái là do Thánh ý của Chí-Tôn, rồi bày ra cho đủ con số 12 nói đây là ý Thầy, mà nguyên ý chính là: Thầy phải bụộc các con hiệp chung trí mà lo vào đó, nghe à! Từ đây các con sẽ cực nhọc hơn, vì Thầy phân phát phận sự cho mỗi đứa, vì chẳng vậy các con sanh nạnh nhau, tựa hồ chia phe, phân phái là điều đại tội trước mắt Thầy vậy, nghe à!. Ta hãy nghe Đức Hộ-Pháp thuyết tại Đền Thánh về Chi phái, đêm 1 tháng 7 năm Kỷ Sửu (1949) rằng: Bần Đạo thuyết về Tòa Thánh đối với Chi Phái Đạo và các Đảng Phái Đời. Chúng ta đã đến giai đoạn phải ra gánh vác đảm nhiệm trọng trách đặng nâng đời, đặng dung hòa các Tôn giáo, đảm nhiệm ấy không dễ gì làm, nếu tinh thần chúng ta không quyết đoán định phận mình cho quả quyết. Vả chăng, Tòa Thánh là nơi Thánh Thể Đức Chí Tôn cầm quyền Đạo Giáo. Về mặt Đạo giá trị của nó thiên hạ định đặng là do nơi hành tàng của toàn thể con cái Đức Chí Tôn, tức toàn Thánh Thể của Ngài vậy. Bần Đạo còn nhớ lại buổi mới mở Đạo tại Tây Ninh 12

13 LỜI NÓI ĐẦU nầy, về một lời quả quyết của Đức Chí Tôn, đã hứa với chúng sanh, Ngài quyết hẳn rằng: Chi chi cũng tại Tây Ninh nầy mà thôi, bất kỳ dầu Thể pháp hay là Bí pháp, dầu cả hình trạng Đạo Giáo hay tướng diện của nền Tôn Giáo của Ngài xuất hiện đều do nơi nầy mà thôi. Buổi ấy ai cũng phân vân, Bần Đạo cũng vậy, mà chắc con cái Đức Chí Tôn cũng như Bần Đạo. Buổi nọ nền chơn truyền của Chí-Tôn chưa ra thiệt tướng, bởi xuất hiện nhằm thời buổi đó khó mà định hình thể được, là vì quyền đời đương cường liệt ép bức, về quyền Đạo các nền Tôn Giáo đương thời đủ năng lực, đủ oai quyền có thể diệt tiêu nó đặng mà chớ. Lại nữa cả con cái Ngài buổi nọ không bao nhiêu, Đạo mới mở ra nên còn thiểu số, phần nhiều là những kẻ thường nhơn nghèo khó. Mấy tay cầm giềng mối Đạo buổi ban sơ cũng bơ vơ không biết lập phận mình, chính Bần Đạo buổi nọ khi nghe Đức Chí Tôn nói chi chi cũng tại Tòa Thánh Tây Ninh nầy mà thôi. Ngó lại thấy hiện tượng của Đạo nghèo đến nước không phương thế làm chùa để mượn Từ Lâm Tự của nhà Thiền tức của Hòa-Thượng Giác-Hải làm mới nửa chừng, họ muốn cho mượn đặng lợi dụng mình làm cho xong. Xuất của ra làm, chừng mở Đạo vừa xong quyền Đời quyền Đạo xúm lại đè nén muốn hạ nhục làm cho rẻ giá trị, đòi chùa lại, đuổi đi. Thật vậy, họ đuổi đi, phải đi cấp thời, mua được đất Long Thành ngó lại toàn rừng già thú dữ đầy cọp beo đủ thứ. Như thế ấy mà nói chi chi cũng tại Tòa Thánh Tây Ninh nầy mà thôi. Nếu buổi ấy ai đức tin không vững chắc còn có nước trốn mà đi. Một phần đã từ bỏ Đạo vì lẽ ấy, còn những người có đức tin một chút nói rằng ở coi, coi họ làm sao tương lai sẽ như thế nào? Nếu nên thì mình theo, bằng 13

14 không nên thì đả đảo rồi bỏ đi. Như vậy mà vẫn còn một đám người nữa vì thương chúng sanh kính trọng con cái Đức Chí Tôn đem đức tin để trọn vẹn nơi Ngài lo lắng cho tương lai của nhơn sanh, tự hỏi: nếu lời hứa của Đức Chí Tôn không thành tựu thì Đạo Cao Đài thành sao đặng, vì cớ, những kẻ ấy đem tất cả nhiệt huyết của mình đặng cứu dân, lời hứa của Đức Chí Tôn đem cả đức tin thực hiện cho thành tựu mong mỏi cứu tình thế, thấy khổ nhơn loại mà hy sinh tạo nghiệp. Bần Đạo ngó lại hai mươi mấy năm rồi biết bao nhiêu sanh mạng về gởi rừng nầy, nơi nước độc bệnh chướng, nhìn lại Thánh Địa biết bao nhiêu mồ mã, biết bao xương máu. Lớp nào còn sống thì làm nô lệ cho Đời đặng tạo nghiệp cho Đạo, hình trạng thành tướng ngày nay là do giọt máu, mồ hôi nước mắt của con cái Chí Tôn, tạo ra đó vậy. Vì cớ, buổi ban sơ Đạo hèn hạ bị ép bức hiếp đáp, đời kiếm thế ra trước luật hình nên mới có tấn tuồng Chi phái nổi lên đủ thứ hết, mấy người biết chi phái ấy là gì không? Là những kẻ chạy non! Bần Đạo muốn nói những kẻ đó, đã chạy, mình cầm lại sao đặng, chạy đi đâu thì chạy. Họ tạo ra Chi phái, họ nói quả quyết Ông Trời ở đây không phải ông Trời của họ. Họ nhứt định tạo ra một ông Trời riêng rồi sau đến mình phải chịu đóng cửa đặng cho thiên hạ quên thị nhục chưởi mắng, đóng cửa đặng đào tạo những em út có tâm hồn nhẫn nại, ngày nay nghiệp Đạo ra thế nầy. Ngó lại 24 năm mấy em làm xong chuyện đó, nghiệp Đạo giờ phút nầy đã cao trọng rồi đa! Đã quá lằn mực thiên hạ khi rẻ, dường như đã đến đài vinh quang. Đài vinh quang ấy tưởng lập ra vững chắc rồi không còn sợ ai nữa, chẳng những không sợ mà thôi mà có thể làm chủ 14

15 LỜI NÓI ĐẦU của Đời và Đạo nữa. Mấy em! Bần Đạo đứng trước giảng đài nầy thừa lịnh Đức Chí Tôn, làm Anh cả mấy em để lời tâm huyết dặn rằng: Buổi mấy em bị áp bức, mấy em sợ, phải bảo vệ tức là phải tranh đấu, giờ phút nầy mấy em mạnh rồi, có đủ oai quyền, đủ năng lực nên bỏ phương pháp tranh đấu ấy đi, trải lớp từ bi ra đặng độ thế. Qua cho mấy em biết đại nghiệp của Đạo ngày nay đáng làm anh, làm chủ được thiên hạ, không cần tranh đấu nữa, lấy từ bi mà đối với Đảng Phái một lỗi hai lầm, ngày nay ăn năn trở lại. Mấy em nhớ rằng Đền Thờ nầy là Đền Thờ chung của toàn con cái Đức Chí Tôn, không phải của riêng mấy em tuy hữu công đào tạo, nhưng không phải mấy em làm chủ, toàn con cái Đức Chí Tôn làm chủ. Người ta về đừng có bạc đãi khi rẻ mích lòng Đức Chí Tôn, trái ngược lại Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, lấy tình ái vô cực của Đức Chí Tôn, lấy hình ảnh Đại Từ Bi an ủi họ, nhường nơi ăn chỗ ở cho họ, đặng họ cứu vãn chúng sanh về phần hồn ấy là lời tâm huyết. Qua cầu xin nơi mấy em đối với các Đảng Phái Quốc Sự Đạo của mấy em như cây cao mát mẻ, như nước suối trong veo tinh khiết, họ cũng muốn trú ngụ cho mát mẻ tâm hồn, họ đến nương bóng nơi mấy em đặng lập thanh danh của họ. Mấy em nên từ bi, bác ái, nâng đỡ họ, cả em út can đảm hy sinh mạng sống để bảo vệ tài lợi của họ không kể công. Họ đến nương Đạo với sự che chở của mấy em, mấy em cho họ nương, đặng cho họ lập thân danh, họ sẽ giúp lại mấy em tạo thời cải thế. Đừng có bạc bẽo với họ, nương dựa một ngày một bữa hay bao lâu, uống nước phải biết nhơn biết nghĩa cho họ hiểu. Dầu Đế Vương chi nghiệp không giữ nhơn đạo thì 15

16 không giá trị gì hết, biểu họ coi gương mấy em đối với họ thế nào thì Tòa Thánh đối với chúng sanh giờ nầy cũng thế, giờ phút nầy họ hân hạnh, tinh thần nhân đạo ngày kia họ sẽ mưu ích lợi cho thân danh họ. Nhưng một khi đảng phái đã lập rồi, Chi phái đã chia ra hàng mấy trăm rồi, tức là loạn từ trong loạn ra rồi không lẽ không có phương pháp trị? Thật ra Đạo Nghị định thứ tám là chính yếu và khó-khăn nhất cho những ai đã bỏ Đạo Thầy ra lập Chi Phái rồi bây giờ muốn quay lại không dễ. Tuy nhiên chi phái về với tinh thần áo trắng! Đạo Nghị Định thứ tám của Đức Lý Giáo-Tông là: Những Chi phái nào do bởi Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ làm gốc lập thành mà không do nơi mạng lịnh Hội-Thánh thì cả chúng sanh chẳng đặng nhìn nhận là của Chí-Tôn và phải định quyết là Bàn Môn Tả Đạo. Quyền lực này đã thể hiện rõ khi Ông Hồ-Bảo Đạo nắm Quyền Chưởng-Quản Hiệp Thiên-Đài có dâng sớ mật xin Đức Lý hủy bỏ Đạo Nghị-định thứ tám. Đức Lý giải-thích là: Không thể hủy được, vì cái gì của Ngài và Hộ-Pháp ký là Thiên-điều, nó phải tồn-tại đến Thất ức niên.hơn nữa nó là lá bùa để trừ diệt chi-phái lồng vào nội-bộ của Đạo. Ngài nói Đạo Thiên-Chúa có một trăm mấy chục Chi-phái, Đức Giáo-Hòang không biết làm sao mà thống nhất được. Đạo Phật có hơn 300 Chi-phái cũng không một quyềnlực nào đem lại sự thống-nhứt được làm một mối. Nếu hủy bỏ Đạo Nghị-định thứ tám, Đạo Cao-Đài bị Chi phái lồng vào Hội-Thánh rồi làm sao đuổi nó ra? Nên nó là lá bùa 16

17 LỜI NÓI ĐẦU trừ sự chia rẻ. Để họ tự-do lập phái rồi họ tự tiêu-tàn với thời-gian dài hay ngắn. Quả như lời Ngài đã tiên tri, rồi mọi việc cũng đã đến và cứ lần lượt đến như phần trình bày trong các chương kế tiếp. Trong các tài liệu nghiên cứu này hân hạnh được trích từ Tự điển của Hiền Tài Hồng, của Thanh Minh và mới đây được tài liệu viết tay của Lê Ngọc Minh và rất nhiều trong Tủ sách Cao Đài ở Hải ngoại. Xin góp nhặt tài liệu gởi đến độc giả tập CHI PHÁI CAO-ĐÀI để làm quà tặng của tròn năm Mậu-Tý (2008) Nữ Soạn giả NGUYÊN THUỶ 17

18 18

19 LỜI NÓI ĐẦU CHI PHÁI Lý do nào có Chi phái? Tiên tri sự phân chia Chi phái Thầy đau lòng về sự chia Chi phái Một số Chi phái hồi đó dùng cường quyền mà đoạt vị Hậu quả về Chi phái Đạo Trời tồn tại đến thất ức niên Các Chi phái đầu tiên của Cao-Đài Histoire et Philosophie du Caodaiisme của G. Gobron Huệ Lương Trần văn Quế Các Chi phái còn lại Sáu Chi phái sau này: Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt Hội Thánh Tam Quan: Phái Cầu Kkho Thiên Khai Huỳnh Đạo Cao Thượng Bửu Toà Nữ Chung Hoà Trung Hoà Học Phái Các nhóm nhỏ không kể là Chi phái Phái Tuyệt Cốc Cao-Triều Phát: Phái Minh Chơn Đạo Ông Huệ Lương Trần văn Quế Thông Thiên Đài Tam Kỳ Nguyên Nguyên Bản Bản 19

20 Tây Tông Vô Cực Cung Toà Thánh Nhị Giang Toà Thánh Tiền Giang Nhóm đặc biệt: Cao Đài Phổ thông Giáo lý Vấn đề qui hiệp các Chi phái Cao-Đài Các phong trào thống nhứt Chi phái Mục sư Tin lành Olliver nhận định Tại sao không thống nhứt Chi phái? 20

21 A. Chi phái CHƯƠNG I A. CHI PHÁI 支派 A: The sects of Caodaism. P: Les sectes du Caodaïsme. Chi phái là những chi nhánh nhỏ do những Chức sắc gốc của Ðạo Cao Ðài Tòa Thánh Tây Ninh tách riêng tự lập ra, không còn chịu hệ thống của Hội Thánh Tòa Thánh Tây-Ninh nữa. Đó mới gọi: Chi phái Cao-Đài. Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn Thượng Ðế lập nên, được chánh thức làm Lễ Khai Ðạo vào ngày Bính Dần (Dl ). Nhớ lại trước đây còn là những ngày đi khai đàn thượng Tượng cho nhơn sanh thì tình anh em của các bậc tiền bối hết sức là khăn khít nhau trong nền Đại-Đạo. Nhưng kể từ khi Pháp Luật Đạo ra đời, nghĩa là sau khi Đức Chí Tôn ban cho Pháp Chánh Truyền và dạy lập Tân Luật để phân định quyền-hành cho các Chức-sắc để dễ bề làm việc, thì có sự rạn nứt dần. Tất nhiên khi chưa có phẩm cấp cao hạ thì tình huynh đệ có phần thân thiết nhau, nhưng khi đã có phẩm tước rồi thì vì quyền hành, lợi lộc, lớn nhỏ nên có chỗ bất đồng ý-kiến, dù là phẩm tước này do Đức Chí-Tôn ban tặng tuỳ theo quả vị Thiêng Liêng, nhưng vì tình ý riêng tư ấy mà bớt sự trọng nễ nhau rồi tự ý tách rời nhau, mỗi người lập riêng phe phái và tự ban cho phẩm tước cao tột theo như ước vọng của mình. Từ đó mới có Chia phe phân phái, rạn nứt tình cảm để sau cùng thì CHI PHÁI xuất hiện. Sau đó, một số Chức sắc cao cấp của Ðạo Cao Ðài 21

22 CHƯƠNG I không tùng phục Hội-Thánh Tòa-Thánh Tây-Ninh, nên tách riêng ra, lập Cơ bút riêng, phong thưởng Chức sắc riêng, tạo thành những Chi phái của Ðạo Cao Ðài. Xem như mỗi mỗi có một ông Trời riêng để làm Chủ. Từ năm 1928 đến năm 1934, có 5 Chi phái được lập ra có hoạt động đáng kể, nhưng vì muốn được con số 12 Chi phái, nên người ta kể thêm những nhóm nhỏ lẻ tẻ mà đúng ra không thể gọi là Chi phái (vì không có Hội Thánh) Năm Chi phái có hoạt động đáng kể lúc đầu là: Chiếu Minh (1927) Cầu Kho (1930) Minh Chơn Lý (1931) Tiên Thiên (1932) Ban Chỉnh Ðạo Bến Tre (1934). Rồi từ 5 Chi phái nầy lại nảy sanh nhiều Chi phái khác nữa, như: từ Minh Chơn Lý nảy ra Minh Chơn Ðạo, từ Chi phái Chiếu Minh vô-vi nảy ra Chiếu Minh Ðàn, Chiếu Minh Long Châu. Lần lượt chúng ta sẽ khảo sát kỹ về hình thức và sinh hoạt của các Chi phái Cao Đài này cùng tiểu sử của các vị cầm đầu các chi phái ấy. 1- LÝ DO NÀO CÓ CHI PHÁI? Thật ra từ trước tới nay, người tín hữu Cao Ðài muốn biết chính xác vì sao Đức Chí-Tôn đến lập nên mối Đại- Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ mục đích là Qui nguyên Tam giáo phục nhứt Ngũ chi rồi, tức nhiên Qui hiệp cả ba Tôn giáo lớn là Phật, Tiên, Thánh và thống hiệp các chi nhánh nhỏ lại, để tất cả nhìn về một Đấng Chúa tể càn khôn thế giới rồi. Trong khi đó thì chính những người gốc Cao-Đài, 22

23 A. Chi phái đồng là huynh đệ tương thân tương ái, cùng hầu chung một đàn Cơ, nghe lời Chí-Tôn giáo hoá, bây giờ khi tạm đủ lông đủ cánh lại chủ trương lập Chi phái, rồi cứ đứng núp sau lưng các Ðàn cơ riêng và biện minh trách móc; người không chủ trương thì hoang mang hoặc không dám bàn, sợ phạm thượng mang tội. Trước đây tôi cũng rất sợ tội khi nói ra. Nhưng khi thấy Hiền Tài Hồng và nhiều vị cũng bộc lộ ra rồi, vậy thì tôi xin bổ khuyết để cống hiến chư độc giả quí mến gần xa những sự thật từ lâu dấu kín. Người tín đồ thì chẳng hiểu bề trong, nên chỉ biết đi theo Chức sắc lãnh đạo ở địa phương mình. Hầu hết là họ có ý-nghĩ đơn giản: gần Thánh Thất nơi nào tu theo nơi ấy, đâu cũng vậy! Thành phần tín đồ trí thức hiểu biết thì khó chịu, tủi thẹn, rồi xa Ðạo, hoặc rút về tu tại gia, không muốn tham gia vào việc Ðạo hoặc đi qua Phật, Chúa Hội Thánh thì không muốn phơi bày việc không tốt của Hội-Thánh cho tín đồ biết vì sợ người ngoài biết được mà khinh rẻ cười chê và làm suy giảm tín ngưỡng, nên mong mỏi những Chức sắc lập Chi phái sớm hồi tâm: thương Thầy mến Ðạo mà trở về cùng Hội Thánh, hoặc cầu nguyện có được sự hộ trì của các Ðấng thiêng liêng để vấn đề được dàn xếp ổn thỏa êm đẹp trong tình huynh đệ.. Sự chia rẽ trầm trọng trong nội bộ của Ðạo Cao Ðài sau ngày Khai Ðạo dẫn đến sự phân chia Ðạo Cao Ðài thành nhiều Chi phái, đã làm cho biết bao thế hệ Tín đồ Cao Ðài có nhiệt tâm thương Thầy mến Ðạo phải ngậm ngùi đau khổ, hổ thẹn; nhưng chúng ta không nên vì đó mà ém nhẹm đi, cần phải phơi bày ra để phân tích tìm hiểu, rút kinh nghiệm, để từ đây đến mãi về sau, không còn đi vào vết xe đã đổ trước nữa. 23

24 CHƯƠNG I Phải hiểu rõ rằng: Đạo Thầy chỉ có MỘT! Thật ra sau khi Đức Chí-Tôn lập ra Pháp Chánh Truyền và hoàn thành Tân Luât, chính là lúc xảy ra những việc tranh tụng, tất thảy đều do từ gốc danh, lợi, quyền sinh ra mà thôi, nhỏ từ một nhà, rộng ra một nước, một thế giới tranh chấp nhau như thế, đến hậu quả là chia phe phân phái. Một bằng chứng là trận Thế chiến thứ nhất nguyên nhân cũng không ngoài sự tranh chấp nhau về: Danh, lợi, quyền mà ra! 2- TIÊN TRI SỰ PHÂN CHIA CHI PHÁI Lúc chưa chánh thức Khai Ðạo, Ðức Chí Tôn đã có cho bài thi tiên tri,có tính cách cảnh tỉnh, nhưng không ai để ý: TNHT: Ngày Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa, Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà. Chung hiệp ráng vun nền đạo đức, Bền lòng son sắt đến cùng Ta. Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu. Lại nữa: Nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều Ðạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau; nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt. Lại nữa, trước Thầy lại giao Chánh Giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh Giáo mà làm ra Phàm Giáo. Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhân loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ. Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, 24

25 A. Chi phái chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập Chánh Thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng Ðảo. Vì vậy Thầy mới lập ra có một phẩm Giáo-Tông, nghĩa là anh cả, ba phẩm Ðầu Sư, nghĩa là Giáo Hữu. Chẳng một ai dưới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của nhơn loại. Ai có đức hạnh lớn thì mới ngồi đặng địa vị của Thầy ban thưởng. Còn cả môn đệ, ai cũng như ai, không đặng gây phe, lập đảng; nhược kẻ nào phạm tội, thì Thầy trục xuất ra ngoài, cho khỏi điều rối loạn. Có người cho rằng sự phân phe chia phái là tiền định, nhưng chúng ta phải thấy rằng Thầy đã thấy trước tất cả muôn việc trong đời này: Có Dương tất có Âm, có Chánh tất có Tà, để nhân sanh phải sáng suốt mà nhận định hai lẽ luôn mâu thuẫn nhau, đừng có lầm lạc mà phải chịu ngàn muôn năm chịu sa đoạ. Vì rằng: Sự phân chia Chi phái cũng do nhơn dục nên mới đưa đến những hậu quả vô cùng tai hại cho nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn như ngày nay cứ từng bước diễn biến. Tuy nhiên khi viết về Chi phái, Soạn giả chỉ với một mục đích là nói lên những diễn tiến đã xảy ra như một màn kịch trên sân khấu hí trường, chứ chúng tôi không hề dám trách những bậc tiền bối, mà chỉ dám nói lên những tâm tình thỏ thẻ với những bạn đồng hành trên bước đường học Đạo hẳn còn nhiều lối quanh co khúc khuỷu mà thôi. 3- THẦY ĐAU LÒNG MÀ NHÌN SỰ RẠN NỨT RA CHI PHÁI Ðức Chí Tôn rất đau đớn khi phải giáng cơ nói trong Thánh Ngôn ngày 23-3-Canh Ngọ (dl ) 25

26 CHƯƠNG I Thầy phải sửa cải Thiên thơ để cho mỗi đứa được có ngày giờ và thế lực mà dìu dắt nhau cho tròn phận sự, nhưng rốt lại, Tà quyền cũng lấn lướt chất Thánh, bước tục dẫn chơn phàm. Thầy rất đau lòng mà dòm thấy con cái líu xíu bị lầm vào đường Tà quái. Ðứa thì mê tài, đứa thì ham cận sắc, đứa bị biếm vào lối lợi quyền, đứa bị xô vào nơi thất đức. Mỗi đứa mỗi nẻo, đều quăng sạch chất thiêng liêng, lầm lũi đưa tay theo mấy mươi động. Hại nữa, các con bị nó tàng ẩn xô cho dang nhau, bứt nghiến tình đoàn thể, chặt lìa dây liên lạc, giành xé cắn rứt nhau như kẻ khác nhà, gà riêng ổ, cho đừng có thế lực chi mà kình chống với chúng nó, rồi rốt cuộc lại thì các con phải lần lần bị manh mún phân chia, sa vào hang sâu vực thẵm. Thầy tưởng để cho các con lo liệu giành giựt đương cự với chúng nó, nhưng dòm Thiên thơ thì tám phần mười đã sa ngay vào chơn của Quỉ vương vày đạp, mà lại phần đông các con là bậc phẩm cao, chức trách trọng hậu. Tà đã thắng Chánh thì con (Thượng Trung Nhựt) làm thế nào đương cự cho kham. Con là đứa Thầy tin cậy hồi ban sơ, tuy bước đường cũng lắm lúc sai lầm nhưng nhờ các Ðấng thiêng liêng thương mà chỉ dẫn, nên bước vừa trờ tới kịp lúc trở ra. Thương hại thay cho nhiều đứa khác, quyền chưa từng nắm, của chưa từng cầm, sắc chưa từng gần, lợi chưa từng thấy, bị lũ quái tùy Thiên thơ, đem treo trước mắt mà phải lầm lũi bước đường, chơn linh quí hóa kia mắc lẫn với xác phàm mà phải chịu muôn đời chìm đắm. Ðạo tuy cao, song nên biết sức Quỉ cũng chẳng hèn. 26

27 A. Chi phái Nếu không ngăn ngừa dằn lửa nóng trong tâm thì lửa Tam Muội của Quỉ vương đốt cháy. 13 Mars 1926 Thầy cho các con biết trước, đặng sau đừng trách rằng quyền hành Thầy không đủ mà kềm thúc trọn cả môn đệ... Các con đủ hiểu rằng: Phàm muôn việc chi cũng có thiệt và cũng có dối; nếu không có thiệt thì làm sao biết đặng dối; còn không có dối, làm sao phân biệt cho có thiệt... Cười... Thầy nói cho các con hiểu rằng: Muốn xứng đáng làm Môn đệ Thầy là khổ hạnh lắm. Hễ càng thương bao nhiêu thì Thầy lại càng hành bấy nhiêu. Như đáng làm Môn đệ Thầy thì là Bạch Ngọc Kinh mới chịu rước; còn ngã thì cửa Ðịa Ngục lại mời. Thương thương, ghét ghét, ai thấu đáo vậy ôi! Bởi vậy cho nên Thầy chẳng vì ghét mà không lời khuyến dụ; cũng chẳng vì thương mà không sai quỉ dỗ dành. Thầy nói trước cho các con biết mà giữ mình, chung quanh các con, dầu xa, dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp; chúng nó chẳng hề thấy đặng, là đạo đức của các con. Ấy vậy rán gìn giữ bộ thiết giáp ấy hoài cho tới ngày các con hội hiệp cùng Thầy. (Thánh Ngôn Sưu Tập: (âl 11-6-Nhâm Thân) Hôm nay: Thầy đến cùng các con chỉ trông cậy có một điều là làm phương nào cho các con đặng thiệt lòng thương yêu hòa thuận cùng nhau. Thầy đã hết lời khuyên dạy buổi đầu, lại để lời tiên tri dặn bảo, mà các con chẳng biết vâng lời, cứ 27

28 CHƯƠNG I gây đoan những điều hờn giận, dối trá, gạt nhau, đòi phen lại dám mượn danh Thầy mà làm lợi khí. Điều quan trọng là Thầy đến lập Đạo nơi nước Việt Nam Thầy dạy nơi Minh Lý Ðàn tháng 6-Ðinh Mão (Tháng 7 năm 1927) Cười... Ta mừng cho con đó, Trung. Thầy có hội chư Tiên, Phật lại mà thương nghị về sự lập Ðạo tại Ðại Nam Việt quốc. Các con khá nghe lời Thầy dặn, chớ khá nghịch lẫn nhau, phải đồng một lòng một dạ mà lo chấn hưng đạo đức. Tuy bây giờ phân chia nhiều nhánh, nhiều chi, chớ ngày sau cũng có một mà thôi. Các con, dầu bên nào cũng thương nhau như con một nhà, chớ khá ganh gổ chê bai nhau. Thầy xin lập Tiểu đàn nầy là Thầy biết con đến đó, Trung. Con khá nhớ những lời Thầy đã dạy: Con phải nên trợ giúp Minh Lý cho nên việc, nghe há! Có nhiều Đạo, cũng như cái nhà, phải có nhờ nào là cột cái, nào là cột con, đòn tay, kèo, rui. Rui là nhỏ, mỏng mảnh hơn hết, mà cũng phải nhờ nó. Tuy kể cho nhiều tên, chớ cất rồi thì có một chủ mà thôi. Con Trung, nên về rán tập các đạo hữu của con cho có lễ phép. Ðạo thành là nhờ Lễ. Bên Minh Lý đây là Séminaire, là chỗ các thầy tu, ngày sau độ về phần linh hồn đó con. Thôi Thầy về, chút nữa có Thái Ất giáng. Thăng. 28

29 A. Chi phái CHÚ THÍCH: Trung: Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt. Thương nghị: Cùng nhau bàn bạc để sắp đặt công việc. Ðại Nam: Tên cũ của nước Việt Nam. Nhiều nhánh nhiều chi: Nhiều nhánh là chỉ Tam giáo: Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo. Nhiều chi là chỉ Ngũ chi Minh đạo hay Ngũ chi Ðại Ðạo. Ngũ chi Minh đạo gồm: Minh Sư, Minh Ðường, Minh Lý, Minh Thiện, Minh Tân. Ngũ chi Ðại Ðạo: Phật đạo, Tiên đạo, Thánh đạo, Thần đạo, Nhơn đạo. Tuy bây giờ phân chia nhiều nhánh nhiều chi, chớ ngày sau cũng có một mà thôi: Ðây là tôn chỉ của Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn lập ra là: Tam giáo qui nguyên Ngũ chi phục nhứt. Bây giờ thì các Đạo còn phân chia khác nhau, nhưng qua Hội Long Hoa rồi, các đạo đều gom về một mối là Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ. Séminaire: Tu viện đào tạo các tu sĩ. Minh Lý: Một chi trong Ngũ Chi Minh đạo, trụ sở chánh hiện nay đặt tại Tam Tông Miếu ở đường Cao Thắng, Sàigòn. Thuở mới khai đạo, Ðức Chí Tôn dạy Hội Thánh đến Tam Tông Miếu thỉnh các bài kinh: Niệm Hương, Khai Kinh, Kinh Sám Hối, Kinh Cầu Siêu, Kinh Tán Tụng Công Ðức Thần, Thánh, Tiên, Phật về làm kinh tụng đọc trong Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ. Mười năm sau các Đấng mới giáng cho Kinh Tận độ, Chi phái tách ra sớm nên họ không có Kinh Tận độ..thái Ất: Trong Kinh Cầu Siêu có câu: Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn. Thái Ất là vị Ðại Tiên, học trò của Ðức Ngươn Thỉ. Ngày 7-8-Ðinh Mão (dl ) LÝ BẠCH Thượng Trung Nhựt, hiền hữu có mang trách nhiệm lớn lao của Ðại Từ Bi đặng phổ thông điều đình mối Ðạo, hiệp với Hội Thánh mà trù nghĩ suy tính cách thức hành động về bước đường của chư Thiên phong và Đạo hữu trong 29

30 CHƯƠNG I buổi nầy. Phải lấy nét thẳng đường ngay do nơi tâm thành mà hành sự tạc thù, sợ chinh lòng mà để nét bất bình cho cả chư Đạo hữu. Mỗi việc hành động đều do nơi Ðức Từ Bi sắp đặt sẵn rồi, duy có để cho chư Hiền hữu bước lần mà đi tới. Những Đạo hữu nào không vì hạnh đức mà chung hiệp nhau lo hành Chánh giáo thì đã có Thần, Thánh lãnh lịnh biên ghi vào Sổ Công Quả, đợi ngày chung qui đặng đem vào cân Thiên điều mà phán đoán. Hiền hữu cũng nên giữ lời Thánh giáo của Ðức Từ Bi, hễ ai biết phục theo luật định của Hội Thánh Công Ðồng thì đặng phép dâng sớ cho Lão định đoạt. Nhiều kẻ lại tư lịnh, muốn mở riêng đường khác, đặng dìu nhơn sanh vào lối quanh co. Hại thay! mà cũng tiếc thay! Căn xưa quả trước chẳng chịu lo đền bồi, lại tự dẫn mình vào nơi hang thẵm, sau kết cuộc ra thế nào sẽ thấy. Hiền hữu tua lo về phần Thuyết đạo cho chóng. Bàn Trị Sự đã có sắp đặt đủ tư cách và mỗi đạo hữu đều có tư cách riêng, mỗi tháng nhóm một lần, là đêm rằm mà bàn tính việc đạo, xem xét coi sự nào trong đạo nên hủy vì sái nhơn tâm, sự nào nên thi hành thì hiệp lòng sanh chúng, gắng lo chung nhau mà làm cho Ðạo đặng có phẩm giá tối cao tối trọng, thì thế nào chư hiền hữu chẳng vui lòng bước tới. Mỗi lần nhóm Bàn Trị Sự, ba vị Ðầu Sư phải có mặt, ba vị Chức sắc Hiệp Thiên Ðài chứng sự, mỗi việc nghị định đều biên chép để lại đành rành, sau khỏi điều dị nghị. Trong cả chư đạo hữu, Lão cho hiền hữu biết rằng Nữ phái phần nhiều chưa thông hiểu về Ðạo cho lắm. 30

31 A. Chi phái Hiền hữu, mỗi đàn lệ, cần phải buộc Nữ phái tới mà nghe thuyết đạo chung với Nam phái. Sau nầy, chừng Lão liệu có đạo muội nào đáng công tìm học đạo lý, thì sẽ cho thuyết đạo riêng về Nữ phái. Tr... bạch: Xin nhóm đàn tại Chợ Lớn mỗi tháng. Hiền hữu đặng tự liệu. Từ đây để H... vào Hiệp Thiên Ðài nghe. Lão để lời khuyên chung và gắng vì Ðạo mà tỏ nét kính thành Ðấng Chi Tôn. Thăng. CHÚ THÍCH: Trong đàn hôm nay có Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt viết tắt là Tr..và Bác sĩ Lê văn Hoạch viết tắt là H. sau đắc phong Bảo Sanh Quân trong Thập nhị Bảo Quân. Phổ thông điều đình mối Ðạo: Phổ thông là truyền bá giáo lý của Ðạo ra khắp nơi. Ðiều đình là dàn xếp cho đạt được sự hòa hợp mà làm việc cho kết quả. Sổ Công Quả: Sổ ghi chép công quả của mỗi người, để Ngọc Hư Cung định vị cho người ấy sau khi qui liễu. Luật định của Hội Thánh Công Ðồng: Các luật lệ lập ra bởi toàn cả Hội Thánh cùng chung quyết định. Nhiều kẻ lại tư lịnh muốn mở riêng đường khác: Ý nói nhiều vị Chức sắc có ý riêng, muốn tách ra, dẫn tín đồ đặng lập Chi Phái, không tùng phục Hội Thánh Toà Thánh Tây ninh. Lối quanh co: Ý nói con đường tà vạy, Tà đạo mà chính những người này bày vẽ ra làm cho mất dấu chơn truyền. Căn xưa quả trước: Nguồn gốc của mỗi người và kết quả những việc làm thiện ác trong kiếp trước đã gây ra, may duyên buổi này gặp Đạo Trời khai mở là phương thoát tục không lo sám hối lại còn gây lắm điều phiền toái, hại Đạo. Bàn Trị Sự: Cơ quan tạm thời do Hội Thánh bầu cử lập ra để điều hành việc phổ thông nền Ðạo đến khắp mọi nơi. Ðây không 31

32 CHƯƠNG I phải là Bàn Trị Sự nơi Hương đạo như hiện nay. Chứng sự: Nhìn nhận sự việc diễn tiến một cách hợp pháp theo Luật Ðạo. Nghị định: Hội lại với nhau bàn bạc mà đồng ý qui định một việc gì. Ðàn lệ: Ðàn cúng thường lệ, tức là Ðàn cúng vào ngày mùng 1 và ngày 15 hằng tháng. Đức Hộ-Pháp cho biết nỗi khó trong buổi đầu: Thánh-thể của Đức Chí-Tôn hồi buổi đó không có giá trị, không trật tự, họ CHIA PHE PHÂN PHÁI, họ còn phe đảng dữ lắm! Mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất, thế lực dữ lắm, không có cái gì thiếu! Làm cho Thánh-Thể Đức Chí-Tôn buổi đó dơ bẩn làm sao đâu không thể tưởng tượng được. Đức Lý Giáo-Tông hội chư Thánh, nhưng đương đầu với Đức Chí-Tôn họ chẳng dám. Vì lẽ đó họ CHIA PHE PHÂN PHÁI, lập đảng. Ngài thấy tình thế như vậy, Ngài mới biểu Bần-Đạo xuống tại Thủ-Đức trong bảy tháng. Bần-Đạo chung sống cùng Ngài, đặng Ngài truyền Thể pháp. Giờ phút này Bần Đạo đứng tại tòa giảng đây tưởng tượng nhớ đến tâm tình ấy thấm thiết biết bao nhiêu! Nồng-nàn mà nói không có một điều gì sơ-sót, chỉ đủ mọi hành tàng, rành-rẽ chi tiết hết. Bần Đạo vừa biết rồi Đức Lý liền từ chức không làm Giáo-Tông của Đạo trọn ba năm vậy! Khi Bần Đạo ở Thủ Đức về: Đức Lý một đàng Ngài biểu theo Ngài chỉnh đốn Hội-Thánh lại. Một đàng Đức Chí-Tôn nói: Đừng nghe Lý Thái Bạch đa nghe Phạm-Công-Tắc! 32

33 A. Chi phái Một đàng kéo, một đàng trì làm cho Bần Đạo không biết đường đi chút nào! Thất thơ, thất thưởng mất linh hồn, muốn nửa tỉnh nửa say. Ngài đến 11 giờ, Ngài viết đến bốn giờ sáng, chỉ rành-rẽ thế nào, nhất là Ngài biểu Bần-Đạo hiệp cùng Ngài cho có quyền Chí-Tôn hữu hình tại thế này. Hiền Hữu muốn cho Đạo Cao-Đài còn tồn tại hay nghe lời Đức Chí-Tôn để cho nền Đạo phải mất? Bần Đạo cứ nghĩ-nghị, đó rồi Đức Chí-Tôn đến, thật sự Ông Già hơi buồn thật! Ngài nói: Tắc! Con sửa-soạn đặng làm lễ Đăng Điện cho Đức Lý Giáo-Tông nghe! Rồi đó Ổng ở, Ổng nghe Đức Lý Giáo-Tông cầm quyền. Đức Lý, Ngài biểu Thiên-phong Chức-sắc cả Cửu Trùng-Đài, Hiệp-Thiên-Đài lập Cửu Trùng Thiên để Ngài đăng Điện, khi Ngài đăng Điện rồi. Ngài cầm cây viết, Ngài viết bài Diễn văn đăng Điện cho tới tận thế sẽ không có vị Giáo-Tông nào làm một bài Diễn-văn hay như vậy (Đức Hộ-Pháp thuyết 17-8 Nhâm-Thìn) Như thế: Các nguyên nhân gây chia rẽ để lập thành các Chi phái, có những nguyên nhân do bên trong và cũng có nguyên nhân do từ bên ngoài tác động vào.. Tựu trung có 4 nguyên nhân chánh sau đây: 1. Anh hùng tánh cá nhân, muốn làm một ông vua xứ nhỏ hơn là làm đại thần của một nước lớn. 2. Sự bất đồng ý kiến, sự mâu thuẫn trong nội bộ khiến không thể cộng tác với nhau được. 3. Mỗi người hay mỗi nhóm có lập Cơ bút 33

34 CHƯƠNG I riêng và chính Cơ bút nầy phong cho họ những chức tước cao cấp theo lòng mong muốn của họ và xúi giục họ lập Chi phái không tùng mạng lịnh Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh. 4. Bên ngoài thì nhà cầm quyền Pháp xúi giục phân chia làm cho nền Ðạo rã tan thành manh mún, không còn đủ sức để đe dọa nền thống trị của nước Pháp. Người Pháp lúc đó rất sợ Ðức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung, vì trước khi theo Ðạo Cao Ðài, Ngài là Thượng Nghị viên của Thượng Nghị Viện Nam Kỳ, đứng đối lập với chánh quyền để tranh đấu cho quyền lợi của dân chúng Việt-Nam, như vụ chống tăng thuế điền làm Pháp phải nhượng bộ. Trong văn thư số 23 của Ðức Phạm Hộ-Pháp gởi cho Bắc Tông Ðạo (Hà Nội), lúc Ngài ở Kiêm-Biên (Nam Vang) đề ngày 12-3-Mậu Tuất (dl ). Đức Hộ-Pháp, Ngài có viết: Khi mới mở Ðạo thì mấy Anh lớn đều do nơi trường quan lại của Pháp, trong hàng Phủ và Ðốc phủ mà họ đương cầm quyền Chủ Quận hay Phó Chủ Tỉnh. Vì cớ mà Pháp đã ra lịnh cho mấy Anh ấy phải từ khước, không đặng hiệp tác cùng Anh Lê Văn Trung, là tay nghịch hẳn cùng Pháp đã rõ ràng bằng cớ. Pháp lại hứa cùng mấy Anh lớn ấy rằng: Họ muốn tu theo Ðạo Cao Ðài thì họ tự lập Chi phái, rồi họ sẽ được sự bảo vệ đặc biệt của Pháp, còn theo Anh Lê Văn Trung thì họ sẽ bị khủng bố, không cho làm quan lại của Pháp nữa. Ðiều ấy mấy Anh lớn cũng không đủ sợ, vì công danh 34

35 A. Chi phái quyền lợi mình mà nhảy ra thành lập Chi phái, nhưng tới khi Pháp hăm rằng: sẽ khủng bố đến con cái của họ đương du học tại Pháp, tiền cấp học bổng bị thâu lại và không cho cha mẹ có phương thế gởi tiền sang cho nữa đặng tiếp tục việc học hành. Ðiều nầy làm cho họ kinh khủng hơn hết. Thật ra thì cả con cái mấy Anh đương du học tại Pháp và tương lai của chúng rất nên sáng lạng, sẽ bị bỏ dở vì cuộc trả thù của Pháp. Bởi cớ cho nên họ lén trở về hội đàm cùng Anh Quyền Giáo-Tông liệu phương gỡ rối. Buổi ấy có mặt Qua và chính mình Qua khuyên họ nên nghe lời Pháp, lập Chi phái dưới quyền bảo hộ của họ, miễn là Ðạo đặng truyền bá là đủ. Nguyên do lập Chi phái của Ðạo là như thế. 4- MỘT SỐ CÁC CHI PHÁI HỒI ĐÓ DÙNG CƯỜNG QUYỀN MÀ ĐOẠT-VỊ Nếu Chi phái ra đời trong cái lẽ Tương kế tựu kế như trên, nghĩa là uyển chuyển chiều theo thời thế thì đó chính là một điều quá khôn ngoan nằm trong đầu óc của người Việt-Nam vốn sẵn có. Nhưng tiếc thay! Cái duyên cớ Gà cùng một mẹ cứ hoài đá nhau mà rốt lại bị mắc bẫy của người không tránh khỏi vì thiếu sư Thương yêu. Đức Hộ-Pháp nói: Nó nên hình bởi sự Thương-yêu, trưởng thành trong sự Thương-yêu, bởi hình chất của Thương-yêu. Hễ càng ngày càng lớn lên, càng tráng kiện, nó sẽ làm Chúa cả thù hận và quyền năng thù hận không hề xâm lấn nó được. Nói quả quyết Bần-Ðạo đã đánh tan thù hận ra, khi các phe đảng dùng quyền lực chiếm ngôi vị của Chí-Tôn để tại mặt thế nầy, Bần-Ðạo đã can đảm dùng quyền của 35

36 CHƯƠNG I Bần-Ðạo đánh ngã ra hết, đặng bảo trọng hình tướng thiêng liêng của Ðạo. Bần-Ðạo lỗ vốn cũng nhiều. Bần Ðạo gánh lấy cả thù hận ấy đặng bảo tồn hình thể của Chí-Tôn cho trọn Thương-yêu. Bần-Ðạo dùng can đảm gánh lấy cả thù hận của thiên hạ mà bảo tồn khối Thương yêu của Chí-Tôn vô đối, không cho hoen ố, nhơ bợn. Tại sao mà Bần-Ðạo dám thí mình gánh vác thù hận đặng bảo trọng nó? Bởi biết nó là Chúa cả hình ảnh của quyền trị thế tương lai, nó là Thầy thiên hạ đặng trị thế, nếu không trọn vẹn, nó lưu lại kiểu vở thô bĩ nhơ nhớp, thì không thế gì làm Thầy thiên hạ đặng. Các Chi phái buổi nọ dùng cường quyền mà đoạt vị, không lẽ Bần-Ðạo là Hộ-Pháp nắm giữ chơn truyền trong tay đây, mà để cho nó đoạt ngôi soán vị như các đời vua chúa từ trước, để lưu lại cho nền Chơn-giáo của Chí Tôn sao? May thay, quyền ấy chưa xung đột được Chánh giáo của Chí-Tôn. Nó đã bại trận, bởi Thánh-Thể của Ngài có người cầm luật pháp oai nghiêm, tức là cầm cây HUỆ- KIẾM trong tay đặng gìn giữ nền Tôn-giáo nên hình được, nó nên được tức tạo cho thiên hạ được, nó đã tạo oai quyền của nó thành tướng đặng, thì tạo quyền cho nhơn sanh nơi mặt địa cầu nầy về tương lai đặng. (Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm rằm tháng chạp năm Mậu Tý (1949) KẾT LUẬN Theo tinh thần lời khuyên của Đức Hộ-Pháp và hiện trạng của sự việc xảy ra, cho ra ba kết luận, bởi vì sợ: Thứ nhứt là sợ mất quyền lợi của mỗi cá nhân. 36

37 A. Chi phái Thứ hai là sợ mất cái lợi thế là con cái của các Ngài không hưởng được. Thứ ba là cương vị của Đức Hộ-Pháp bấy giờ chỉ còn phải nói câu này thôi, tức nhiên nói rằng : chính mình Qua khuyên họ nên nghe lời Pháp nhưng mỗi người phải tự ý thức hai lẽ trọng khinh giữa việc công và việc tư, giữa Đạo và Đời chứ! Vậy ba vị : Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm và Đức Quyền Giáo-Tông là ai mà cũng dám bỏ cả danh, lợi, quyền mà nghe theo tiếng gọi thiêng liêng, hết mình lo cho Đạo nghiệp. Nếu các Ngài cũng sợ và sợ thì nền Đại Đạo này sẽ đi về đâu? Tóm tắt lại phần nầy, xin lấy bài Thánh giáo sau đây của Ðức Phạm Hộ-Pháp giáng cơ ngày 1-4-Kỷ Dậu (dl ) in trong Thánh Giáo Sưu Tập của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Ðài Giáo Việt-Nam trang 161: Công quả khai Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ có thể nói là Bần đạo đã đóng góp được hai phần ba công quả ấy, nhưng buồn vì nước nhà chủ quyền không được bảo đảm kể từ thuở khai Đạo, các đàn Anh cũng vì lẽ ấy bị chi phối rất nhiều. Từ chỗ vị kỷ, vị danh, vị lợi, cũng như tự ái, tự đại, tự tôn, nên đã gây ra cảnh chia ly phân tán, đã để lại một gánh nặng cho đoàn hướng đạo ở hậu sanh. Ðó là điều đáng buồn và cũng là kinh nghiệm quí giá cho đàn em trong mai hậu. Nếu mình mỗi người biết đặt đạo lý Chí Tôn, quyền pháp và nhân sinh lên trên hết và tự trọng tự ái vì danh dự của quốc gia dân tộc và đạo pháp thì không có kẻ hở nào để bạo quyền chuyên chế, ngoại nhập khuynh đảo để rẽ chia. Vết xe trước đã sụp đổ, đoàn xe sau nên tránh. Kể ra đàn Anh chịu phần trách nhiệm rất lớn trong sứ mạng. 37

38 CHƯƠNG I Chính vì thế mà trong hàng tiền bối, người nào không làm đúng Thiên ý thì sẽ bị triệu hồi để đảm nhận phần vụ khác. Tuy về non Tiên, Phật cảnh, nhưng chưa được hưởng ngôi vị của mình, phải còn có nhiệm vụ đến khi nào mục đích của Chí Tôn khai Đạo được hoàn thành, các hàng tiền bối ấy sẽ tùy công đức mà định vị. 5- HẬU QUẢ VIỆC PHÂN CHIA CHI PHÁI A. NHỮNG HẬU QUẢ TAI HẠI Sự chia rẽ trầm trọng về tâm lý trong giới tín đồ: Nguyên tắc giáo lý của Đại-Ðạo là Thương yêu và Công chánh hay là Bác ái và Công bình, đã bị thương tổn dữ dội, khiến người tín đồ nhiệt tâm với Ðạo rất đau lòng, không thể nào biện bạch được trước dư luận quần chúng. Người ngoại đạo nhìn vào Ðạo Cao Ðài với cặp mắt khinh thường, gà cùng một mẹ cứ hoài đá nhau. Tại sao đây là Tôn giáo mà đá nhau dữ dội vậy? Ai đá ai?. Sự phân chia Chi phái làm ly tán nhơn lực và tài lực của Ðạo Cao Ðài vốn đã ít ỏi lúc ban sơ, làm nền Ðạo rã tan manh mún, trở nên yếu ớt về công việc hoằng hoá nền chơn Ðạo, việc phổ độ chúng sanh bị ngưng trệ một thời gian dài, khiến một số người đã nhập môn vào Đạo nản lòng lui chơn thối bước. Buồn nhất là những bậc đàn Anh còn nhiều hám vọng đã để lại một vết thương lòng đau đớn trong tâm trí của người hậu bối một nỗi bàng hoàng khó tả. Đau đớn nhứt là làm Đạo chỉ biết có cái bã lợi quyền, một chút danh vị hảo làm choán mất lương tri lương năng của con người, dùng hết móng vuốt của đời 38

39 A. Chi phái đá lại bậc đàn Anh trong cửa Đạo, muôn cay ngàn đắng rốt lại ngồi ngậm thảm dưới Phong đô! Nơi Lạc hồn Trì! B. TRONG CÁI DỞ CŨNG CÓ ẨN TÀNG CÁI HAY GƯỢNG ÉP Bên cạnh những hậu quả tai hại như đã kể trên, sự phân chia Chi phái của Ðạo Cao Ðài cũng có một vài điều để đánh lừa với nhà cầm quyền Pháp cho nhẹ lo đôi chút. Nhà cầm quyền Pháp cho Ðạo Cao Ðài là một nhóm hỗn tạp, luôn luôn tranh quyền đoạt vị với nhau, không thể tạo thành một lực lượng đoàn kết đủ mạnh làm ảnh hưởng đến nền cai trị của Pháp, nhờ vậy mà họ bớt quan tâm và không cần thiết phải đàn áp Ðạo Cao Ðài. Sự phân chia Chi phái giúp bảo tồn nền Ðạo trước ý đồ của Pháp là muốn tiêu diệt Ðạo Cao Ðài. Nếu diệt được Chi phái nầy thì cũng còn Chi phái khác hoạt động. Họ không thể tiêu diệt hết được. Thế nên Pháp họ lờ đi. 6- ĐẠO TRỜI TỒN TẠI ĐẾN THẤT ỨC NIÊN Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn Thượng Ðế lập ra tại nước Việt-Nam do Thiên thơ tiền định thì nhứt định không có một thế lực nào có thể tiêu diệt đặng. Tuy nhiên, Ðạo khai thì Tà khởi. Ðức Chí Tôn đã ban cho Quỉ Vương cái quyền thử thách người tu, làm giám khảo tuyển lựa người xứng đáng. Kỳ Ba nầy, Ðức Chí Tôn đến cùng nhơn loại với Ðệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước mà nội dung là bốn chữ: Bác-Ái Công-Bình. Ai đủ Bác-Ái Công-Bình và thực thi Nhơn-Nghĩa thì Ðức Chí-Tôn rước về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, nên Quỉ Vương lấy đề tài nầy mà thử thách và tuyển lựa, để lọc phàm phân Thánh: 39

40 CHƯƠNG I Bác ái là đề thi tiến hoá, Nghĩa nhân ấy định phép duy tân. Tuy nhiên, sự thử thách nầy xảy ra quá khắc nghiệt, khiến cho nhiều thí sinh bị đánh rớt một cách thê thảm, làm tổn hại danh thể của Ðạo. Ðức Chí-Tôn có báo trước là rớt 80 %, chỉ đậu có 20 % thôi. Nhiều vị chưa bị thử thách thì chê bai kẻ đi trước, nhưng khi chính mình vào cuộc thì cũng bị lục dục thất tình xui khiến đi vào vết chân của người trước mà sa vào nơi Nghiệt cảnh. Tuy nhiên ta hãy đặt trọn đức tin nơi Hộ-Pháp rằng: Từ Tín Đồ đến Hội Thánh chẳng hề khi nào tiêu diệt nó được, kẻ nào muốn tiêu diệt Đạo Cao Đài tốt hơn đừng sanh ra bởi chẳng hề khi nào muốn tiêu diệt Đạo đặng, khuôn luật vẫn vậy. Hôm nay Qua giảng một điều thiết yếu cho mấy Em nghe quyền siêu thoát. Mấy em xét coi nơi mình mấy Em từ chân, tay trong xác thân cho tới cả tinh thần đầu óc mấy Em nó đều có linh cảm cả. Khốn nạn thay! Con người không biết thương nhau mà lại ghét lẫn nhau, mà hễ ghét lẫn nhau tức nhiên ghét Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, nếu ghét Thánh Thể Đức Chí Tôn rồi, thì ngày Qua về cảnh Thiêng Liêng đứng trước Cực Lạc Thế Giới, mấy em chẳng hề khi nào chối tội đặng. Nếu mấy em thương nhau không được thì không được phép ghét nhau. (Đền Thánh, đêm 29 tháng 10 năm Quí Tỵ) 40 B. CÁC CHI PHÁI ĐẦU TIÊN CỦA ÐẠO CAO ÐÀI Nguyên trong buổi sơ khai của nền Đại-Ðạo, vào

41 B. Các Chi phái đầu tiên của Ðạo Cao Ðài giữa năm Ất Sửu (1925), Ðức Chí Tôn thâu phục được hai nhóm riêng nhau: Nhóm của Ngài Ngô Văn Chiêu và nhóm của các Ngài Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc. Ngày Ất Sửu (dl ), Ðức Chí Tôn giáng cơ bảo hai nhóm phải hiệp lại nhau đặng lo mở Ðạo. Các vị trong hai nhóm đều vâng lời hiệp lại, lúc đó được 12 người, là 12 Môn-đệ đầu tiên của Ðức Chí Tôn mà Ðức Ngài có cho bài thi đủ tên 12 vị ấy để làm kỹ niệm trong ngày vía Đức Chí-Tôn mùng 9 tháng Giêng năm Bính Dần (1926). Ngày 6-3-Bính Dần (Dl ) Ðức Chí Tôn định phong Ngài Ngô-Văn-Chiêu vào chức Giáo-Tông nên bảo bà Nguyễn Thị Hiếu (hiền nội của Ngài Cao Quỳnh Cư) may một bộ Ðạo phục Giáo-Tông cho Ngài Chiêu, nhưng 5 ngày sau, đến ngày thì Ðức Chí Tôn cho biết là Ngài Chiêu bị truất. Ðến ngày 14-3-Bính Dần (dl ) Ngài Ngô Văn Chiêu và nhóm của Ngài lại tách ra không hợp tác với nhóm Ngài Lê Văn Trung nữa, Ngài trở về lo tu đơn như trước. Như thế cuộc hợp tác của hai nhóm chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn, vỏn vẹn chừng 3 tháng. Ðầu năm Ðinh Mão (1927), Ngài Ngô Văn Chiêu lập cơ tuyển độ Chiếu Minh Tam Thanh vô-vi và đây chính là một Chi phái đầu tiên của Ðạo Cao-Ðài do Ngài Ngô Văn Chiêu thành lập. Sau đó, có một vài vị Chức sắc khác tự lập đàn cơ riêng, bị Cơ bút dẫn dắt lần lần, để sau cùng tách ra khỏi Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh, lập Chi phái như: 41

42 CHƯƠNG I Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh (Vương Quan Kỳ) lập phái Cầu Kho tại Thánh Thất Cầu Kho Sài Gòn vào năm 1930 (Nay là Nam Thành Thánh Thất, đường Nguyễn Cư Trinh. Sài-gòn) Phối Sư Thái Ca Thanh (Nguyễn Văn Ca) lập Chi phái Minh Chơn Lý năm 1931 ở Mỹ Tho. Giáo Hữu Ngọc Chính Thanh (Nguyễn Văn Chính) lập phái Tiên Thiên vào năm 1932 tại Cai Lậy. Sau cùng là hai vị Quyền Ðầu-Sư Thượng Tương Thanh (Ðốc phủ Nguyễn Ngọc Tương) và Ngọc Trang Thanh (Ðốc phủ Lê Bá Trang) tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh lập Ban Chỉnh Ðạo ở Bến Tre vào đầu năm Ðến giữa năm 1934, ngày 15-7-Giáp Tuất (dl ), Ðức Lý Giáo-Tông hiệp cùng Ðức Phạm Hộ-Pháp lập Ðạo Nghị Ðịnh thứ 8 để ngăn chận các Chức sắc Tòa Thánh Tây Ninh tách ra lập Chi phái, thì kể từ đó về sau, không có Chức sắc nào của Toà Thánh Tây ninh dám tách ra lập Chi phái nữa. Tuy nhiên, số Chi phái sau nầy nảy sanh càng lúc càng nhiều là do trong mỗi Chi phái có sự bất đồng nên lại tách riêng lập Chi phái mới, đó là Chi phái sanh ra Chi phái và số lượng nầy thì rất nhiều. Trên đây là những nét đại cương về sự thành lập các Chi phái của Ðạo Cao Ðài ngay từ buổi đầu. Nhưng về sau nầy, nhiều nhà viết lịch sử của Ðạo Cao Ðài khi nghiên cứu về các Chi phái, đều không thống nhứt nhau về số lượng Chi phái và các sanh hoạt của họ, nên kể những Chi phái không giống nhau. Ðầu tiên, Ông Gabriel Gobron người Pháp, đắc phong Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn Hiệp-Thiên-Đài viết quyển 42

43 B. Các Chi phái đầu tiên của Ðạo Cao Ðài Histoire et Philosophie du Caodaïsme xuất bản năm 1949, đã kể ra 11 Chi phái. Trong Nguyệt san Ðại Ðạo của Toà Thánh Tây ninh, năm Ất Tỵ (1965), trong 3 số báo liên tiếp 7, 8, 9, Ngài Huệ Lương Trần Văn Quế viết bài: Ðể tìm hiểu các Chi phái trong Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ Ngài Huệ Lương đã kể ra: Năm 1940 có 12 Chi phái chánh với 3 nhóm không được kể là Chi phái; năm 1963 thì có 15 Chi phái với 2 nhóm không kể là Chi phái. Năm 1966, Ông Hoài Nhân trong: 40 năm lịch sử Ðạo Cao Ðài trang 109, ông kể ra được 35 Chi phái. Sau đây chúng ta sẽ nêu ra các chi tiết về 12 Chi phái của hai soạn giả: Gabriel Gobron và Trần Văn Quế. 1- HISTOIRE ET PHILOSOPHIE DU CAODAÏSME CỦA GABRIEL GOBRON Ngài Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn Gabriel Gobron kể ra 11 Chi phái vào năm 1948 sau đây: (trang 174) 1. Minh Chơn Lý, đứng đầu là ông Nguyễn Văn Ca (Phối Sư Thái Ca Thanh) ở Mỹ Tho. 2. Ban Chỉnh Ðạo, đứng đầu là Ông Nguyễn Ngọc Tương (Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh, đắc phong Quyền Thượng Ðầu Sư) lập Chi phái Bến Tre. 3. Tiên Thiên, đứng đầu là Ông Lê Kim Tỵ ở Phú Nhuận (Gia định), Ông Lê Kim Tỵ tự phong cho mình là Hội Trưởng Cao Ðài Hiệp Nhứt, ông mất tại Hải Phòng năm Thông Thiên Ðài, đứng đầu là hai Ông Quách Văn 43

44 CHƯƠNG I Nghĩa và Lê Quang Hộ, ở Gò Công và Sài Gòn. 5. Liên Hòa Tông Phái, đứng đầu là hai Ông Nguyễn Phan Long và Trần Văn Quế, ở Thánh Thất Cầu Kho Sài Gòn. 6. Minh Chơn Ðạo hay Công Ðồng Hội Giáo, đứng đầu là Ông Cao Triều Phát ở Bạc Liêu. 7. Trung Hòa Học Phái, đứng đầu là Bác sĩ Trương Kế An, ở Thủ Dầu Một. Ông có mở phòng mạch tại Thủ Dầu Một. 8. Tây Tông Vô Cực Cung, đứng đầu là Ông Nguyễn Bửu Tài, ở Bến Tre. Ông Tài hiệp nhứt với Tòa Thánh Tây Ninh năm 1948, nhưng sau rồi cũng tách riêng. 9. Tuyệt Cốc, đứng đầu là hai Ông Nhuận và Ruộng, ở Tây Ninh, họ sống ẩn dật, rất ít người biết họ. 10. Chiếu Minh Ðàn, đứng đầu là Ông Tư Huỳnh, ở Cái Khế Cần Thơ, sáng lập là Cố Ðốc phủ Ngô Văn Chiêu. 11. Nữ Trung Hòa Phái, đứng đầu là Bà Ngọc Nhiên Hương và Lê Ngọc Trinh, ở tại Sài Gòn. Theo tài liệu nầy thì Ông Gabriel Gobron không cho Tòa Thánh Tây Ninh là một Chi phái, vì đây là cái gốc của Ðạo, cái gốc thì sanh ra các nhánh, sanh Chi phái. 2- CÁC CHI PHÁI TRONG ÐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ĐỘ THEO TÀI LIỆU ÔNG HUỆ LƯƠNG 44 Ngài Huệ Lương Trần Văn Quế viết, kể ra như sau: 1. Tòa Thánh Tây Ninh, với chư quí Ngài: Trung, Tắc.

45 B. Các Chi phái đầu tiên của Ðạo Cao Ðài 2. Chiếu Minh, với chư quí Ngài: Thiên, Quí. 3. Cầu Kho, với chư quí Ngài: Bản, Tường. 4. Tiên Thiên, với chư quí Ngài: Tòng, Tỵ. 5. Minh Chơn Lý, với chư quí Ngài: Ca, Phùng. 6. Bến Tre (Ban Chỉnh Ðạo), quí Ngài: Tương, Trang. 7. Minh Chơn Ðạo, với chư quí Ngài: Quang, Thiệu. 8. Tam Kỳ Nguyên Nguyên Bản Bản, quí Ngài: Kiên, Phân. 9. Bạch Y Liên Ðoàn Chơn Lý, quí Ngài: Tồng, Tải. 10. Tây Tông Vô Cực Cung, quí Ngài: Ðãi, Tài. 11. Cơ quan Truyền Giáo TrungViệt, quí Ngài Hiển, Châu. 12. Liên Hòa Tổng Hội, với chư quí Ngài: Long, Quế. Ðiều nên chú ý: Trong số 12 Chi phái của Ðạo Trời, chúng tôi không kể phái Tịch Cốc do 2 ông Nhuận, Ruộng (Nguyễn Ngọc Ðiền) là vì phái nầy thực ra chỉ là một nhóm Ðạo hữu độ 10 vị làm công quả tại Tòa Thánh Tây Ninh, vì bất mãn điều chi đó, rồi xuống tóc, mặc áo dà, tịch cốc,... Chúng tôi cũng không kể Trung Hòa Học Phái, mà các vị hướng đạo là chư quí Ngài Cao Triều Phát, Phan Trường Mạnh và Huỳnh Văn Thảo, vì tổ chức nầy có tính cách một tổ chức thanh niên, chuyên sự học tập và hành đạo hơn là một phái của Ðạo Trời có nhiệm vụ hành chánh và phổ độ. Trung Hoà Học phái đặt trụ sở tại Thánh Thất Minh Ðức tỉnh Rạch Giá do Bà Nữ Ðầu Sư Ngọc Nhiên Hương chưởng quản. 45

46 CHƯƠNG I Trong số 12 Chi phái của Ðạo Trời, chúng tôi cũng không kể Thông Thiên Ðài, trụ sở đặt tại Thánh Thất Ðồng Sơn (tổng Hòa Ðồng Thượng tỉnh Gò Công). Thực ra phái nầy với Tòa Thánh Tây Ninh là một, vì phái nầy được lập lên để thay thế Hội Thánh Hiệp Thiên Ðài Tây Ninh. Nhưng sau rồi công việc bất thành và sự hoạt động dần dần thu hẹp vào phạm vi một Thánh Thất thường thôi. 12 Chi phái kể trên của Ðạo Trời, từ năm 1940 đến 1963, trải qua hơn 20 năm đã bị thử thách dữ dội. Nhiều Chi phái vẫn tồn tại và bành trướng thêm lên hoặc thu hẹp phạm vi hoạt động. Trái lại cũng có Chi phái đã cùng với thời gian mà mai một. 3- CÁC CHI PHÁI CÒN LẠI 1. Tòa Thánh Tây Ninh làm gốc Đạo 2. Chiếu Minh: Hiện giờ, ngoài phái Chiếu Minh vô vi lại còn có các phần khác nữa là: Chiếu Minh Long Châu và Cao Ðài Thượng Ðế Hội Giáo hay là Chiếu Minh Ðàn. 3. Phái Cầu Kho hiện giờ được thay thế bằng Nam Thành Thánh Thất và phạm vi hoạt động đã thu hẹp lại nhiều với tính cách một Thánh Thất thường. 4. Minh Chơn Lý Mỹ Tho ngày nay đã thu hẹp nhiều và gồm hai phân chi: Chi Chân lý Cầu Vỹ (Minh Chơn Lý cũ) và Tòa Thánh Cao Ðài Việt Nam tại Bến Tranh. 5. Tiên Thiên, trụ sở đặt tại Tòa Thánh Châu Minh Sóc Sãi, Bến Tre, hiện đang áp dụng Tân Luật và Pháp Chánh Truyền trong sự tổ chức Hội Thánh. Phái nầy 46

47 B. Các Chi phái đầu tiên của Ðạo Cao Ðài cố gắng lấy lại sự quan trọng ngày xưa nhứt là đối với Thất thập nhị Tịnh. 6. Cơ quan Qui Thống, trụ sở đặt tại Thánh Thất Thiên Thai, làng Mỹ Phước quận Cai Lậy, Mỹ Tho. 7. Bạch Y Liên Ðoàn Chơn Lý hoạt động với tầm quan trọng như hồi xưa. 8. Cao Thượng Bửu Tòa được xây dựng tại Bạc Liêu và được coi là Toà Thánh Hậu Giang. 9. Minh Chơn Ðạo hiện nay cũng hoạt động như trước và hình như đang trù tính xây Tòa Thánh ở Tắc Vân. 10. Phái Bến Tre vẫn hoạt động như xưa và cố gắng củng cố nội bộ. 11. Hội Thánh Tam Quan, được thành lập mấy năm gần đây và cố gắng củng cố nội bộ. 12. Hội Thánh Truyền Giáo được thành lập trước năm 1956 và được ra mắt với các Chi phái ngày Lễ Khánh thành Trung Hưng Bửu Tòa năm Tòa Thánh Nhị Giang, trụ sở đặt tại Châu Ðốc, hành đạo theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền, có Hội Thánh lưỡng đài cũng như các Hội Thánh khác. 14. Tòa Thánh Tiền Giang, cũng có lưỡng đài, được đặt tại Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài, làng Hạnh Thông Tây, Gò Vấp. 15. Thiên Khai Huỳnh Ðạo đặt tại số 78 đường Phan Thanh Giản, Gò Vấp, Gia Ðịnh, phái nầy mới ra đời gần đây. Ðiều cần đặc biệt để ý những điểm sau đây về hai tổ chức: 47

48 CHƯƠNG I Ban Liên Giao Chi Phái giữa 23 Thánh Thất và Tịnh Thất ngoại ô Ðô Thành Sài-Gòn và các tỉnh lân cận. Trụ sở của tổ chức nầy đặt tại Thánh Thất Bình Hòa, Gia Ðịnh. Tổ chức nầy có mục đích siết chặt dây liên ái giữa các Thánh Thất, Tịnh Thất nói trên về phương diện hữu hình về: Hôn, Tang, Tế, sự. Cơ quan Phổ Thông Giáo Lý, trụ sở tạm thời đặt tại Tam Giáo Ðiện (Chùa Minh Tân) với mục đích siết chặt dây liên ái về phương diện tinh thần giữa các Hội Thánh, Chi phái và giữa các Thánh Thất biệt lập thuộc phạm vi Ðạo Thầy. Trong phần trình bày về 12 Chi phái của Ngài Huệ Lương Trần Văn Quế, Ngài cho rằng Tòa Thánh Tây Ninh là một Chi phái. Ðiều nầy hoàn toàn không đúng, bởi vì Tòa Thánh Tây Ninh là gốc của Ðạo. Các Chức sắc thuở ban đầu tách ra lập Chi phái đều là Chức sắc của Tòa Thánh Tây Ninh mà ra. Gốc (Tòa Thánh Tây Ninh) không thể là nhánh (Chi phái) được, mà là phần quan trọng để nảy sanh các nhánh. Tổng kết số lượng Chi phái: Như đã trình bày ở trên, các nhà viết sử không thống nhứt nhau về tên các Chi phái trong số 12 Chi phái. Quí vị ấy dường như bị ám ảnh bởi con số 12, nên họ cố gắng kể ra cho đủ 12 Chi phái, dầu có sự gượng ép hay không đúng thực tế. Thí dụ như: Hai nhóm Tịch Cốc và Thông Thiên Ðài, không thể kể là hai Chi phái được vì thực lực mỗi nhóm chỉ có chừng hơn 10 người, không phát triển thêm được, không ai theo, những người trong nhóm già cả chết dần, 48

49 C. Sáu Chi phái sau này rồi mất hẳn. Hai nhóm: Tam Kỳ Nguyên Nguyên Bản Bản và Bạch Y Liên Ðoàn Chơn Lý cũng không đáng kể là Chi phái vì thực lực không có mấy người, hoạt động không được gì và khi người đứng đầu chết thì nhóm tan rã luôn. Nhóm Tây Tông Vô Cực Cung chỉ là một nhóm tu đơn, không liên quan đến Ðạo Cao Ðài, nên không phải là một Chi phái, có điều người đứng đầu nhóm nầy là ông Thiện Pháp Nguyễn Bửu Tài sau nầy nhập qua phái Tiên Thiên, rồi qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh, sau lại trở về phái Tiên Thiên. Ðể cho dễ dàng trong công việc khảo sát các Chi phái của Ðạo Cao Ðài, chúng ta phân ra các mục sau đây: Những Chi phái buổi đầu. Những Chi phái lúc sau. Các nhóm nhỏ không đáng kể là Chi phái. Nhóm đặc biệt: Cơ quan Phổ Thông Giáo Lý CĐ. C. SÁU CHI PHÁI SAU NÀY 1. CƠ QUAN TRUYỀN GIÁO TRUNG VIỆT Sự truyền bá Ðạo Cao Ðài tại Trung Việt đầu tiên do phái Tiên Thiên, theo lịnh dạy của Cơ bút, đã tổ chức bí mật sự truyền đạo ra Quảng Nam và Ðà Nẵng từ năm 1936 với quí ông ở tại đó là: Lê Trí Hiển, Nguyễn Quang Châu, Trần Công Bang, Huỳnh Ngọc Trác và 4 đồng tử: Long, Lân, Qui, Phụng. Sự kiện nổi bật nhất là công cuộc cổ động và vận động xây cất Thánh Thất Trung Thành tại Thị xã Ðà 49

50 CHƯƠNG I Nẵng, chỉ trong thời hạn 22 ngày là xong, để làm Ðại lễ Khánh Thành ngày 8-4 Mậu Dần (dl ). Những vị đóng vai tích cực trợ giúp quan trọng đi đến thành công là quí Ngài: Trần Ðạo Quang, Cao Triều Phát, Nguyễn Bửu Tài và nhứt là ông Lê Kim Tỵ của phái Tiên Thiên. Cơ quan nầy hoạt động mạnh ở các tỉnh miền Trung, nhưng sau đó bị Việt Minh khủng bố, hàng lãnh đạo tan rã. Sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, tín hữu các nơi qui tụ trở lại, quyết định đưa Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt lên thành Hội Thánh, nên mua thêm một khu đất rộng tại đường Nguyễn Hoàng, Ðà Nẵng, để xây dựng Trung Hưng Bửu Tòa, một kiến trúc lớn và đẹp, làm Ðại lễ Khánh Thành vào ngày 1-6-Bính Thân (dl ), ra mắt Hội Thánh Truyền Giáo Trung Việt. Năm 1973, Hội Thánh truyền giáo Trung Việt có hai vị đứng đầu là: Chánh Phối Sư Ngọc Quế Thanh (Trần Văn Quế) Chủ trưởng Hội Thánh và Thanh Long Lương Vĩnh Thuật, Thanh tra quyền pháp, đại diện Hiệp Thiên Đài HỘI THÁNH TAM QUAN (PHÁI CHƠN LÝ CẦU KHO) Gọi đầy đủ là Hội Thánh Trung Ương Trung Việt, trụ sở đặt tại Tam Quan, quận Hoài Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Nguyên đầu năm 1927, hai vị Nguyễn Hữu Phương và Nguyễn Hữu Hào, ở Bình Định, vào Sài Gòn nhập môn theo Ðạo Cao Ðài tại Thánh Thất Cầu Kho, rồi trở về Bình Ðịnh âm thầm truyền bá Ðạo Cao Ðài tại đây. Số người theo Ðạo càng lúc càng đông nhưng bị nhà nước khủng bố vì vua Bảo Ðại cấm Ðạo Cao Ðài.

51 C. Sáu Chi phái sau này Trải qua nhiều cuộc khủng bố, hết lớp nầy tới lớp khác, Ðạo Cao Ðài nơi đây cũng phát triển, đến năm 1956 mua được một mẫu đất tại Tam Quan, khởi xây dựng Thánh Thất, giấy phép ký ngày và làm lễ Khánh thành gọi là Ðại Hội An Thiên, Khánh Thành Hội Thánh ngày 15-3 Canh Tý (1960). Hội Thánh Tam Quan tổ chức y theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền, có hai Ðài: Hiệp Thiên và Cửu Trùng. 3. THIÊN KHAI HUỲNH ÐẠO Phái nầy thành lập từ năm Nhâm Dần (1962), Tòa Thánh đặt tại đường Phan Thanh Giản, quận Gòvấp Saigon. Trước khai Chưởng Tòa Huỳnh Ðạo tại Gò Công, rồi thiên về Nhị giang, sau mở Bửu Tòa Di-Lạc tại Gia Ðịnh, sau một thời gian ngắn ngủi 3 năm, Ðạo Vàng đã chiếu rạng nhiều nơi với một hệ thống: trên có Chưởng Tòa (Châu Ðốc), dưới có Bửu Tòa Di-Lạc: Tiền giang (Gia Ðịnh), Trung giang (Vĩnh Long), Hậu giang (Bạc Liêu), Liên giang (Cần Thơ) và những Tòa Ðại diện tại Kiên Giang, Hà Tiên, đúng với Thiên cơ, đúng với lời tiên tri Kỳ Ba Cứu Thế. Huỳnh Ðạo là Vô Vi Ðại Ðạo, lấy Âm Dương làm gốc, Ngũ Hành làm thể, hòa hợp ở Trung Huỳnh gọi là Mồ Thổ, sắc Huỳnh để luyện Kim thai Thánh thể, xuất khiếu hiển thần, đoạn dứt luân hồi trong lục đạo. Xuất phát từ Cao Ðài, Huỳnh Ðạo là thể hiện hoàn mỹ của Ðạo Cao Ðài, Hữu, Vô, trọn vẹn. (Trích trong quyển Chơn truyền Huỳnh Ðạo Trung ương). 51

52 CHƯƠNG I 4. CAO THƯỢNG BỬU TÒA Cao Thượng Bửu Tòa được xây dựng tại Thị xã Bạc Liêu, còn gọi là Tòa Thánh Hậu Giang, do Ông Trần Văn Tìa, đạo hiệu Chơn Sắc, chủ trương xây dựng. Ông Trần Văn Tìa qui liễu, có giáng đàn ngày tại Cao Thượng Bửu Tòa, để lời than: Trước kia, nếu Tệ huynh biết sẽ xảy ra cớ sự như vậy thì không xây dựng lên trụ tướng của Cao Thượng Bửu Tòa nầy, mà chỉ để tiền và nhơn lực, vật lực đó dùng vào những công tác từ thiện xã hội. Nếu biết trước và làm việc đó thì đâu còn để hậu hoạn lại cho anh em như trước hiện tình. Ðó cũng là cái trách nhiệm của Tệ huynh vẫn còn dang dở. 5. NỮ CHUNG HÒA Nhóm nầy được thành lập do lịnh Cơ bút của Chi Minh Tân ở Bến Vân Ðồn, Sài Gòn, mục đích để tập hợp Nữ phái mà dạy dỗ về đường đạo đức và lập công quả dưới sự dìu dẫn vô hình của Ðấng Lê Sơn Thánh Mẫu, trụ sở đặt tại Chùa Minh Tân ở Bến Vân Ðồn. Hai Bà Ngọc Nhiên Hương và Lê Thị Trinh điều khiển nhóm nầy. Nữ Chung Hòa trước đây hợp tác với Bà Diệu Minh ở Vạn Quốc Tự đường Phan Thanh Giản cũ Sài Gòn (ngang Bệnh Viện Bình Dân), khi Bà Diệu Minh qui liễu, nhóm Nữ Chung Hoà hợp tác với Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Ðài Giáo Việt Nam có trụ sở ở đường Cống Quỳnh (ngang Chợ Thái Bình) và nhóm Nữ Chung Hòa dời trụ sở về Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý. Nhóm Nữ Chung Hoà không được nhiều người gia nhập, nên hoạt động rất yếu ớt, chỉ còn làm một vài công 52

53 D. Các nhóm nhỏ không đáng kể là Chi phái tác từ thiện mà thôi. Do đó, chỉ nên xem Nữ Chung Hòa là một nhóm học tu Nữ phái, làm việc từ thiện. 6. TRUNG HÒA HỌC PHÁI Sau khi ông Cao Triều Phát tách ra khỏi Minh Chơn Ðạo thì ông hợp tác với quí ông Phan Trường Mạnh, Phan Lương Hiền, Huỳnh Văn Thảo lập thành Trung Hòa Học Phái, có mục đích qui tụ các thanh niên trong các phái Ðạo Cao Ðài để dìu dắt chúng trên đường đạo đức, thực hành thuyết Trung Thứ của Nho giáo, vừa lo học tập vừa lo hành đạo. Ðể thực hành mục đích đó, Ngài Cao Triều Phát lập nên một tổ chức thanh niên gọi là Thanh Niên Ðạo Ðức Ðoàn đặt trụ sở tại Thánh Tịnh Minh Ðức của Bà Ngọc Nhiên Hương ở Rạch Giá, sau nầy Thanh niên Ðạo đức Ðoàn mở rộng hoạt động lên Sài Gòn, trụ sở đặt tại Tam Giáo Ðiện, chùa Minh Tân ở Bến Vân Ðồn Sài Gòn. Sau Hiệp Ðịnh Genève năm 1954, Ngài Cao Triều Phát tập kết ra Bắc, nên nhóm Thanh Niên Ðạo Ðức Ðoàn phải ngưng hoạt động vì không người hướng dẫn. Trung Hoà Học Phái đã nổi tiếng một thời ở Hậu Giang. D. CÁC NHÓM NHỎ KHÔNG ĐÁNG KỂ LÀ CHI PHÁI 1. TỊCH CỐC (HAY TUYỆT CỐC) Gọi là Tịch Cốc hay Tuyệt Cốc là vì nhóm nầy chủ trương không ăn cơm, chỉ ăn trái cây, tu theo lối ép xác đặng luyện pháp thuật. Vào năm 1934, có một nhóm chừng 10 người đang làm công quả trong Tòa Thánh Tây Ninh, vì bất mãn Hội 53

54 CHƯƠNG I Thánh không cho họ luyện pháp thuật, nên họ rủ nhau đi vào núi để khổ tu luyện đạo cho mau kết quả. Trong nhóm nầy có hai ông: Ngô Ðức Nhuận và Nguyễn Ngọc Ðiền tức Ruộng, tự xưng là Nguyên soái cầm đầu. Hồi Tòa Thánh còn làm bằng cây ván, nhóm nầy lén vô Bửu Ðiện Tòa Thánh, leo lên ngồi trên 7 cái ngai mà Bảo Thể không hay biết, đến chừng Bảo Thể phát hiện thì bắt từ ông lôi xuống và trục xuất họ ra khỏi Nội Ô. 1/. Nhóm Tịch Cốc tập bay: Nhóm này đứng đầu là các ông Ngộ-Đức Nhuận và Nguyễn Ngọc Điền tổ chức cầu Cơ, các vong linh giáng Cơ xưng là Tiên, Thánh dạy số người trong nhóm này luyện Đạo, luyện phép trường sanh Không ăn ngũ cốc chỉ ăn hoa quả mà thôi, cho nên phái này được gọi là Phái Tuyệt cốc, thường ở trong hang động của Núi Bà Đen (Tây ninh). Họ luyện phép có thể bay từ gộp đá này qua gộp đá khác, từ nhánh cây này qua nhánh cây khác. Họ truyền rằng dùng xâu chuỗi Bồ đề niệm chú có thể đánh ngã cây cổ thụ hoặc bể cả tảng đá, hoặc cỡi hòn đá niệm chú đá có thể bay. Những đêm trăng rằm dân chúng thường lên núi Bà xem nhóm người này biểu diễn pháp thuật vì đây là sở trường của nhóm Tuyệt cốc. 2/. Nhóm Tuyệt cốc về chiếm Toà Thánh: Một chuyện kể là nhóm Tuyệt cốc này đột nhập vào Toà-Thánh đêm rằm tháng 7 năm Bính Tý (Thứ Hai: ) Phái Tuyệt cốc bất thần kéo về Toà-Thánh Tây ninh định chiếm các ngai vàng, họ không đi bằng các cửa Nội Ô Thánh địa mà bay qua hàng rào tre gai vào bên trong Toà Thánh một cách dễ dàng. Mỗi người chiếm một chiếc ngai. Bảo-Thể và Thánh vệ lôi họ xuống và trục ra khỏi 54

55 D. Các nhóm nhỏ không đáng kể là Chi phái Đền thánh. Có số người leo lên ngựa Kiền Trắc của Phật Tổ cỡi và dùng chuỗi bồ đề đánh vào mông ngựa, vẫn trơ trơ vì đánh mạnh quá nên chuỗi đứt và văng tung toé trên đất. Sau này không còn thấy bóng dáng của họ nữa. Trong quyển Tây Ninh xưa và nay của Huỳnh Minh, soạn giả có thuật lại việc Nhóm Tuyệt Cốc lén lên ngồi 7 cái ngai trong Tòa Thánh, rồi sau đó lại tập bay theo lời kể của ông Huỳnh Hữu Lộc, cựu Tổng Thơ Ký Hội Ðồng tỉnh Tây Ninh: Năm 1936, lúc bấy giờ, tôi (Huỳnh Hữu Lộc) còn trong hạng tuổi thiếu thời. Tôi về Toà-Thánh Tây-ninh làm công quả, nơi đó tôi được biết câu chuyện chiếm 7 ngai xảy ra như sau: Một buổi trưa sau giờ cúng Ngọ tại Bửu điện Tòa Thánh, các Chức sắc, Chức việc và đồng nhi đã về phòng nghỉ. Lúc bấy giờ chỉ có một vị Tuần quân ở lại canh gác Bửu điện mà thôi. Vị Tuần quân đó là anh Nghiêm. Thình lình anh Nghiêm nghe tiếng động rất to trong Bửu điện, anh Nghiêm chạy vào coi thì thấy một số người, lối 7 người mặc áo màu dà, đầu trọc, tay cầm chuỗi bồ đề, đang xô các cốt Phật, Tiên, Thánh, Thần ngã rớt rầm rầm xuống đất. Lúc đó, anh Nghiêm hoảng hốt tri hô lên, bổn đạo quanh đó chạy đến, thấy 7 cái ngai đều bị các vị Tả đạo ấy chiếm ngồi hết cả. Nên biết, Ðền thờ Ðức Chí Tôn có 7 cái ngai dành riêng cho 7 vị: 1 cho Ðức Giáo-Tông, 3 cho 3 vị Chưởng Pháp, 3 cho 3 vị Ðầu Sư, nhưng đó chỉ là tượng trưng thôi chớ chưa có ai dám lên đó ngồi. Các tu sĩ Tả đạo ấy lẻn vào Bửu điện làm việc đại náo. Ngoài số 7 vị chiếm 7 cái ngai trong Bửu điện, còn một vị khác ra trước Tòa Thánh chiếm con ngựa của Ðức Phật Tổ đang 55

56 CHƯƠNG I cỡi, vị nầy lên lưng ngựa và ra roi thúc ngựa. Nên nói thêm, ngôi Bửu điện lúc đó bằng cây lợp ngói, các cửa đơn sơ không được chắc chắn như hiện nay, do đó các vị Tả đạo mới lẻn vào được dễ dàng.các đạo sĩ ấy không có ăn cơm, chỉ ăn trái cây, rau hoặc bánh mà thôi, nên có người gọi là đạo Tuyệt Cốc. Thật ra thì các vị ở non động cả, có nhiều vị chơn tu cũng tuyệt cốc. Vậy chúng tôi đề nghị gọi nhóm người nầy là gian đạo sĩ hoặc là nhóm Tả đạo. Các vị nầy có nhiều lần cho biết xâu chuỗi bồ đề của họ đã luyện thành bảo vật, đánh người và cả cây hay đá cũng đều tan ra tro bụi, còn nếu chỉ vào ngựa ván (ngày xưa gọi divan là bộ ngựa) thì ngựa ván bay lên cao. Vì lẽ bổn đạo kiêng sợ bảo vật chuỗi bồ đề nên chưa ai dám xông vào kéo các vị Tả đạo xuống khỏi ghế. Sau đó có một vị bổn đạo thử xông vào kéo vị chiếm ngai Giáo-Tông xuống và cuộc níu kéo ẩu đả bắt đầu, các xâu chuỗi được tung ra. Nhiều bổn đạo đứng bên ngoài thấy chuỗi phép không làm tan đối thủ ra tro bụi thì vững lòng nhào vô trợ chiến, xua đuổi nhóm người Tả đạo ra khỏi Chánh điện. Cũng trong thời gian nầy, một vị Ðạo hữu hương khói tại Quan-Âm-Các (Quan Âm Các lúc bấy giờ ở tại chợ Ngã Năm gần nhà Ngài Chưởng Ấn Hợi bây giờ), chạy vô báo cho Hội-Thánh hay có hai Nữ gian đạo sĩ lên lầu, nơi thờ Phật Bà Quan Âm, xô cốt Bà xuống và leo lên bàn thờ ngồi tự xưng mình là Phật Quan Âm giáng thế. Bổn đạo nghe vậy chạy ra leo lên lầu xua đuổi hai Nữ Tả đạo. Lại một phen chuỗi phép được tung ra, chuỗi 56

57 D. Các nhóm nhỏ không đáng kể là Chi phái chẳng hại được ai cả, chỉ trì kéo làm đứt dây, hột chuỗi rơi đổ tứ tung. Bị xô té xuống đất, hai Nữ Tả đạo cứ nằm vạ tại đó rất lâu, bổn đạo thấy vậy ra về, nhưng vẫn để ý xem động tịnh ra sao. Một lúc lâu thấy vắng người, hai Nữ Tả đạo đứng dậy theo đường Phước Ðức Cù về xóm Sân Cu. Thu dọn chiến trường: Bổn đạo dựng các cốt Phật dậy và quét dọn, lượm được một số lớn chuỗi hạt bồ đề của các nam nữ gian đạo sĩ bỏ rớt lại. Vào năm Mậu-Dần (1938), nhóm gian đạo sĩ Tả đạo Bàng môn hành động ngông cuồng phá rối nhiều nơi. Lúc đó nhóm Tả đạo ở vùng Sân Cu (xã Long Thành) và vùng Sơn Ðình (chơn núi Bà Ðen) là đông hơn hết. Nếu không lầm thì vào lúc 15 giờ ngày 14 tháng Giêng năm Mậu Dần (1938), có một gian đạo sĩ đầu trọc, trang phục áo màu dà, tay cầm tấm bảng có viết chữ sẵn, đem cắm tại Cửa số 1 Tòa Thánh. Lúc bấy giờ Cửa nầy tuy làm bằng gạch thô sơ, không phải kiến trúc như ngày nay, trên bảng có 4 câu kệ, đại ý nói 24 giờ khuya đêm 14 rạng rằm tháng Giêng sẽ có Ðế vương xuất thế. Ông đạo đọc bài kệ 3 lần, đánh 3 hồi cồng, rồi đi về hướng sân bay, nơi nầy hiện là đồng ruộng lúa sau Tòa Thánh. Sân bay nầy của người Pháp lập ra, nhưng rất ít khi máy bay đáp xuống, vì vậy cỏ mọc rất nhiều, nhứt là loại cỏ cần câu. Ngày 14 tháng Giêng nói trên, tại sân bay qui tụ hằng trăm vị nam nữ Tả đạo để làm lễ mừng Ðế vương xuất thế. Tại đây, họ cất một lễ đài 9 từng cao độ 40 thước. Ðài cất bằng cây, hai bên đài là hai dãy nhà lá, mỗi dãy độ 5 hay 6 căn, phân ra Nam tả Nữ hữu, dưới chơn đài, họ cho đổ hằng trăm xe rơm để họ tập bay. Mỗi người sắm 57

58 CHƯƠNG I một cặp cánh bằng cây và giấy bạch, cánh giống như cánh chim, to cỡ bằng cái sàng gạo. Khi muốn bay, họ đút hai cán cánh vào hai ống tre cột sẵn hai bên hông người và từ trên đài cao, họ phóng mình ra, hai tay nắm hai cánh mà quạt nhanh. Về sau, ông Ðiền mặc toàn đồ trắng, xuống Sài Gòn đến Dinh Thống Soái Nam Kỳ treo cờ và đòi hỏi người Pháp trả nước Việt Nam, bị nhà cầm quyền Pháp bắt giam vào nhà thương điên. Nhóm Tịch Cốc tan rã và mất hẳn. Kết quả 1: Họ không bay được đến đâu cả. Bay làm sao được khi khối thịt nặng 50, 60 ký mà hai cánh thì mỏng manh và dầu cho có quạt nhanh đến đâu cũng không đủ tốc độ để cất mình lên nỗi. Rốt cuộc họ bị rơi xuống đống rơm dưới chơn đài, nhờ có rơm xốp nên không bị hại chi về nhơn mạng. Kết quả 2: Ðế vương xuất hiện đâu chẳng thấy, chỉ thấy lúc 22 giờ, có 3 xe cam nhông lính mã tà (cảnh sát) chỉ huy bởi một viên đội Pháp đến bao vây sân bay, bắt hết tất cả nam nữ đạo sĩ Tả đạo Bàng môn. Kết quả 3: Nhà binh Pháp phóng hỏa đốt cả hai dãy nhà, đài bay, luôn 100 xe rơm, ánh lửa sáng rực một góc Trời. Không biết, chánh quyền Pháp đối xử với nhóm Tả đạo ấy ra sao, mà từ đó ở Tây Ninh không còn thấy họ xuất hiện nữa. Lời bàn: Đáng thương thay! Đạo Trời khai dạy rõ phương tu tắt như vậy mà vẫn chê, tìm cách tu bướng, thật là bức tranh Thả mồi bắt bóng mà thôi. 58

59 D. Các nhóm nhỏ không đáng kể là Chi phái 2. ÔNG CAO TRIỀU PHÁT, PHÁI MINH CHƠN ÐẠO Ông Cao Triều Phát, tự là Thuận Ðạt, sanh ngày 18-3-Kỷ Sửu (dl ) tại Vĩnh Hinh, làng Vĩnh Lợi, tổng Thạnh Hưng, tỉnh Bạc Liêu. Thân phụ là Cao Minh Thạnh và Thân mẫu là Tào Thị Xúc. Gia đình có 8 anh em: 6 trai và 2 gái, ông Phát thứ 5 và thứ út là Cô Cao Thị Khiết, Cửu Nương Diêu-Trì-Cung , ông Cao Triều Phát tốt nghiệp Trung học. 1912, học xong hai lớp luật do Tòa Án Sàigòn tổ chức, làm thơ ký phiên dịch tại Tòa Án Bạc Liêu. 1914, đi Pháp làm thông ngôn cho toán lính thợ Việt-Nam. 1922, trở về Việt-Nam, hoạt động chánh trị, viết cho tờ báo La Tribune Indigène (Diễn đàn bản xứ) , ông Phát được bầu làm Ðảng trưởng đảng Ðông Dương Lao động, cơ quan ngôn luận của đảng là Nhựt Tân báo. 1930, đắc cử Hội Ðồng Quản Hạt Nam Kỳ ông Cao Triều Phát nhập phái Minh Chơn Lý. 1939, thành lập Ðoàn Thanh niên Ðạo đức Ất Dậu (dl ) đại hội tại Tam Giáo điện của chi Minh Tân (221 Bến Vân Ðồn Sàigòn) thành lập Cao Ðài Hiệp Nhứt 11 Phái (không có Toà-Thánh Tây ninh), ông Phát được bầu làm Chủ tịch. 1941, Tỉnh Ủy Viên Bạc Liêu là Tào Văn Tỵ vận động ông Cao Triều Phát nhập Mặt Trận Việt Minh, làm Phó Chủ tịch Ủy Ban Giải phóng dân tộc tỉnh Bạc Liêu. 1945, Chủ tịch Ủy Ban giải phóng dân tộc Bạc Liêu. 59

60 CHƯƠNG I , quân viễn chinh Pháp trở lại đánh chiếm Sài Gòn. Ðầu năm 1946, quân Pháp chiếm Bạc Liêu, ông Cao Triều Phát rút về Giồng Bướm huyện Giá Rai, lập chiến khu kháng chiến cứu quốc. Tại đây có Tòa Thánh Ngọc Minh của Minh Chơn Ðạo được dùng làm trụ sở Trung ương của Kháng chiến , Pháp đem đại quân cùng phi cơ ném bom đánh Giồng Bướm, Tòa Thánh Ngọc Minh bị trúng bom sụp đổ, Cao Triều Phát rút binh về Cái Nước. Khu Bộ trưởng Chiến khu 9 là Vũ Ðức (tức Hoàng Ðình Giong) mời ông Phát về Bộ Chỉ Huy Chiến khu , Hồ Chủ tịch ở Bắc gởi thư khen ngợi ông Cao Triều Phát, đồng thời tặng ảnh và áo để kỹ niệm. Tháng , thành lập Kỳ Bộ Việt Minh Nam Bộ tại chiến khu Ðồng Tháp Mười, do Hà Huy Giáp làm Chủ nhiệm, Cao Triều Phát được bầu làm Chủ nhiệm danh dự Kỳ Bộ , tại căn cứ Việt Bắc, Hồ Chủ tịch ký Sắc lịnh số 132/SL cử ông Cao Triều Phát và Nguyễn Bá Sang làm Cố Vấn Ủy Ban Kháng chiến Hành Chánh Nam Bộ , ông Cao Triều Phát trên cương vị Chủ tịch Cao Ðài 11 Phái Hiệp Nhứt triệu tập hội nghị đại biểu các Chi phái tại Ðồng Tháp Mười để thành lập Hội Cao Ðài Cứu Quốc 12 phái Hợp Nhứt, với Ban Chấp hành gồm: Chủ tịch: Cao Triều Phát (phái Minh Chơn Ðạo). Hai Phó Chủ tịch: Nguyễn Ngọc Nhựt (Ban Chỉnh đạo) Nguyễn Văn Khảm (phái Tiên Thiên). 60

61 D. Các nhóm nhỏ không đáng kể là Chi phái Tổng Thơ Ký: Phạm Thị Tư (Vạn Quốc Tự) Ủy Viên Tài Chánh kiêm Thủ Quĩ: Trần Ðại Khái (phái Tây Ninh trung thành). Ủy Viên Truyền Tin và Giao Thông: Hoàng Minh Viễn (phái Tây Ninh trung thành). Chủ nhiệm Kỳ Bộ Việt Minh Nam Bộ Hà Huy Giáp tuyên bố thừa nhận Hội Cao Ðài Cứu Quốc là một tổ chức của Kỳ Bộ. Hội Cao Ðài Cứu Quốc 12 phái Hợp Nhứt thành lập Hội-Thánh Duy Nhứt, gồm Hiệp-Thiên Đài, Cửu Trùng Đài và Cửu Viện. Hiệp-Thiên Đài gồm 3 vị do quyền Thượng-Phẩm Cao Huệ Chương (phái Tây Ninh trung thành) làm chưởng quản. Cửu Trùng Đài gồm 3 vị do Phối Sư Nguyễn Văn Năm (Minh Chơn Lý) làm chưởng quản. Cửu Viện gồm 9 vị, mỗi vị coi một viện. Hội Cao Ðài Cứu Quốc thành lập thêm 2 đoàn thể: Thanh niên Cao Ðài Cứu quốc, Phụ nữ Cao Ðài Cứu quốc , Ðại Hội Nhơn Sanh Hội Thánh Duy Nhứt bầu hai vị chưởng quản hai Ðài: Thái Chưởng Pháp Cao Triều Phát (Minh Chơn Ðạo) làm quyền Chưởng quản Cửu Trùng Ðài. Tiếp Ðạo Phạm Hồng Tiên (Ban Chỉnh Ðạo) làm quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Ðài. Hiệp định Genève ký kết ngày , Việt Nam tạm phân hai miền Nam Bắc, Cà Mau là một trong những 61

62 CHƯƠNG I khu vực tập trung cán bộ và bộ đội trong 200 ngày trước khi xuống tàu tập kết ra Bắc. Ông Cao Triều Phát triệu tập Hội Thánh Duy nhứt và Hội Cao Ðài Cứu Quốc tại Cà Mau để sắp đặt lại tổ chức: Giải thể Hội Thánh Duy Nhứt để các Chi phái tái lập Hội Thánh riêng của phái mình. Một số Chức sắc sẽ tập kết ra Bắc, gồm: Chưởng quản Cao Triều Phát. Ðầu Sư Nguyễn Hiền Ngô. Phối Sư Nguyễn Văn Khoan Giáo Sư Nguyễn Văn Khảm. Ông Hoàng Minh Viễn, v.v... Tết Ất Mùi (dl ), tại Thánh Thất Hà Nội (48 phố Hòa Mã, khu phố Hai Bà Trưng) làm lễ ra mắt Hội Thánh Cao Ðài tại Hà Nội mà đứng đầu là Giáo- Tông Cao Triều Phát, có đại diện chánh quyền và Mặt trận Liên Việt đến dự , ông Cao Triều Phát mất tại Bệnh Viện B303 Hà-Nội lúc 2 giờ chiều. Chánh phủ tổ chức lễ tang rất long trọng, thi hài được an táng tại nghĩa trang Nam Kỳ (số 32 đường Nguyễn Công Trứ, Hà Nội). 1983, gia đình bốc mộ, hỏa táng, đem tro hài cốt về Sài Gòn, thờ tại tư gia số 4 đường Ðặng Tất, phường Tân định, Quận , tiểu sành đựng hài cốt của ông Cao Triều Phát được đưa lên đặt tại Phòng số 2 của Nhà Lưu hài cốt tại nghĩa trang Thành phố. (Viết theo quyển: Cao Triều Phát, Nghĩa khí Nam bộ, của Phan Văn Hoàng, 62

63 D. Các nhóm nhỏ không đáng kể là Chi phái nhà xuất bản Trẻ) 3. ÔNG HUỆ LƯƠNG TRẦN VĂN QUẾ Ông Trần Văn Quế, đạo hiệu Huệ Lương, sanh ngày 7-4-Nhâm Dần (dl ) tại làng Phước long, quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa, Thân phụ là Trần Văn Ðược và thân mẫu là Nguyễn Thị Là. Thuở nhỏ, học chữ Hán với đông y sĩ Trương Văn Thuần. Khi ông Thuần mất thì chuyển qua học quốc ngữ và tiếng Pháp tại trường Tổng Phước long. 1919, đậu bằng Tiểu học Pháp-Việt, rồi thi đậu vào trường Sư Phạm Sài Gòn. 1923, tốt nghiệp trường Sư Phạm, đậu luôn bằng Thành Chung và bằng Trung học Pháp quốc. 1925, đậu bằng Tú Tài bổn quốc, trúng tuyển vào trường Cao đẳng Sư phạm Ðông dương tại Hà Nội ban Toán Lý Hóa. 1928, tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, được bổ về trường Pétrus Ký và dạy học tại đây trong 16 năm liền Kỷ Tỵ (dl ), nhập môn vào Ðạo Cao Ðài tại Thánh Thất Phú Hội ở quê nhà, thường đến sanh hoạt đạo sự ở Thánh Thất Cầu Kho Sài Gòn. 1930, lên hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh, được Ơn Trên phong phẩm Giáo Hữu, được cử vào Hội đồng Nghị sự do Ngài Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh chủ tọa. 1933, hợp với ông Nguyễn Văn Kiên lập Cao Ðài Ðại Ðạo Liên Ðoàn tại Thánh Thất Cầu Kho, ông Kiên làm chủ tịch, ông Quế làm Tổng Thơ Ký. Sau 1 năm làm việc không đem lại kết quả. 63

64 CHƯƠNG I 1934, tại Trước Lý Minh Ðài thành lập Liên Hòa Tổng Hội với nhiệm vụ tổ chức 12 kỳ Long Vân Hội để vận động thống nhứt các chi phái, ông Nguyễn Phan Long làm Hội trưởng, ông Quế làm Tổng Thơ Ký. 1943, tham gia Liên Ðoàn Ái Quốc hội tranh thủ độc lập cho Việt-Nam, bị Pháp bắt, kết án 20 năm lưu đày nơi Côn đảo. 1945, Chánh phủ Trần Trọng Kim ân xá, ông Quế trở về Sài Gòn, sau đó hoạt động trở lại, làm Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành Chánh tỉnh Biên Hòa, chủ tịch là ông Hoàng Minh Châu. 1949, ông Quế lên Tòa Thánh Tây Ninh, chiêu dụ đạo tâm tại Chiêu Hiền Viện, được Ðức Phạm Hộ-Pháp phong chức Khâm Sai Bắc Tông Ðạo, đại diện Tòa Thánh Tây Ninh đi mở đạo tại Bắc Hà. 1952, trở về Sài Gòn, hợp tác với quí ông Phan Khắc Sửu và Nguyễn Bửu Tài, lập cơ quan Cao Ðài Qui Nhứt tại Tam Giáo điện Minh Tân, nối tiếp công cuộc vận động liên hòa Chi phái. 1953, ông Quế được mời giữ chức: Hội Trưởng Cơ quan Truyền giáo Cao Ðài. 1955, tháng 8, ông Quế hướng dẫn Phái đoàn Cơ quan Truyền giáo Cao Ðài đi dự Hội nghị Quốc tế Tôn giáo tại Kyoto Nhựt bổn. 1-6-Bính Thân (1956), cơ đạo Trung Việt khánh thành Trung Hưng Bửu Tòa tại Ðà Nẳng, nâng Cơ quan Truyền giáo lên thành Hội Thánh Truyền giáo Trung Việt, ông Quế được Ơn Trên ân ban phẩm Ngọc Phối Sư, làm Chủ trưởng Hội Thánh. 64

65 D. Các nhóm nhỏ không đáng kể là Chi phái 1962, tại Minh Tân, ông Quế và ông Chơn Tâm được Ðức Lý chỉ định làm Ðệ nhứt và Ðệ nhị Phó ban Phổ Thông Giáo Lý liên quan hành đạo, mà chính Ðức Lý làm Trưởng ban. 1965, Ơn Trên giao cho ông Quế lèo lái Cơ quan Phổ thông Giáo lý Cao Ðài giáo Việt-Nam trong nhiệm vụ: Tổng Lý Minh Ðạo. 1973, tại Hội Thánh Truyền giáo Trung Việt, Phối Sư Ngọc Quế Thanh được Ðức Lý thăng Chánh Phối Sư Canh Thân (dl ), ông Huệ Lương Trần Văn Quế qui vị, được an táng tại nghĩa trang của Thánh Thất Trung Minh thuộc Hội Thánh Truyền giáo Trung Việt. 4. THÔNG THIÊN ÐÀI Nhóm Thông Thiên Ðài được lập nên bởi quí ông: Bác sĩ Nguyễn Văn Nhã, Ðốc phủ Lê Quang Hộ, đại điền chủ Quách Văn Nghĩa, Ðốc học Chiếu, Nguyễn Trung Thăng, Lê Quang Nghi, Lê Quang Tỉnh... và đồng tử phò loan là hai người con của Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu: Ðức (Nguơn Ngọc) và Thân (Huệ Chương). Ðấng bề trên của nhóm nầy là Liễu Nhứt Chơn Nhơn Tôn Tẫn trong truyện Phong Kiếm Xuân Thu. Các Ðấng bề trên cho biết, nhóm nầy về sau sẽ thay thế Hiệp Thiên Đài của Tòa Thánh Tây Ninh, nhưng thực tế thì không có việc nầy. Trụ sở của nhóm Thông Thiên Ðài đặt tại Thánh Thất Ðồng Sơn ở Gò Công. Nhóm nầy không thâu tín đồ, các người sáng lập già cả rồi chết, nhóm nầy tan rã và 65

66 CHƯƠNG I mất luôn. Thánh Thất Ðồng Sơn trở nên vắng vẻ, chỉ còn ông từ lo cúng kiếng mà thôi. 5. TAM KỲ NGUYÊN NGUYÊN BẢN BẢN Nguyên trước đây ông Thái Phối Sư Nguyễn Văn Ca thành lập phái Minh Chơn Lý ở Mỹ Tho, được nhiều người ủng hộ, nhưng từ khi Thiên Sư Nguyễn Văn Phùng nắm Cơ bút của Minh Chơn Lý, ông cầu cơ sửa đổi hết các cách thờ phượng, làm cho nhiều người bất mãn nên bỏ đi, kể ra: Quí Ngài Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang, Nguyễn Quang Thiệu, Cao Triều Phát về Bạc Liêu lập Minh Chơn Ðạo. Quí Ngài Vương Quan Kỳ và Ðoàn Văn Bản trở về Thánh Thất Cầu Kho. Ngài Trần Văn Quế bỏ đi, nhập phái Tiên Thiên. Quí Ngài Nguyễn Văn Kiên và Nguyễn Văn Phấn lập Tam Kỳ Nguyên Nguyên Bản Bản trụ sở đặt tại Long An, mục đích là phục hồi nguyên bản Ðạo Cao Ðài như buổi đầu Ðức Chí Tôn lập ra, nhưng không được nhiều người hưởng ứng. Khi ông Nguyễn Văn Kiên được bầu làm Hội Trưởng Cao Ðài Ðại Ðạo Liên Ðoàn thì phái nầy bắt đầu suy tàn và khi ông Kiên qui liễu thì phái nầy tan rã. 6. TÂY TÔNG VÔ CỰC CUNG Ðây chỉ là một nhóm tu đơn, do Ngài Nguyễn Bửu Tài, pháp danh Thiện Pháp, lập ra tại quê nhà của Ngài là làng Phú Hưng, tục gọi làng Chẹt Sậy, quận Châu Thành, 66

67 D. Các nhóm nhỏ không đáng kể là Chi phái tỉnh Bến Tre. Phái nầy cho rằng phái tu đơn của Ngài Ngô Văn Chiêu từ Phú quốc chuyển về Sài Gòn là phái Ðông Tông, còn Ngài Nguyễn Bửu Tài ở Bến Tre là Tây Tông, nên Ngài gọi Thánh Tịnh của Ngài lập ra ở Chẹt Sậy là Tây Tông Vô Cực Cung. Như vậy, Tây Tông Vô Cực Cung không phải là một Chi phái của Ðạo Cao Ðài và cũng không dính dáng gì đến Ðạo Cao Ðài, chỉ có điều là sau đó Ngài Nguyễn Bửu Tài gia nhập phái Tiên Thiên, trở thành Chức sắc cao cấp (Thượng Ðầu Sư) của Tiên Thiên, rồi lãnh đạo phái Tiên Thiên qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh. Sau khi Ngài Nguyễn Ngọc Tương Giáo-Tông phái Bến Tre qui liễu, Ngài Nguyễn Bửu Tài rút lui khỏi Toà Thánh Tây ninh, trở về tái lập phái Tiên Thiên, sau đó Cơ bút của Ngài phong Ngài chức Giáo-Tông của phái Tiên Thiên. 7. TÒA THÁNH NHỊ GIANG Phái nầy lập trụ sở tại Châu Ðốc, gọi là Tòa Thánh Nhị Giang, chỉ hoạt động trong vùng Châu Ðốc, có tổ chức lưỡng đài Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài như các Hội Thánh khác, hành đạo theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền, nhưng không được nhiều người ủng hộ, hình như họ chán nản trước các sự kiện lập Chi phái. 8. TÒA THÁNH TIỀN GIANG Phái nầy lập trụ sở tại Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài ở làng Hạnh Thông Tây, quận Gò Vấp, Gia Ðịnh. 67

68 CHƯƠNG I Về sau phái nầy lập lên Tòa Thánh gọi là Tòa Thánh Tiền Giang, để đối lại Tòa Thánh Hậu Giang. Tuy đã nâng cấp lên Tòa Thánh nhưng không có hoạt động gì đáng kể. E. NHÓM ĐẶC BIỆT: CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LÝ CAO ÐÀI GIÁO VIỆT NAM Cơ Quan nầy do lịnh Ơn Trên lập ra với mục đích để siết chặt dây liên ái về phương diện tinh thần giữa các Hội Thánh, Chi phái và các Thánh Thất, Thánh Tịnh biệt lập. Lúc ban sơ, trụ sở đặt tại Tam Giáo Ðiện chùa Minh Tân, 221 Bến Vân Ðồn, Vĩnh Hội, Sài Gòn và lấy danh xưng là Cơ Quan Liên Giao Hành Ðạo. Cho đến năm 1965, Cơ Quan nầy chưa tổ chức được nên chưa có hoạt động chi thật sự. Năm nầy thừa lịnh Ơn Trên dời trụ sở về 165E đường Cống Quỳnh Sài Gòn, gần Chợ Thái Bình, lấy danh xưng là Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Ðài Giáo Việt Nam do Ðức Chí Tôn ân ban ngày 1-Giêng-Ất Tỵ (dl ). Mục đích được đề ra cơ quan là của toàn đạo do Ơn Trên chỉ định lập ra để tổ chức các phương cách phương pháp và phương châm với mục đích phổ thông và phổ biến trong nhơn sanh một giáo lý Cao Ðài thuần nhất... Một Ban Thường Vụ gồm có: 1 Tổng Lý Minh Ðạo. 1 Tham Lý Minh Ðạo. 1 Tổng Thơ Ký được lập ra để điều hành, điều khiển Cơ Quan. Dưới đó có một số Văn Phòng Vụ Trưởng, các Ban Giáo Sĩ, Tu Sĩ... Tổng Lý Minh Ðạo, Hiệp Lý Minh Ðạo, Tham Lý 68

69 E. Nhóm đặc biệt: Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Ðài Giáo Việt Nam Minh Ðạo và Tổng Thơ Ký là tứ trụ của Cơ Quan, mà 3 vị đứng đầu là những vị làm chánh sách và vạch đường lối, còn Tổng Thơ Ký là chấp hành. (Ơn Trên phong Ngài Trần Văn Quế đạo hiệu Huệ Lương là Tổng Lý Minh Ðạo, Ngài Ðỗ Vạn Lý đạo hiệu Minh Lý là Tham Lý Minh Ðạo, kiêm nhiệm Quyền Tổng Thơ Ký. Ðức Lý Giáo-Tông giao cho Ngài Ðỗ Vạn Lý soạn Bản Qui Ðiều Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý và được Ơn Trên phê chuẩn gọi là Thánh Dụ Qui Ðiều.) Cơ quan Phổ thông giáo lý theo lịnh Ơn Trên là cơ quan cuối cùng của cơ Ðại Ðạo ở tại Việt Nam, với một nhiệm kỳ 20 năm kể từ năm 1965 như Ơn Trên đã định. Thật thế, đến năm 1985, sai lệch vài năm, tất cả những vị có trọng trách trong Cơ Quan đều được Ðức Chí Tôn gọi về hoặc ra đi hết. Có thể nói đến đây là hết một nguơn 60 năm của cơ Ðại Ðạo hành đạo trong nước Việt Nam, chấm dứt một giai đoạn đầu tiên của đời sống của cơ Cao Ðài giáo. 20 năm đã được Ðức Chí Tôn ấn định cho Cơ Quan là 20 năm vớt vát cho cơ Ðạo sau sự thất bại của những cố gắng thống nhứt trước đó. Vì lẽ đó mà Cơ quan Phổ thông giáo lý được thành lập hơi khác các Chi, các Phái, các Nhóm khác trong Ðạo từ trước tới giờ... Nơi đây cũng nên ghi nhận ngay một việc là Cơ Quan nầy cũng nhằm vào mục đích thống nhứt Ðạo chớ không phải không, nhưng phương pháp để đi đến mục đích đó không trực tiếp như những Hội Long Vân hoặc những Nhóm khác. Cơ Quan hướng về cơ thống nhứt một cách gián tiếp, coi đó như là kết quả đương nhiên của chương trình phổ thông một Giáo lý thuần nhứt mà tất cả toàn 69

70 CHƯƠNG I đạo đồng phải chấp nhận. Cái khác biệt của Cơ quan Phổ thông giáo lý là Cơ Quan thì chỉ là một Cơ Quan thôi. Như một Cơ Quan thì nó không có quyền hạn của một Hội Thánh, Thánh Thất, Thánh Tịnh, không nằm trong Luật Ðạo, dù rằng Cơ Quan rất kính trọng và tuân theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền. Cơ Quan không có Phận đạo riêng của mình, không có tín đồ riêng của mình, không nhập môn, không Tắm Thánh, không có Chức sắc, không tùy ai mà cũng không lãnh đạo ai, chỉ có một Văn Phòng với một số Phận sự và Ðạo tâm tình nguyện. Là một Cơ Quan nên cũng không có phép và không có quyền hành Hôn Tang Tế sự. Cơ Quan chỉ có một nơi nho nhỏ thờ phượng Ðức Chí Tôn và cúng Tứ thời. Vì thế, Cơ Quan không có cái chi để có thế cho lớn hơn hay nhỏ hơn ai cả. Cơ Quan cũng không có sổ Công nghiệp để đem dâng trình cho ai để lên phẩm lên vị, lên chức. Phận sự niên cao thì được gọi là Ðạo Trưởng, hoặc Ðạo huynh, Ðạo tỷ, còn nhỏ tuổi hơn thì gọi Ðạo đệ, Ðạo muội. Cơ Quan chỉ chú trọng vào tinh thần, vào giáo lý, vào phụng sự Thượng Ðế, để giúp đỡ tất cả các Chi phái, các Nhóm và nhơn sanh. Tất cả cái chi trong Ðạo: của cải, Thánh đường, Thánh Thất, Thánh Tịnh, Văn phòng, tín đồ, nhơn sanh, là của Thượng Ðế tất cả. Cơ quan Phổ thông giáo lý chỉ là một Cơ Quan thôi, không có lợi, cũng không có quyền, nên không cạnh tranh, không giành giựt, không dẫm chân lên ai cả, chỉ cho, chỉ hiến dâng chứ không lấy, không thâu nhập của ai trừ ra của thiêng liêng mà thôi, cũng không ăn bánh vẽ 70

71 E. Nhóm đặc biệt: Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Ðài Giáo Việt Nam mà cũng không cho ai ăn bánh vẽ. Cơ Quan chỉ có tinh thần và tinh thần mà thôi. Nếu Giáo lý là cây cầu nối liền các Chi phái ở Việt Nam thì Giáo lý, theo lẽ phải, cũng là cây cầu nối liền Cao Ðài giáo với các tôn giáo bạn ở Việt Nam và ở cả thế giới năm châu bốn biển vậy. Cũng vì lẽ tinh thần và phương châm hoằng dương Chánh đạo như thế nầy nên Cơ Quan không nê chấp lắm về phương diện hình thức bề ngoài đã được thể hiện và áp dụng các nơi, dù rằng mong mỏi các nơi đều thể hiện một hình thức thuần nhứt trong Ðạo đúng theo tinh thần Pháp Chánh Truyền, Tân Luật và những điều đã được Ðức Chí Tôn dạy dỗ, tức là Chơn truyền Chánh pháp. Cũng vì lẽ nầy, Cơ Quan cũng lấy phương pháp song tu cho những Phận sự và cho luôn những ai muốn cùng theo phương pháp đó. Song tu là vừa tu phước và tu huệ, nghĩa là phổ độ cùng với vô vi. (Trích trong quyển Tìm Hiểu Ðạo Cao Ðài của Ðạo Trưởng Ðỗ Vạn Lý) Trong danh xưng Cơ quan Phổ thông giáo lý Cao Đài giáo Việt Nam, nhiều vị cho rằng chữ Việt Nam đã đóng khung, làm hạn hẹp tầm quan trọng của sứ mạng truyền bá giáo lý Cao Ðài. Nên năm 1996, danh xưng trên đổi lại là: Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Ðại Ðạo. Nhiệm vụ của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Ðại Ðạo được Ðức Phật Mẫu giáng cơ dạy như sau: Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý có ba việc tối yếu phải làm: Phổ thông Giáo lý. Tổ chức Nữ Chung Hòa. Ðào tạo thế hệ tiếp nối. 71

72 CHƯƠNG I Các vụ các ban, về mặt hành chánh vẫn tiến hành trong khuôn viên mẫu mực, nhưng đừng quên phần Phổ thông Giáo lý là then chốt của Cơ Quan. Ngày nay thế giới bất hòa, xã hội loài người bất hòa, quốc gia bất hòa, tôn giáo bất hòa, các đoàn thể trong nước bất hòa, rất đỗi những người cùng một tổ chức, một cơ quan, một hiệp hội cũng bất hòa. Ðó là triệu chứng của sự tan rã đi đến chỗ diệt vong. Nữ Chung Hòa được tái lập đúng lúc, đúng thời kỳ và đúng sứ mạng của nó. Nữ Chung Hoà đảm trách những công việc thích hợp với Nữ giới: Hướng vào nhiệm vụ của người làm mẹ, làm chị gương mẫu, tạo nên nề nếp đạo đức trong mỗi gia đình, làm gương mẫu cho đoàn con cái noi theo. Dẫn dắt đào luyện mầm non cho đạo. Làm công tác xã hội phước thiện. Ðào tạo thế hệ tiếp nối bằng cách thành lập đội: Thanh Thiếu Niên Phổ Thông Giáo Lý để làm lò đúc, làm học đường rèn luyện Thanh Thiếu niên làm rường cột truyền Ðạo ở tương lai. (Trích: Nói Chuyện Cao Ðài của Ngài Thiên Vương Tinh) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý không có hệ thống Chức sắc lưỡng Ðài như các Chi phái, nhưng có Cơ bút riêng, đồng tử riêng, có Ban Nghiên Cứu Giáo lý và Ðạo sử, tổ chức các lớp huấn luyện Giáo sĩ, mở các khóa dạy tu Thiền định, xuất bản báo chí. Trước 1975, Cơ quan Phổ thông Giáo lý có xuất bản Nguyệt san Cao Ðài Giáo Lý, rất được nhiều giới ủng hộ. 72

73 F. Vấn đề qui hiệp các Chi phái Cao Ðài F. VẤN ĐỀ QUI HIỆP CÁC CHI PHÁI CAO ÐÀI I. CÁC PHONG TRÀO THỐNG NHỨT CHI PHÁI Kể từ năm 1936 đến trước ngày giải phóng , nhiều tín đồ Cao Ðài có nhiệt tâm lo âu sự phân chia Chi phái của nền Ðại Ðạo nên đã đứng ra lập nhiều cơ quan vận động qui hiệp các Chi phái, mặc dầu không thành công nhưng cũng gây được tiếng vang tốt trong dư luận, xin lần lượt kể ra: Năm 1936, một đàn cơ mà Liên Hoa làm đồng tử, Ơn Trên dạy lập một tổ chức gọi là Cao Ðài Ðại Ðạo Liên Ðoàn đặt trụ sở tại Thánh Thất Cầu Kho. Một số vị được bầu vào Ban Chưởng quản: Ðốc phủ Nguyễn Văn Kiên làm Hội Trưởng, ông Cao Triều Phát làm Phó Hội Trưởng... nhưng tổ chức nầy không làm được việc gì vì nội bộ bất đồng ý kiến. Cũng năm 1936, Ơn Trên lại dạy quí vị: Nguyễn Phan Long, Ðoàn Văn Bản, Trần Quang Nghiêm, Trần Văn Quế, hợp nhau lập ra Liên Hòa Tổng Hội để tổ chức các cuộc Hội Long Vân vận động hòa hiệp các Chi phái. Liên Hòa Tổng Hội tổ chức được 12 Hội Long Vân, nhưng các Chi phái rất thờ-ơ trong việc hòa hiệp. Ơn Trên dạy Liên Hoà Tổng Hội phải giải nhiệm sau kỳ Hội Long Vân 12, vì Ơn Trên tiên tri rằng: Liên Hòa vị hiệp đạo lương vong, Lãnh tụ khâm sai họ nạn hồng. Hội Long Vân 12 tại Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài ở Hạnh Thông Tây Gò Vấp, ngày Canh Thìn (1940) thì đệ nhị thế chiến sắp bùng nổ, ở Việt Nam quân đội 73

74 CHƯƠNG I Pháp bắt các lãnh đạo tôn giáo cầm tù và lưu đày. Năm 1945, ông Cao Triều Phát lập Cơ Quan Cao Ðài Hiệp Nhứt, sau có ông Lê Kim Tỵ và Bùi Văn Nhàn tiếp nối, nhưng công việc không được nhiều người hưởng ứng. Năm 1952, ông Nguyễn Bửu Tài cùng với quí ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn Quế lập ra Cơ Quan Cao Ðài Qui Nhứt, nhưng cũng không qui tụ được bao nhiêu người. Năm 1964, ông Trần Văn Quế lập ra Phái Ðoàn Thiện Tâm hướng về Tòa Thánh Tây Ninh, tiếp xúc với Hội Thánh Toà Thánh Tây Ninh thảo luận việc thống nhứt các Chi phái, được Hội Thánh Toà Thánh Tây ninh ủng hộ. Công việc thấy có kết quả bước đầu, nhưng sau đó không tiến thêm được. Năm 1969, ông Phan Khắc Sửu (đạo hiệu Huỳnh Ðức) lại cầm đầu một Phái đoàn đông đảo gồm 72 đại diện một số Hội Thánh Chi phái lên Tòa Thánh Tây Ninh họp để thảo luận vấn đề thống nhứt Chi phái. Ông Phan Khắc Sửu dùng uy tín bên Ðời và bên Ðạo của ông gây được một phong trào lớn, có tánh cách qui mô. Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh hợp tác thảo luận, đạt được một số nguyên tắc chung. Năm 1972, Hội Thánh Toà Thánh Tây Ninh cử Ngài Bảo Ðạo Hồ Tấn Khoa làm đại diện mời lãnh đạo các Chi phái họp tại Toà Thánh Tây ninh để tiếp tục bàn về sự qui hiệp các Chi phái. Ðược biết, trong Hội Thánh Toà Thánh Tây ninh, Ngài Bảo Ðạo Hồ Tấn Khoa có đại nguyện thống nhứt các Chi phái, nên Hội Thánh cử Ngài lo công việc thống nhứt nầy thì rất hợp với ý nguyện 74

75 F. Vấn đề qui hiệp các Chi phái Cao Ðài của Ngài. Các Chi phái hưởng ứng lời mời nên lên họp tại Tòa Thánh Tây Ninh rất đông. Hội nghị bước đầu đạt thỏa thuận gồm 5 điểm: Làm sáng tỏ danh Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn trong và ngoài nước, y theo Chơn truyền Luật pháp của Ðạo (Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển). Tương thân tương trợ, tương ái tương liên trong phạm vi đạo đức. Không làm Chánh trị, không lập Quân đội. Bành trướng sâu rộng cơ phổ độ trong và ngoài nước, hiệp sức mở mang công việc văn hóa và từ thiện phục vụ nhơn sanh. Tạm thời tôn trọng hệ thống tổ chức nội bộ của mỗi Chi phái cho tới ngày Ðức Chí Tôn phán đoán. Hội Nghị thành lập được một Hội Ðồng Vận Ðộng Thống Nhứt Ðại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà Ngài Hồ Tấn Khoa được bầu làm Trưởng Ban Thường Vụ Lâm thời. Hội Ðồng tổ chức được vài cuộc viếng thăm thân hữu trụ sở của vài Chi phái, rồi đến ngày giải phóng, Hội Thánh và các Cơ quan của Ðạo Cao Ðài ở khắp nơi đều bị giải thể. Qua các điểm vừa trình bày trên, chúng ta nhận thấy việc qui hiệp các Chi phái của Ðạo Cao Ðài, tuy có nhiều cố gắng của Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh và của một vài Chi phái, nhưng cuối không đạt được tiến bộ quan trọng nào. 75

76 CHƯƠNG I II. MỤC SƯ TIN LÀNH OLLIVER NHẬN ĐỊNH Mục Sư Olliver đạo Tin Lành, người Mỹ, khi nghiên cứu về Ðạo Cao Ðài có bày tỏ ý kiến sau đây: (dịch ra Việt văn) Tôi rất buồn mà thấy rằng các Chi phái trong Ðạo Cao Ðài chỉ nói tốt cho mình mà hạ phẩm giá người khác. Ðiều đáng buồn hơn hết là mỗi Chi phái đều quá ư tự túc tự mãn và không hề nói đến sự thống nhứt, dù rằng đó là sự thống nhứt tinh thần. Một vài Chi phái khi nghe nói đến việc thống nhứt thì nghiễm nhiên tuyên bố: Ðấng Chí Tôn sẽ làm cho chúng tôi. Các Chi phái trong Ðạo Cao Ðài mà hiệp nhau lại được thì trước nhứt sẽ có lợi trong các Chi phái ấy và sau đó là lợi cho quốc gia Việt Nam của họ. Trước khi chờ Ðấng Chí Tôn làm giùm cho chư vị, thì chính chư vị phải cố gắng đứng lên làm một việc gì trước đã. Lời phê bình và nhận xét của Mục Sư Olliver khá xác đáng để cho mỗi tín đồ Cao Ðài chúng ta quan tâm và suy nghĩ nhiều hơn. Họ là người ngoại quốc, nên cái nhìn rất khách quan, không thiên vị một bên nào. Nhưng thực sự ta nghe lòng xao xuyến và ái ngại vô cùng.! G. TẠI SAO CÁC CHI PHÁI KHÔNG THỐNG NHỨT ĐƯỢC? Ðây là một câu hỏi làm hoang mang rất nhiều người. Những người hành đạo đi sau có cảm tưởng dường như càng vận động thống nhứt, càng có sự dạy dỗ khuyên lơn, khuyến cáo của chư Thiêng liêng chừng nào thì chia rẽ lại càng trầm trọng chừng nấy. 76

77 G. Tại sao các Chi phái không thống nhứt được Có lẽ những người hành đạo đi sau bực tức hơn là hoang mang, bực tức cho sự việc, vì sự việc đã biến thành những chướng ngại vật cho sự tiến triển của cơ Ðạo mà mình muốn để vào một tay xây dựng... Ðức Chí Tôn chỉ trông cậy có một điều là thiệt lòng, là chơn thành mà thôi. Với Thầy, Thầy muốn ở các con cái của Ngài một tấm lòng hoà thuận, thương yêu, hiệp đồng cùng nhau trong một chủ nghĩa Đại-Đồng. Dù cả một cố gắng là Qui Tam giáo hiệp ngũ chi, tuy vậy mà còn dễ hơn là Thống nhứt các Chi phái. Hình như có một mặc cảm như thế nào ấy. Mong sao mỗi người tự ý thức mà dẹp lần những cái riêng tư, những nỗi xót xa nếu có, để cùng nhìn vào một chơn lý cao đẹp của Đạo Trời. Thầy đã ân cần nhắc nhở: Chư sơn nghe dạy: Vốn từ Lục Tổ thì Phật Giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành; Chánh Pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh Giáo, lập riêng pháp luật buộc mối Ðạo Thiền. Ta vì luật lịnh Thiên mạng đã ra cho nên cam để vậy, làm cho Phật Tông thất chánh có trên ba ngàn năm nay. Vì Tam Kỳ Phổ Ðộ, Thiên Ðịa hoằng khai, nơi Tây Phương Cực Lạc và Ngọc Hư Cung mật chiếu đã truyền siêu rỗi chúng sanh. Trong Phật Tông Nguyên Lý đã cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi; tại tăng đồ không kiếm chơn lý mà hiểu. Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành đạo... Ôi! Thương thay! Công có công, mà thưởng chưa hề có thưởng; vì vậy mà Ta rất đau lòng. 77

78 CHƯƠNG I Ta đến chẳng phải cứu một mình chư tăng mà thôi; vì trong thế hiếm bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật phải đọa hồng trần, Ta đương lo cứu vớt. Chư tăng, chư chúng sanh hữu căn hữu kiếp, đặng gặp kỳ Phổ Ðộ nầy là lần chót; phải rán sức tu hành, đừng mơ mộng hoài trông giả luật. Chư sơn đắc đạo cùng chăng là do nơi mình hành đạo. Phép hành đạo Phật Giáo dường như ra sái hết, tương tợ như gần biến Tả Ðạo Bàng Môn. Kỳ truyền đã thất, chư sơn chưa hề biết cái sai ấy do tại nơi nào; cứ ôm theo luật Thần Tú, thì đương mong mỏi về Tây Phương mà cửa Tây Phương vẫn cứ bị đóng, thì cơ thành chánh quả do nơi nào mà biết chắc vậy. Ta đã đến với huyền diệu nầy, thì từ đây Ta cũng cho chư tăng dùng huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng vì thất học mà chịu thất kỳ truyền. Chư tăng từ đây chẳng đặng nói Phật giả vô ngôn nữa. 78

79 1- Thái Chưởng Pháp: Hòa Thượng Như Nhãn ( ) bỏ Đạo CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài (Tách rời Tây Ninh hoặc lập Chi phái ) 1. Thái Chưởng Pháp: Hoà Thượng Như Nhãn 2. Ngài Ngô văn Chiêu lập Chiếu Minh 3. Ông Vương Quan Kỳ: lập phái Cầu Kho 4. Hoà Thượng Thiện Minh bị Đức Lý cách chức 5. Ông Phối-Sư Thái Ca Thanh: lập Minh Chơn lý 6. Giáo Hữu Ngọc Chính Thanh: Phái Tiên Thiên 7. Phái Minh Chơn Đạo: Chưởng Pháp Trần Đạo Quang 8. Phái Bến Tre: Hai vị Quyền Đầu-Sư: Tương và Trang 1- THÁI CHƯỞNG PHÁP: HÒA THƯỢNG NHƯ NHÃN ( ) BỎ ĐẠO Hòa Thượng Như Nhãn, thế danh là Nguyễn Văn 79

80 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Tường, sanh năm 1864, con của ông Nguyễn Văn Bầu và bà Ðoàn Diệu Hoa, quê quán ở Ðức Hòa (Long An), đi tu từ năm 17 tuổi, qui y với Hòa Thượng Thích Trí Lượng (Minh Ðạt) trụ trì ở chùa Thiền Lâm Cổ Tự (xóm Chùa, tỉnh Tây Ninh), thọ Pháp danh là Thích Từ Phong. Nguyên vào năm Mậu-Tý (1888) tại vùng Phú Lâm Chợ-Lớn (đường Bà Kế, khu vực Chợ Gạo, nay là Bến Phú Lâm, Quận 6) bà Hồ Thị Lộc có xây một ngôi chùa lớn, đặt tên là Chùa Giác Hải, bà giao cho ông Thủ Tọa Nguyễn Minh Sự coi sóc. Ông Sự mất năm Sư Thích Từ Phong về đây kế nghiệp, trụ trì Chùa Giác Hải. Năm 1912, Ngài Thích Từ Phong giữ chức Yết Ma và năm 1924 Ngài được phong chức Hòa Thượng, nên các Phật-tử tại vùng nầy thường gọi Ngài là Hòa-Thượng Giác-Hải. Trong lúc trụ trì ở chùa Giác-Hải, Hòa-Thượng Giác Hải có quyên góp tiền bạc trong bổn đạo để mua đất và lập một cảnh chùa tại vùng Gò Kén, Tây Ninh, lấy tên là Từ Lâm Tự (sau đổi lại là Thiền Lâm Tự). Chùa được xây dựng trên một khu đất gò rộng 4 mẫu, trên Quốc lộ 22 Sài-Gòn Tây-Ninh, từ lộ vô khoảng 200 mét và cách thị xã Tây-Ninh chừng 5 cây số, phía trước cất chùa, phía sau làm nghĩa địa. Trong số bổn đạo đóng góp tiền mua đất và xây chùa Từ Lâm ở Gò Kén, ông bà Huyện Nguyễn Ngọc Thơ và Bà Lâm Ngọc Thanh cũng có đóng góp tiền bạc vào nhiều hơn hết. Chùa mới vừa xây dựng xong phần chánh, chưa trang trí, chưa làm đường lớn từ quốc lộ vào chùa, không có Đông lang, Tây lang. Lúc đó là vào năm Vào giữa năm Bính-Dần (1926) ông bà Nguyễn Ngọc 80

81 1- Thái Chưởng Pháp: Hòa Thượng Như Nhãn ( ) bỏ Đạo Thơ được Ðức Chí-Tôn thâu làm Môn đệ, nhập vào Ðạo Cao Ðài. Hai ông bà cũng muốn Ðức Chí Tôn thâu phục Hòa-Thượng Như-Nhãn, nên ông bà thuyết phục Hòa Thượng đến dự một đàn cơ cầu Ðức Chí Tôn tại nhà Ngài Nguyễn Ngọc Thơ ở Tân-Ðịnh. Ðức Chí Tôn giáng cơ thâu nhận Hòa Thượng Như Nhãn. Giữa tháng 7 năm Bính-Dần (1926) Hòa Thượng Như Nhãn được Ðức Chí Tôn thâu làm Môn đệ. Sau đó, do sự yêu cầu của ông bà Thơ, Hòa Thượng Như Nhãn hiến chùa Từ Lâm (Gò Kén) cho Ðạo Cao Ðài dùng làm Thánh Thất tổ chức Lễ Khai Ðạo. (Có lẽ trong thời gian xây dựng chùa Từ Lâm ở Gò Kén, Hòa thượng Giác Hải lấy hiệu là Như Nhãn). Ngày 29-7-Bính Dần (dl ), Hòa Thượng Như Nhãn được Ðức Chí-Tôn giáng cơ ân phong là: Quảng Pháp Thiền Sư Thích Ðạo Chuyển Luật Lịnh Diêu Ðạo Sĩ: Chưởng Pháp phái Thái. Ngày Bính Dần (dl ) Ðại Lễ Khai Ðạo Cao Ðài được tổ chức long trọng tại Thánh Thất Từ Lâm Tự (Gò Kén, Tây Ninh) có hằng vạn tín đồ Cao Ðài dự lễ, số quan khách ngoài đời cũng đến dự rất đông. Ðêm 14 rạng 15 tháng 10 âm-lịch, tổ chức đàn cơ trong Thánh Thất, Ngài Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt trấn pháp sót một cửa, nên thừa dịp nầy, quỉ nhập vào đàn, một con quỉ nhập vào ông Lê Thế Vĩnh xưng là Tề Thiên Ðại Thánh, một con quỉ khác nhập vào cô Vương Thanh Chi xưng là Lê Sơn Thánh Mẫu, nói năng lộn xộn rồi nắm tay nhau nhảy múa, khiến cho nhiều người mới vào Ðạo Cao Ðài bị mất đức tin. 81

82 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Hòa Thượng Như Nhãn cũng bị mất đức tin. Mặc khác, số đệ tử của Hòa Thượng Như Nhãn yêu cầu Ngài bỏ Ðạo Cao Ðài và đòi chùa lại. Hòa Thượng Như Nhãn nghe theo và quyết định đòi chùa Từ Lâm, không hiến cho Ðạo Cao Ðài nữa, hẹn trong 3 tháng Ðạo Cao Ðài phải dời Ngày Bính Dần, Hòa Thượng Như Nhãn bị thiêng liêng quở phạt làm cho đau nặng. Ngày Bính Dần, Ðức Chí Tôn giáng cơ quở phái Thái và Hòa Thượng Như Nhãn, tỏ ý muốn phế bỏ phái Thái. Ðức Phổ Hiền Bồ Tát cầu xin Đức Chí Tôn tha thứ cho phái Thái và đừng bỏ phái Thái (phái Phật). Ðức Lý Giáo-Tông giáng cơ trục xuất Hòa Thượng Như Nhãn ra khỏi Ðạo Cao Ðài.Tháng 2 năm Ðinh Mão, Ðức Lý Giáo-Tông quyết định trả chùa Từ Lâm cho Hòa Thượng Như Nhãn và chỉ dẫn Hội Thánh tìm mua được 96 mẫu đất tại làng Long Thành (Tây Ninh) để dời các cơ sở của Ðạo về nơi đây, lập thành Tòa Thánh Trung ương của Ðạo Cao Ðài. Hòa Thượng Như Nhãn qui liễu vào ngày 5-12-Mậu Dần (dl ) hưởng thọ 75 tuổi. Tháp của Ngài được xây ngay trước Từ Lâm Tự (nay là Thiền Lâm Tự) Gò Kén (Tây ninh). Trên bia mộ có đề chữ Hán, dịch ra như sau đây: Ngài là Ðại Lão Hòa Thượng Thiền Tông Lâm Tế đời thứ 39. Ngày sanh: 15-3-Giáp Tý (1864). Ngày qui: Mậu Dần (1939), thọ 75 tuổi. Tháp của Hòa Thượng Như Nhãn xây ở chính giữa, hai tháp hai bên là của hai vị: Hoà Thượng Minh Ðạt, 82

83 1- Thái Chưởng Pháp: Hòa Thượng Như Nhãn ( ) bỏ Đạo thầy của Ngài Như Nhãn và Hòa Thượng Hồng Tằng, học trò của Ngài Như Nhãn. A- NHƯ NHÃN ĐÒI CHÙA NÊN TOÀN ĐẠO PHẢI TÌM MUA ĐẤT LÀM ĐỀN-THÁNH Sự diễn tiến: * Sau khi làm Lễ Khai Đạo tại chùa Từ Lâm (Gò Kén) ngày Bính-Dần (dl ) chủ chùa Từ Lâm là Hòa-Thượng Như-Nhãn (Giác-Hải) đòi chùa lại, không hiến cho Hội-Thánh Cao-Đài nữa, kỳ hẹn trong 3 tháng buộc phải dời đi. * Ngày 19-1 Đinh-Mão (dl ) tại Từ Lâm Tự, Đức Lý Giáo-Tông giáng cơ quyết định trả chùa lại cho Hòa-Thượng Như-Nhãn, rồi dạy Hội-Thánh đi chọn mua đất cất Tòa-Thánh, phải chọn đất tại Tây-Ninh nầy mà thôi. Đức Lý xin mua đất nơi khác nhưng Đức Chí-Tôn không chịu, bởi vì Tây-Ninh là Thánh-địa, nơi đây phong thổ thuận tiện cho người ngoại-quốc đến học Đạo. * Ngày 20-1 Đinh-Mão (dl ) cũng tại Từ Lâm Tự, Đức Chí-Tôn giáng cơ xác định: Các con phải chung hiệp nhau mà lo cho hoàn toàn Tòa Thánh, chi chi cũng ở tại Tây Ninh nầy mà thôi. Trước khi tìm mua đất thì Đạo Cao Đài làm Lễ Khai Đạo ngày Bính-Dần (dl ) tại đây làm Thánh-Thất tạm, đặt tại Chùa Từ-Lâm (tục gọi là Chùa Gò Kén, Tây-Ninh). Nguyên ngôi chùa nầy do Hòa-Thượng Như-Nhãn (cũng gọi là Hòa-Thượng Giác-Hải) góp tiền bổn đạo mua đất và xây dựng nên. Kịp khi Đức Chí-Tôn giáng cơ mở Đạo, Đức Chí-Tôn dùng Huyền-diệu Cơ Bút độ được Hòa 83

84 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Thượng Như-Nhãn theo Đạo và trở thành một vị Chức sắc Đại-Thiên-phong của Đạo Cao-Đài, nên Hòa-Thượng Như Nhãn hiến chùa Từ-Lâm cho Hội-Thánh Cao-Đài làm Thánh-Thất, tổ chức Lễ Khai Đạo. Nhưng sau ngày Lễ Khai Đạo, Hòa-Thượng Như-Nhãn một phần bị mất Đức tin, một phần bị nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ xúi giục và hăm dọa, Hòa-Thượng Như-Nhãn không theo Đạo Cao Đài nữa và đòi chùa lại, không hiến cho Hội Thánh. Hội-Thánh Cao-Đài phải trả chùa lại cho Ông Như Nhãn và hứa trong 3 tháng sẽ tìm đất mới để dọn đi. Kể từ Rằm tháng 10 năm Bính-Dần (1926) tới Rằm tháng Giêng Đinh-Mão (1927) là đúng kỳ hứa trả chùa Từ Lâm (Gò Kén) là 3 tháng, nhưng tới tháng 2 năm Đinh- Mão, đã quá kỳ hạn 1 tháng mà Hội Thánh chưa trả chùa lại được, vì chưa kiếm được đất để mua, còn Ông Hòa Thượng Giác Hải thì cứ đòi chùa lại hoài. (Đạo-Sử I /51) Vì sự đòi Chùa ấy nên Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy tại chùa Gò-Kén ngày 19-1 Đinh-Mão (dl ): Ngày nay Lão nhứt định chùa nầy trả lại. Xong trước khi trả, phải cất Thánh Thất cho xong y như lời dạy. Chư Đạo hữu phải hiệp sức nhau đặng lập thành Tòa Thánh, chi chi cũng tại Tây Ninh nầy mà thôi, vì là Thánh địa. Vả lại phong thổ thuận cho nhiều nước ngoại quốc đến đây học Đạo. Lão muốn nơi khác mà Đức Chí Tôn không chịu. Thượng Trung Nhựt! Phải làm thế nào chừa đất dư ra ít nữa là 50 mẫu là trọn cả bản đồ Bạch Ngọc Kinh và cho đủ Thánh địa ấy. Hiền hữu đi chọn đất về cho Lão hay, cầu khẩn Chí Tôn nghe! 84

85 1- Thái Chưởng Pháp: Hòa Thượng Như Nhãn ( ) bỏ Đạo (Trích Đạo-Sử. II/ 222) Hôm sau, cũng tại chùa Gò Kén, ngày 20-1 Đinh Mão (Dl ) Đức Chí-Tôn giáng dạy như sau: Các con nghe! Nơi nào Thầy ngự thì nơi ấy là Thánh địa. Thầy đã ban sắc cho Thần Hoàng Long Thành thăng lên chức Văn Xương vào trấn nhậm làng Hiệp Ninh dạy dỗ dân vô đạo, Thầy ban quyền thưởng phạt, đặng răn làng ấy cho đến ngày chúng nó biết ăn năn cải quá. Vậy thì Làng Long Thành, các con khá an lòng. Còn Tòa Thánh thì muốn để cho có nhơn lực hiệp cùng Thiên ý là hạnh của Thầy, các con nên xem gương mà bắt chước. Từ Thầy đến lập Đạo cho đến giờ, Thầy chưa hề một mình chuyên quyền bao giờ. Các con lựa chọn nơi nào mà Hội Thánh vừa lòng thì là đẹp lòng Thầy. Các con phải chung hiệp nhau mà lo cho hoàn toàn Tòa Thánh, chi chi cũng tại Tây Ninh nầy mà thôi. Các con đã hiểu Thánh ý Thầy, phải cần kiệm mỗi sự chi về phương tiện mà thôi. Thơ! Thầy giao cho con góp tư bổn trong một tháng cho rồi, dặn các em con rằng: Danh thể Đạo nơi Tòa Thánh, nghe à!. Sau Thái Bạch sẽ dạy con kiểu vở. Cẩm Giang thì các con phải chịu khổ về phần ăn uống, Bén Kéo thì địa thế hẹp hòi, chớ chi các con khôn ngoan lấy cớ rằng: vì ích lợi lương sanh, vì đạo đức mà ký Chánh phủ cho các con mé rừng Cấm bên kia đường thì đẹp lắm. Các con liệu thử! Thơ! Suối Vàng thì đặng, phương chuyên chở không thuận tiện, song phong thổ tốt đẹp. Con cũng yêu cầu Hội Thánh xét nét, nghe à! Thầy ban ơn cho các con. 85

86 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài (ĐS. II. 223) & [TNHT. I. 98] Tiếp theo, cũng tại chùa Gò Kén, ngày 21-1 Đinh Mão (Dl ) Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy tìm đất Thánh Địa: Thượng Trung Nhựt! Thái Thơ Thanh! Cười! Nhị vị Hiền hữu muốn cho Đạo phải mang tiếng rằng: Trốn lánh hay sao mà tính dời Tòa-Thánh xa dữ vậy hử? Tỷ như Lão muốn lập Tòa Thánh gần bên thành binh, chư Hiền hữu tưởng sao? Trung bạch: Có hai làng cúng đất. Mua thì đặng, khó gì! Một nơi chí Thánh trước mắt mà chư Hiền hữu chẳng biết xem, ấy cũng còn hai phần phàm. Thái Thơ Thanh! Lão cậy Hiền hữu một phen nữa, mai nầy đi lên đường trên gọi là đường dây thép, nhắm địa thế dài theo cho tới ngã ba Ao Hồ, coi Hiền hữu thấy đặng chăng cho biết. Lão đã nói rằng: Mỗi sự chi đều bày trước mắt nhơn sanh hết. Chư Hiền hữu đừng sợ ai hết, hễ sợ thì chối quyền Thiêng liêng của Chí Tôn thì còn gì Đạo! nghe à! (Đạo-Sử. II./ 224) B- ĐỨC HỘ-PHÁP NÓI VỀ VIỆC MƯỢN CHÙA TỪ LÂM CỦA HOÀ THƯỢNG GIÁC HẢI Đức Chí Tôn nói chi chi cũng tại Tòa Thánh Tây Ninh nầy mà thôi. Ngó lại thấy hiện tượng của Đạo nghèo đến nước không phương thế làm chùa để mượn Từ Lâm Tự của nhà Thiền tức của Hòa Thượng Giác Hải làm mới nửa chừng, họ muốn cho mượn đặng lợi dụng mình làm cho xong. Xuất của ra làm, chừng mở Đạo vừa xong quyền 86

87 1- Thái Chưởng Pháp: Hòa Thượng Như Nhãn ( ) bỏ Đạo Đời quyền Đạo xúm lại đè nén muốn hạ nhục làm cho rẻ giá trị, đòi chùa lại, đuổi đi. Thật vậy, họ đuổi đi, phải đi cấp thời, mua được đất Long Thành ngó lại toàn rừng già thú dữ đầy cọp beo đủ thứ. Như thế ấy mà nói chi chi cũng tại Tòa Thánh Tây Ninh nầy mà thôi. Nếu buổi ấy ai đức tin không vững chắc còn có nước trốn mà đi. Một phần đã từ bỏ Đạo vì lẽ ấy, còn những người có đức tin một chút nói rằng ở coi, coi họ làm sao tương lai sẽ như thế nào? Nếu nên thì mình theo, bằng không nên thì đả đảo rồi bỏ đi. Như vậy mà vẫn còn một đám người nữa vì thương chúng sanh kính trọng con cái Đức Chí Tôn đem đức tin để trọn vẹn nơi Ngài lo lắng cho tương lai của nhơn sanh, tự hỏi: nếu lời hứa của Đức Chí Tôn không thành tựu thì Đạo Cao Đài thành sao đặng, vì cớ, những kẻ ấy đem tất cả nhiệt huyết của mình đặng cứu dân, lời hứa của Đức Chí Tôn đem cả đức tin thực hiện cho thành tựu mong mỏi cứu tình thế, thấy khổ nhơn loại mà hy sinh tạo nghiệp. Bần Đạo ngó lại hai mươi mấy năm rồi biết bao nhiêu sanh mạng về gởi rừng nầy nơi nước độc bệnh chướng, nhìn lại Thánh Địa biết bao nhiêu mồ mã, biết bao xương máu. 87

88 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài 2- ÔNG NGÔ VĂN CHIÊU ( ) (Bỏ Toà Thánh tách ra lập Chiếu Minh vô vi) A 1. BÊN LỀ CUỘC SỐNG CỦA NGÀI NGÔ VĂN CHIÊU Ngày Bính Dần (Thứ hai: ) Đức Thượng Đế giáng Cơ dạy Đức Hộ-Pháp: Tắc! lập tức đi ngay đến nhà Trung có việc cần kíp! Dù đêm đã khuya, nhưng lịnh của Đức Chí-Tôn, Ngài phải thi hành, đến nhà Đức Quyền Giáo-Tông Lêvăn Trung ở số 39 đường Quai Testard Chợ-lớn. Đến nơi, vài phút sau thì cụ Ngô-văn-Chiêu cũng đến. Xuống xe, cụ tỏ vẻ đau đớn dường như không tự đi đứng được, hai Ngài Trung và Tắc phải dìu cụ vào nhà. Cụ Chiêu tiết lộ: 88

89 2- Ông Ngô Văn Chiêu ( ) Năm 1919 nơi đảo Phú Quốc, Đức Chí-Tôn thâu nhận cụ làm Đệ-tử và dạy đạo cho. Cụ Ngô đã ước hứa với Thầy là sẽ truyền Đạo của Thầy để cứu đời. Nay vì phong trào cầu Cơ của quí vị tiền khai Đại-Đạo đã thu hút cả hàng thượng lưu trí thức cùng cả giới nông, công, thương, nghèo hèn, khiến cho chánh quyền thực dân Pháp lo ngại nên gây áp lực buộc cụ Chiêu phải lấy tư cách người Anh Cả của nhóm đệ tử đầu tiên phải ra lịnh cho tất cả: ngưng việc cầu cơ! Chấm dứt việc chúng sinh cầu Đạo Nếu không tuân lịnh chúng sẽ cho Ngài nghỉ việc và truy tố ra Toà về tội Không chấp hành lời cam kết phải bồi thường Ngân khoản đào tạo. Những án phạt vừa kể, Cụ Chiêu còn có thể chịu đựng được, nhưng chúng còn doạ là cắt học bổng của con cháu cụ đang du học bên Pháp và cấm cả việc chuyển ngân của gia đình cho con cháu nữa. Do vậy mà lời phát nguyện khi xưa của cụ với ông Thầy Trời khó mà thực hiện được. Cụ Ngô văn Chiêu mới sở cậy Ngài Lê-văn-Trung ra gánh vác việc Đạo trong tương lai. Sau cùng Cụ Chiêu quyết định làm theo sự đòi hỏi của người Pháp. Cụ Chiêu đã chủ trương câu Ngô thân bất độ hà thân độ (thân tôi chưa độ được thì làm sao độ người). Bấy giờ Cụ Chiêu tách ra khỏi nhóm Đệ-tử tiền khai Đại-Đạo ở Toà-Thánh Tây-ninh và tự lập ra Chi-Phái Chiếu Minh và tu vô vi. Phái nầy do Ngài Ngô Văn Chiêu lập ra vào đầu năm 1927, sau khi Ngài đã bị truất ngôi Giáo-Tông, lúc đầu gọi là Cơ Tuyển Ðộ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi ở tại Châu Thành Cần Thơ. Sau khi Ngài Chiêu đăng Tiên thì ông Tư Huỳnh lãnh đạo. 89

90 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Phái Chiếu Minh chuyên về Nội giáo Vô Vi, Tâm pháp bí truyền luyện đạo, nên lựa chọn và thâu nhận rất ít tín đồ, hoạt động hạn hẹp ở ba nơi: Cần Thơ (Tổ đình), Phú Quốc và Sài Gòn. Hiện nay Phái Chiếu Minh lại phân ra: Chiếu Minh Long Châu và Chiếu Minh Ðàn. 2- TIỂU SỬ NGÀI NGÔ VĂN CHIÊU Ngài Ngô Văn Chiêu, sanh ngày 7 tháng Giêng năm Mậu-Dần (dl ) tại Bình Tây, Chợ Lớn, thân mẫu là bà Lâm-Thị-Quí và thân phụ là ông Ngô-Văn-Xuân thuộc dòng dõi quan Thị Lang của triều đình Huế. Khi Ngài Chiêu được 6 tuổi, ông bà thân của Ngài tìm được việc làm ở Hà-Nội nên đem Ngài gởi cho người em ruột là bà Ngô Thị Đây ở Mỹ Tho. Bà Đây có chồng là người Hoa, mở tiệm thuốc Bắc tại xã Điều Hòa, cạnh nhà việc, thuộc Mỹ Tho. Ngài Chiêu ở với cô ruột và được cô cho đi học, đến năm 12 tuổi thì nhờ người quen cũ của cha bảo lãnh xin vào học nội trú tại Collège Mỹ Tho. Sau đó Ngài lên Sài Gòn học tại trường Chasseloup Laubat và đậu bằng Thành Chung năm Ngài được 21 tuổi. Ngày , Ngài Ngô Văn Chiêu được nhận vào làm Thơ ký tại Sở Tân Đáo Sài Gòn. Ngài theo sự hướng dẫn của người cô ruột, kết hôn với bà Bùi Thị Thân, người làng Thạnh Trị, đang làm nghề buôn bán tại chợ Mỹ Tho. Ông Bà sanh được cả thảy 9 người con, cả trai lẫn gái. Ngày , Ngài Ngô Văn Chiêu được đổi về tùng sự tại Dinh Thượng Thơ (Bureau du Gouvernement de 90

91 2- Ông Ngô Văn Chiêu ( ) Cochinchine). Ngày , Ngài được đổi xuống làm việc tại Tòa Hành Chánh tỉnh Tân An. Ngày , Ngài đậu Tri Huyện, vẫn tiếp tục làm công chức tại Tân An. Ngài mua một căn nhà lá tại thị xã Tân An, sửa lại thành ba gian lợp ngói và đưa cả gia đình gồm vợ con về sống nơi căn nhà nầy. Đầu năm 1920, Ngài Chiêu buồn rầu vì thân mẫu mới mất nên Ngài xin đổi đi Hà Tiên. Ngày , Ngài được đổi xuống Hà Tiên, làm việc tại Tòa Hành Chánh tỉnh Hà Tiên được 8 tháng thì Ngài được chuyển ra làm Chủ Quận Phú Quốc ngày và làm việc tại đây được 4 năm. Ngày , Ngài được thăng lên ngạch Tri Phủ. Ngày , Ngài được đổi về Sài Gòn, làm việc tại Phòng Thương Mại trong Dinh Thống Đốc Nam Kỳ. Ngài Ngô Văn Chiêu mướn nhà ở nhiều nơi, nhưng sau rốt Ngài đến ở lầu 2 nhà số 110 đường Bonard (nay là đường Lê Lợi) Sài Gòn. Năm 1931, Ngài Ngô Văn Chiêu 54 tuổi, Ngài xin nghỉ làm công chức, lui về an dưỡng ở Cần Thơ. Trên bước đường làm quan cho nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ đang cai trị Nam Kỳ, Ngài Ngô Văn Chiêu nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chánh trực, công bình. Đối với bạn đồng liêu, Ngài rất khiêm tốn, ôn hòa. Đối với dân chúng, Ngài rất thân dân, hết lòng giúp đỡ, nhưng không bao giờ thọ lãnh lễ vật hay tiền bạc đền ơn đáp nghĩa. Lúc làm Chủ Quận, khi gặp nghi án thì Ngài chẳng nề khó nhọc, điều tra cho ra manh mối để tránh cho người dân 91

92 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài bị hàm oan hay bị ức hiếp. Lúc Ngài ở Phú Quốc, Ngài đã biết Đạo rồi, nên khi gặp những vụ thưa kiện, Ngài thường khuyên giải cả đôi bên giải hòa cùng nhau, khi hai bên chẳng chịu thì Ngài làm tờ giải lên tỉnh Hà Tiên. 3- QUÁ TRÌNH NGÀI CHIÊU NGỘ ĐẠO CAO ĐÀI Việc ở Tòa Hành Chánh tỉnh Tân An thì phong trào cầu cơ thỉnh Tiên cũng đang chớm nở tại đó. Ngài rất ngưỡng mộ, nên hợp tác với các bạn thân gồm quí ông: Đoàn Văn Kim (Một Kim), Lê Kiển Thọ (Bộ Thọ), Trần Phong Sắc, Nguyễn Văn Vân, tạo thành một nhóm cầu cơ, xin những bài thuốc chữa bịnh. Trong nhóm chọn ông Trần Phong Sắc làm Pháp đàn, ông Thọ làm đồng tử, Ngài Chiêu làm độc giả, ông Vân làm điển ký (ghi chép bài cầu cơ). Nhà Ngài Chiêu có thờ Đức Quan Thánh và Quan Âm Bồ Tát, nhà ông Thọ thì thờ Bát Tiên. Vào ngày rằm âm lịch mỗi tháng, Ngài Ngô Văn Chiêu đều tổ chức cầu cơ tại nhà của Ngài. Bài kinh cầu cơ lấy trong kinh Vạn Pháp Qui Tông, nhờ mấy đứa trẻ nhỏ, tắm rửa sạch sẽ, quần áo tươm tất, làm đồng nhi tụng kinh. Cuối năm 1917, thân mẫu của Ngài Chiêu lâm trọng bịnh, Ngài phải xuống đàn Cái Khế ở Cần Thơ để cầu xin thuốc cho mẹ uống. Ơn Trên giáng cơ cho bài thuốc, Ngài đem về cho mẹ uống thì mẹ Ngài hết bịnh, mạnh được vài năm. Sau đó thì mẹ Ngài bị bịnh trở lại, Ngài Chiêu trở xuống đàn Cái Khế cầu xin thuốc cho mẹ nữa, Ơn Trên chỉ giáng dạy đạo lý chớ không cho thuốc. Ngài vì quá thương mẹ nên đi lên đàn cơ ở Thủ Dầu Một xin 92

93 2- Ông Ngô Văn Chiêu ( ) thuốc một lần nữa. Ông Trần Hiển Vinh chủ đàn Minh-Thiện ở Thủ Dầu Một có thuật lại rằng: Bữa ấy, Ngài Ngô Văn Chiêu cùng ông Phủ Kim đến hầu đàn. Ông Kim quì ở trong, Ngài Chiêu quì ở góc ngoài. Khi Đức Quan Thánh giáng cơ, liền gọi tên Ngài Ngô Văn Chiêu và cho 4 câu thi, đại ý nói vườn thuốc của Phật Tổ đã bị trốc gốc. Qua bài thi nầy, Ngài Chiêu biết số mệnh của mẹ Ngài không qua khỏi. Đến cuối năm 1919 thì Bà từ trần. 1/. Đấng Cao Đài Tiên Ông giáng cơ xưng danh lần đầu tiên: Đầu năm 1920, vài tháng trước khi Ngài Chiêu có lịnh đổi xuống Hà Tiên, Ngài được lịnh bề trên bảo chỉnh đốn việc cầu cơ thỉnh Tiên. Ông Trần Phong Sắc vẫn làm Pháp đàn, hai đồng tử là: ông Nguyễn Văn Vân ngồi đồng dương và ông Lê Kiển Thọ (Bộ Thọ) ngồi đồng âm, Ngài Chiêu làm độc giả, ông Đoàn văn Kim làm điển ký. Đồng nhi đọc bài kinh cầu cơ đến câu: Ngũ chơn bửu khí lâm triều thế, Giá hạc đằng vân xiển tự nguyên. Liền có một vị Tiên Ông nhập cơ viết xưng là Cao Đài Tiên Ông, cơ gõ mạnh bảo ông Trần Phong Sắc sửa lại hai câu ấy. Ông Sắc vốn là nhà Nho sành sỏi, liền trả lời một cách ngang ngang có vẻ bất kính: Bài thỉnh cơ nầy đã có cả trăm năm nay từ Trung quốc truyền qua, ai dám cho là sái, nay Tiên Ông bảo sửa, vậy trật hay sao? Tiên Ông quơ cần cơ đập vào đầu ông Sắc vì tội vô lễ, ông Sắc sụt lẹ xuống né khỏi, kế Cao Đài Tiên Ông kêu 93

94 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Ngài Chiêu bảo sửa. Ngài Chiêu liền sửa và bạch rằng: Bửu chơn Ngũ khí lâm triều thế. Tiên Ông khen Ngài Chiêu sửa trúng. Kể từ đó, ông Sắc không làm Pháp đàn nữa. Cả nhóm không biết Cao Đài Tiên Ông là ai, nhưng Ngài Chiêu thì đoán rằng, Đấng ấy là Thượng Đế, nên mới dám sửa kinh đời xưa. 2/. Thời gian tùng sự tại Hà Tiên: Vừa làm tuần bá nhựt (100 ngày) cho thân mẫu xong thì Ngài Ngô Văn Chiêu được giấy đổi đi Hà Tiên. Lúc đó, ở Hà Tiên cũng có quí ông: Đốc phủ Sự, Lâm Tấn Đức, Nguyễn Thành Diêu, ông Phán Ngàn, lập thành nhóm cầu cơ thỉnh Tiên, nhưng năm lần bảy lượt mới có Tiên giáng. Khi Ngài Ngô Văn Chiêu xuống tới đó, Ngài liền gia nhập nhóm cầu cơ nầy, thì lạ thay, khi Ngài Chiêu nguyện vái, đọc bài cầu cơ, thì có Tiên giáng liền. Những buổi cầu cơ lúc đó tổ chức trên núi Thạch Động. Một vị Tiên Cô xưng là Ngô Kim Liên giáng cho Ngài hai bài thi tứ tuyệt có ý khuyên Ngài tu hành: Văng vẳng nhạn kêu bạn giữa thu, Rằng Trời cùng Đất vẫn xa mù. Non Tây ngảnh lại đường gai góc, Gắng chí cho thành bực trượng phu. Ngần trăng tỏ rõ giữa trời thu, Cái cảnh Tây phương vẫn mịt mù. Mắt tục nào ai trông thấy đấy, Lắm công trình mới đúng công phu. 94

95 2- Ông Ngô Văn Chiêu ( ) 3/. Lúc làm Chủ Quận Phú Quốc: Trong thời gian làm Chủ Quận Phú Quốc, Ngài Ngô Văn Chiêu thường lên núi Dương Đông cầu cơ thỉnh Tiên. Trước nhứt Ngài cầu ở Chùa Quan Âm. Ngài thường đi với cô Ba Lan là em bạn dì và mấy người hầu đàn như: Hương Hào Khâu, ông giáo Mẫn, ông Hương Đa, Biện Tý, Ba Đồng, bà năm Vàng, bà phủ Phẩm, Hội Đồng Phanh, với năm ba đứa nhỏ sạch sẽ theo làm đồng tử. Độc giả thì có: Hai Huỳnh, Tư Xuân, Tư Ngưng, Ba Nguơn, Năm Nhơn, Mười Đức,... Ngài Chiêu đã cầu Tiên nhiều lần, nhưng có một vị Tiên Ông giáng cơ chẳng chịu xưng tên, biểu Ngài Chiêu làm đệ tử thì Tiên Ông sẽ dạy Đạo cho và bảo đừng tụng kinh Minh Thánh nữa. Bữa kia, Tiên Ông giáng bảo Ngài lo tu và ăn chay thêm cho đủ 10 ngày trong một tháng. Ngài nghĩ bụng: Mình đang làm quan, nay người nầy mời, mai người kia thỉnh, nếu chịu ăn chay 10 ngày rồi, sau rủi quên ăn mặn thì có tội với Trời Phật. Nhưng nếu theo lời dạy của Tiên Ông mà có kết quả thì cũng ráng ăn. Nếu ăn chay 10 ngày mà chết cũng bị luân hồi thì thà ăn chay 2 ngày trong tháng còn hơn, miễn là mình lo tu nhơn tích đức, chẳng làm gì trái lương tâm thì thôi. Ngài nghĩ trong trí như vậy, định khi gặp Tiên Ông giáng cơ thì bạch rõ. a) Đàn cơ mùng 1-1-Tân Dậu (dl ) tại Chùa Quan Âm, Phú Quốc. Tiên Ông giáng cơ. Ngài Chiêu chưa kịp bạch hỏi Tiên Ông điều chi thì cơ viết: Chiêu! tam niên trường trai. 95

96 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Tiên Ông bảo như thế làm cho Ngài rất bối rối, bởi vì Ngài chưa chịu ăn chay 10 ngày, mà nay Tiên Ông bảo ăn chay trường ba năm thì lâu quá, chẳng biết có chịu nỗi không. Ngài Chiêu liền bạch với Tiên Ông, xin Tiên Ông bảo lãnh, nếu đệ tử vâng theo lời dạy thì phải có ấn chứng chi mới được. Tiên Ông bảo cứ giữ y lời dạy thì đệ tử sau sẽ hiểu rõ. Ngài Ngô Văn Chiêu bắt đầu ăn trường chay và học đạo kể từ ngày đó: Mùng 1 Tết năm Tân Dậu (1921). b) Thờ Thiên Nhãn: Một bữa kia, Tiên Ông dạy Ngài Ngô Văn Chiêu phải tạo ra một dấu hiệu chi để thờ. Ngài bèn chọn chữ Thập. Tiên Ông nói: Chữ Thập cũng được, song đó là dấu hiệu riêng của một nền đạo đã có rồi. Phải suy nghĩ tìm cho ra, có Tiên Ông giúp sức. Ngài xin hoãn lại một tuần lễ để suy nghĩ. Mãn tuần rồi mà Ngài vẫn chưa tìm ra. Một buổi sáng lối 8 giờ, Ngài đang ngồi trên võng sau dinh quận, bỗng Ngài thấy trước mặt, cách chừng hai thước, hiện ra một con Mắt thiệt lớn, rất tinh thần, chói ngời như mặt trời. Ngài lấy làm sợ hãi hết sức, lấy hai tay đậy mắt lại không dám nhìn, đợi chừng nửa phút, Ngài mở mắt ra thì vẫn thấy con Mắt ấy mà lại càng chói sáng hơn nữa. Ngài bèn chấp tay vái rằng: Bạch Tiên Ông, đệ tử biết rõ huyền diệu của Tiên Ông rồi, đệ tử xin Tiên Ông đừng làm vậy, đệ tử sợ lắm. Như phải Tiên Ông bảo thờ Thiên Nhãn thì xin cho biến mất tức thì. Vái xong thì con Mắt lu dần và biến mất. 96

97 2- Ông Ngô Văn Chiêu ( ) Thấy như vậy rồi, nhưng Ngài Ngô Văn Chiêu vẫn chưa thiệt tin, nên chưa vẽ hình Thiên Nhãn để thờ. Cách vài ngày sau, Ngài Chiêu cũng thấy Thiên Nhãn hiện ra y như trước. Ngài vái sẽ tạo Thiên Nhãn mà thờ thì con Mắt tự nhiên biến mất. Sau khi thấy Thiên Nhãn hai lần rồi, Ngài cầu cơ xin Tiên Ông dạy cách thờ phượng. Tiên Ông dạy vẽ con Mắt như đã thấy để thờ và Tiên Ông xưng là: CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT. Tiên Ông dạy Ngài Chiêu gọi Tiên Ông bằng Thầy và kể từ ngày đó, Ngài Ngô Văn Chiêu chánh thức làm đệ tử đầu tiên của Đấng Thượng Đế. Ngài nguyện với Đấng Cao Đài: Nếu độ cho tôi thành Đạo thì tôi sẽ độ lại chúng sanh tùy theo phước đức của mỗi người. c) Cảnh Bồng Lai: Lúc ấy Ngài Ngô Văn Chiêu đã tu theo Cao Đài Tiên Ông đã được 3 năm. Một bữa kia, Đấng Cao Đài Tiên Ông giáng cơ khen Ngài tu kỹ và ban cho đặc ân muốn chi thì Thầy ban cho. Ngài Ngô Văn Chiêu bạch rằng: Bạch Thầy, nghe nói cảnh Bồng Lai xinh đẹp vô cùng, Thầy có thể cho đệ tử thấy cảnh ấy không? Cơ gõ mạnh một cái chớ không viết câu trả lời. Cách ít lâu sau, vào một buổi chiều cuối tháng Giêng năm Giáp Tý (1924) Ngài Chiêu ra hứng mát ở mé biển, Ngài trèo lên một hòn đá lớn ngoài Dinh Cậu, ngồi ngó ra biển, sóng dợn ba đào. Bỗng Ngài thấy giữa chỗ trời nước giáp nhau, lộ ra một cảnh thật là xinh đẹp, cảnh nầy vừa 97

98 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài khuất thì hiện ra cảnh khác cũng xinh đẹp không kém. Sau cùng Ngài thấy một cảnh rất đặc biệt, trên có Thiên Nhãn, sổ ngay xuống một hàng có Nhựt, Nguyệt, Tinh đẹp đẽ vô cùng. Ngài ngồi xem mê mẩn, được chừng 15 phút thì cảnh ấy mờ dần rồi biến mất. Sau đó, Ngài Chiêu cầu cơ thì Đức Cao Đài Tiên Ông cho biết, đó là cảnh Bồng Lai theo như lời Ngài ước nguyện muốn thấy để nung chí tu hành. Khi Ngài Chiêu sắp đổi về Sài Gòn, Đức Cao Đài Tiên Ông giáng cơ ban cho Ngài bài thi sau đây: Kín ngoài rồi lại kín trong, Đường xa phong cẩn thưởng lòng để vui. Công đầu chịu cực đừng lui, Thiên tào thăng thưởng đạo mùi ngọt ngon. Ba năm lòng sáng như son, Trèo non xuống biển vuông tròn công phu. Chớ phiền mỏi mệt lòng tu, Trăng kia mây vẹt, Đường Ngu gặp hiền. Mựa toan vụ thấy Thanh Thiên, Các đào rõ biết mối truyền chánh tông. Giờ nầy Thầy điểm thâm công, Ngày sau con sẽ cỡi rồng về nguyên. Ngoài trong sạch tợ bạch liên, Khá lòng gìn giữ mối giềng chớ xao. Chiêu chiêu nguyệt thấu thanh thao, Trên đầu cũng có Thiên Tào xét xem. Thấm mùi con biết lân nem, Đề hồ con uống Thầy xem ân cần. Đạo luyện khắc kỷ phục thân, 98

99 2- Ông Ngô Văn Chiêu ( ) Chiêu con khá giữ, Thầy phân cạn lời. Thầy lại dạy rằng: Con đổi về Sài Gòn, đồng tử không theo con được. Vậy con phải rót một ly rượu, con uống phân nửa, còn phân nửa thì cho đồng tử uống, gọi là lễ tiễn biệt nhau. Ngài làm y theo lời dạy. Lúc đó đồng Ngưng đang mê mà đôi hàng nước mắt chảy tuôn tỏ nỗi đau lòng kẻ ở người đi. Thấy vậy, Ngài Chiêu cũng khó cầm giọt lệ. 4. THỜI KỲ LÀM VIỆC Ở SÀI GÒN Ngài Ngô Văn Chiêu được lịnh đổi về Sài Gòn, Ngài rời đảo Phú Quốc ngày , Ngài về đến Sài Gòn vào chiều ngày hôm sau 30-6-GiápTý (dl ). Ngài thuê nhà ở lầu 2 số nhà 110 đường Bonard (nay là đường Lê Lợi) Sài Gòn. Mỗi ngày đi làm việc hai buổi tại Dinh Thống Đốc Nam Kỳ, Ngài thường lui tới Chùa Ngọc Hoàng ở Dakao, ít giao thiệp với người ngoài, dành thì giờ công phu. Cuối năm Ất Sửu (1925), Đức Cao Đài Tiên Ông dạy Ngài Chiêu đem mối đạo truyền ra. Ngài độ được 4 vị: Quan Phủ Vương Quan Kỳ Ông Phán Nguyễn Văn Hoài Ông Phán Võ Văn Sang Đốc học Đoàn Văn Bản. Ông Vương Quan Kỳ sau khi vào Đạo lại khuyên được 5 ông sau đây cùng vào Đạo: Ông Nguyễn Thành Cương Ông Nguyễn Thành Diêu 99

100 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Ông Nguyễn Hữu Đắc Ông Lê Văn Bảy, tự Tý. Ông Võ Văn Mân. 5. ĐỨC CHÍ TÔN LẬP THÊM MỘT NHÓM PHÒ CƠ KHÁC Trong lúc đó, vào hạ tuần tháng 7 năm Ất Sửu (1925) một nhóm công chức tại Sài Gòn, do sự thúc đẩy của thiêng liêng, đã họp nhau Xây bàn thỉnh các vong linh để tìm hiểu về thế giới vô hình. Nhóm nầy gồm quí Ngài: Cao Quỳnh Cư Phạm Công Tắc Cao Hoài Sang Cao Quỳnh Diêu Quí ông khởi xây bàn tại nhà Ngài Cao Hoài Sang ở phố Hàng Dừa gần chợ Thái Bình Sài Gòn. Có nhiều Đấng vô hình giáng bàn để tạo cho quí ông niềm tin. Sau đó, Đấng Thượng Đế tá danh AĂÂ giáng bàn độ được 4 ông vào Đạo và gọi Đấng AĂÂ bằng Thầy và Đấng ấy gọi quí ông là Môn đệ. Thất Nương giáng dạy quí ông dùng Ngọc Cơ để cầu Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng cho được dễ dàng và mau lẹ hơn. Đêm Trung Thu năm Ất-Sửu (dl ) quí Ngài thiết lễ Hội Yến Diêu trì Cung tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, số 134 đường Bourdais Sài Gòn, có Đức Phật Mẫu cùng với Cửu vị Tiên Nương Diêu trì Cung giáng chứng lễ và mỗi Đấng cho một bài thi bốn câu làm kỹ niệm. Đến ngày 1-11-Ất Sửu (dl ) Đức Phật Mẫu dạy ba Ngài: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang Vọng Thiên cầu Đạo. 100

101 2- Ông Ngô Văn Chiêu ( ) Đêm Noel năm 1925 (âl Ất Sửu) Đấng AĂÂ mới cho biết Ngài là Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngày Ất Sửu (dl ) Đức Chí Tôn dạy hai Ngài Cư, Tắc đem Ngọc cơ đến nhà Ngài Cựu Hội Đồng Thượng Nghị Viện Lê Văn Trung để Thầy độ ông Trung. Lúc bấy giờ, nhóm phò cơ nầy được 7 vị: Ông Cao Quỳnh Cư Ông Phạm Công Tắc Ông Cao Hoài Sang Ông Cao Quỳnh Diêu Ngài Lê Văn Trung Ngài Nguyễn Trung Hậu Trương Hữu Đức Nhóm nầy chưa biết gì về nhóm của Ngài Ngô Văn Chiêu, nên chưa có liên lạc hay tiếp xúc. 6. SỰ HỢP TÁC GIỮA HAI NHÓM Ngày 9-12-Ất Sửu (dl ) Đức Chí Tôn dạy quí Ngài: Cư, Tắc, Sang, Trung, Hậu, Đức, phải đến chung hiệp với Quan Phủ Ngô Văn Chiêu mà lo mở Đạo. Ngài còn dạy thêm rằng: Mỗi mỗi việc chi phải do nơi Chiêu là Anh Cả. Khi hai nhóm hợp lại thì tổng cộng được 13 vị, là: 1- Ngô Văn Chiêu 2- Lý Trọng Quí 3- Lê Văn Giảng 4- Võ Văn Sang 5- Nguyễn Văn Hoài 6- Đoàn Văn Bản 7- Vương Quan Kỳ 8- Lê Văn Trung 9- Cao Quỳnh Cư 10- Phạm Công Tắc 101

102 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài 11- Cao Hoài Sang 12- Nguyễn Trung Hậu 13- Trương Hữu Đức Đêm Ất Sửu là đêm giao thừa, sắp bước qua năm mới Bính-Dần, Đức Chí Tôn khiến quí Ngài trong hai nhóm đến thăm từng tư gia của mỗi Môn đệ. Tại mỗi nhà, Đức Chí Tôn giáng ban cho một bài thi, tới khuya, gần đúng giao thừa thì đến nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn. Tại nhà Ngài Lê Văn Trung, Đức Chí Tôn giáng dạy: Chư đệ tử nghe! Chiêu, buổi trước hứa lời truyền Đạo cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời mà làm chủ mối Đạo, dìu dắt cả Môn đệ Ta vào đường đạo đức đến buổi chúng nó lập thành, chẳng nên tháo trút. Phải thay mặt Ta mà dạy dỗ chúng nó. Ông Chiêu bạch hỏi Đức Chí Tôn: Qua đến năm 1933 thì Đạo mới lập thành? Đức Chí Tôn đáp: Phải. Trung, Kỳ, Hoài, ba con phải lo thay mặt cho Chiêu mà đi độ người. Nghe và tuân theo. Bản, Sang, Giảng, Quí, lo dọn mình đạo đức đặng truyền bá cho chúng sanh. Nghe và tuân theo. Đức, Hậu, tập cơ, sau theo mấy anh con mà độ người. Nghe và tuân theo. Đó là lời Thánh giáo đầu tiên của Đức Chí Tôn tại đàn cơ nơi nhà Ngài Lê Văn Trung, kỹ niệm ngày Khai Cơ Phổ Độ của Đạo Cao Đài. Đó là giờ Tý ngày 01 tháng Giêng năm Bính-Dần (dl ). Đêm mùng 8 rạng mùng 9 tháng Giêng năm Bính Dần (đêm thứ Bảy rạng Chúa nhựt ), Lễ Vía 102

103 2- Ông Ngô Văn Chiêu ( ) Đức Chí-Tôn được tổ chức tại nhà Ngài Vương Quan Kỳ ở đường Lagrandière, các Môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn hiện diện đầy đủ, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Đạo. Nhân dịp nầy, Ngài Ngô Văn Chiêu bạch xin Đức Chí Tôn lấy tên của mấy Môn đệ mà cho một bài thi làm kỹ niệm. Đức Chí Tôn liền cho một bài thi tứ tuyệt: CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh, BẢN đạo khai SANG, QUÍ, GIẢNG, thành. HẬU ĐỨC TẮC CƯ Thiên Địa cảnh, Huờn Minh Mân đáo thủ đài danh. Đức Chí Tôn có 13 môn đệ đầu tiên nhưng Đức Chí Tôn chỉ điểm danh 12 vị, vì chữ SANG là tên của hai ông: Cao Hoài Sang và Võ Văn Sang. Huờn Minh Mân là tên của ba vị hầu đàn. 7. ĐỨC CHÍ TÔN DỰ BỊ PHONG NGÀI NGÔ VĂN CHIÊU VÀO CHỨC GIÁO-TÔNG Thánh giáo ngày 6-3-Bính Dần (dl ) Đức Chí Tôn dạy như sau: Thầy, Trung, Cư, Tắc, ba con lập tức lên Chiêu, biểu nó phải sắm sửa liền một bộ Thiên phục màu trắng, trên đầu chẳng phải bịt khăn mà đội mão trắng, có chữ CÀN thêu bằng chỉ vàng, dặn nó mua thứ hàng thiệt tốt. Mão cũng vậy, áo cũng vậy. Hiếu lại phải nhọc công nữa, Thầy giao phần may sắm cho con, con liệu cho kịp, rằm phải có nghe con. Hiếu lấy chén nước lạnh, Thầy vẽ kiểu mão cho con coi. Madame Cư bạch Thầy: Mitre (mão Giáo-Tông). 103

104 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Trước ngực, ngay trán phải để chữ cung CÀN chữ vàng, chữ Bát Quái, còn cái áo, con phải tái cầu Thầy trong lúc may đặng Thầy chỉ sắp mấy cung kia trên áo. Nghe và tuân theo nghe con. (ĐS. I. 106) Tái cầu: Mừng sắp con! Hiếu quì bạch Thầy dạy may áo mão Giáo-Tông bề cao bao nhiêu và mang giày thứ nào? Thầy sẽ nhứt định mọi việc. Thầy dạy: Mão bề cao 3 tấc 3 phân thước Lang-sa, may giáp mối lại thế nào cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh, hiệp lại có một đường xếp, ấy là Âm Dương tương hiệp, Hiếu biết mà! Sợi dây xếp hai lại, còn bên trái có hai dải thòng xuống một mí dài, một mí vắn, mí dài 3 tấc. Giáo-Tông: Thảo hài. Tái cầu: Có tạo đỡ một cái Mão bằng giấy dựng lên cho Thầy xem. Cười! Đặng phải vậy, ba con bưng lên cho Thầy chỉ hai mí giáp mối, con coi theo cây viết mà làm theo. Sợi dây viền ăn liền hai bên, đừng cắt rời ra nghe con! Con giỏi lắm Hiếu! Hai dải thòng xuống vai 3 tấc bề dài, 3 phân bề ngang. Phải vậy rồi!. Cư, để cho Hiếu nó làm (là để cho Hiếu may Mão Giáo-Tông). Ngày (âl 11-3-Bính Dần), tức là 5 ngày sau khi Đức Chí Tôn ra lịnh cho Bà Hương Hiếu (hiền thê của Ông Cư, nên gọi là Madame Cư) may Thiên phục Giáo-Tông cho Ngài Ngô Văn Chiêu, Bà Hương Hiếu dâng mão Giáo-Tông lên cho Đức Chí Tôn xem kiểu vở may như vậy có đúng không. 104

105 2- Ông Ngô Văn Chiêu ( ) Đức Chí Tôn giáng cơ nói: Hiếu dâng mão Giáo-Tông may xong rồi cho Thầy xem. Trúng, mà ai đội, con phòng lật đật. Đức Chí Tôn giáng cơ nói như thế, tức nhiên chúng ta ngầm hiểu là Ngài Ngô Văn Chiêu đã mất chức Giáo- Tông. Tại sao chỉ trong vòng 5 ngày từ 17 đến mà lại có sự thay đổi nhanh chóng như vậy? Đức Chí Tôn không cho biết tại sao, làm cho nhiều người phân vân, nghĩ rằng Ngài Ngô Văn Chiêu cải lịnh Đức Chí Tôn, muốn ở nhà tu tịnh, không muốn tham gia vào cơ phổ độ đông người làm mất sự yên tịnh của Ngài, hay còn lý do nào khác nữa? Mãi đến gần 3 tháng rưỡi sau, Đức Chí Tôn mới tiết lộ cho biết trong đàn cơ ở Tân Định, tại nhà Ngài Nguyễn Ngọc Thơ, lý do tại sao Ngài Ngô Văn Chiêu mất chức Giáo-Tông. Xin chép bài Thánh giáo quan trọng nầy ra sau đây. Ngày 25-6-Bính Dần (Dl ): NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI Giáo Đạo Nam Phương. Chư môn đệ nghe dạy: Vốn từ trước trong Thiên thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy, nền Chánh giáo phải có: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên đồ đệ, Chưởng quản thâu Tam giáo hiệp nhứt. CHIÊU, thiệt là Nhứt Phật đó. Vậy, trước ngày định lập Thiên phong đặng tôn chức 105

106 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Giáo-Tông cho nó, thì Chúa Quỉ sai tam thập lục động địa giái kêu nài với Ta rằng: Cựu phẩm nó chẳng xứng ngôi ấy và kiện rằng: Nó chẳng nhứt tâm thờ phượng Ta. Ta có cãi lẽ, Quan Thánh Đế và Quan Âm giúp lời, Ta nhứt định phong chức Giáo-Tông cho nó. Chúa Quỉ xin lịnh Ta mà khảo nó và phải để cho Tam thập lục động hành xác nó. Ta không nỡ nên cho khảo mà không cho hành xác. Rủi thay! Đau đớn thay! Buổi khảo nó phải bị Tà quái áp chế nên phải mất ngôi, song Ta cũng còn thương yêu chẳng nỡ, nhưng mà có mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thì khó bề bào chữa đặng. Đại lụy! Ta phải dùng quyền Chí Tôn mà tha thứ, song buộc nó phải tịnh thất. Ta vừa muốn tha nó, lại bị Tam thập lục động khảo nữa thì mới liệu sao? Ta phải giáng cơ biểu nó. Con Thơ! con phải tuân nơi lịnh Thầy đã dạy khi Thầy giáng cơ mà thôi, còn mọi sự khác thì đừng nghe. Kẻ bị tù còn có thế rỗi ai chăng? Chư Môn đệ khá nghe lịnh dạy, từ đây, ai còn phạm đến thì Thầy buộc trục xuất cho khỏi rối loạn nền Đạo của Thầy. Thầy thăng. (Trích trong tập Thánh Ngôn chép tay của Ngài Đầu-Sư Thái Thơ Thanh, trang 237) Ngày 9-1 Bính-Dần (dl ) Đức Chí-Tôn giáng Cơ ban cho Ông Chiêu bài thơ: THI Bao năm dạy-dỗ quá dày công. 106

107 2- Ông Ngô Văn Chiêu ( ) Lời hứa năm xưa gắng giữ lòng. Siêu đọa đôi đường tua chọn lấy. Lơi chơn một bước sẽ hoàn không Cao Đài Theo Đạo-sử của bà Đầu-Sư Hương-Hiếu (Ngày Bính-Dần (dl ) Thầy nói: Thầy cũng thương đó chút. Thầy đã nói cái lòng thương của Thầy hơn biếm trách, nên Thầy chẳng hề biếm-trách các con, ngặt trước quyền của Thần, Thánh, Tiên, Phật biết sao cứu rỗi cho đặng. Thầy lại phải làm thinh cho kẻ thì mất lẽ công bình. Thơ nó tưởng Thầy giận mà nài xin tha-thứ. Thầy thì đặng còn chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mới nài sao? Nhất là Thái- Bạch Kim Tinh rất khó. Chiêu cũng vì vậy mà mất ngôi. Các con chớ dễ ngươi mà phạm thượng nghe à!. Trước đó thì chư Môn-đệ đồng quì lạy Thầy xin thứ tội cho ông Chiêu. Ông Vương-Quan-Kỳ bạch hỏi Thầy: Bạch Thầy: Anh Cả Ngô-Văn-Chiêu bảo Thầy giao cho Ảnh thay Thầy làm Chủ mối Đạo, dạy-dỗ Môn Đệ mà Ảnh không chịu tiếp xúc với chúng con, phải làm sao? Ngày 13-3 Bính-Dần (dl ) trích Đạo-sử bà Hương Hiếu trang 109 Đức Chí-Tôn dạy: Chiêu đã có công tu, lại là Môn-đệ yêu dấu của Thầy nên Thầy muốn ban chức Giáo-Tông cho nó, song vì lòng ámmuội phạm đến oai-linh Thầy mà ra lòng bất đức chẳng còn 107

108 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài xứng đáng mà dìu-dắt các con, nên Thầy cất phần thưởng nó, Thầy nhứt định để chức ấy lại mà đợi người xứng đáng, hay là Thầy đến chính mình Thầy mà dạy-dỗ các con. Tái cầu: Các con coi thử đó thì đã hiểu rằng Thầy thương yêu nhơn-loại là dường nào. Cái vui của Thầy là đặng thấy các con hội-hiệp cùng nhau, thương-yêu nhau trong đạo-đức của Thầy, ai còn dám làm cho chia-lìa các con là đứa thùnghịch của Thầy. Chiêu đã hữu căn, hữu kiếp: Thầy đã dùng huyền diệu mà thâu phục, độ rỗi nó trước các con. Biết bao phen Thầy gom các Môn-đệ lại. Thầy sở cậy nó ấp-yêu dùm cho Thầy dường như gà mẹ ấp con. Song nó chẳng vâng mạng lịnh Thầy, lại đành lòng cắn mổ xô đuổi dường ấy, thì làm sao cho xứng đáng cái trách-nhiệm rất lớn của Thầy toan phú-thác cho nó. Các con đừng trông mong rỗi cho nó. Nghe và tuân mạng lịnh Thầy. Thầy dạy (đêm 14 rạng 15 tháng 3 năm Bính-Dần (25 và ): Chiêu, thiếu đức, thiếu tài. Trung, con sợ ai? Ta không sợ ai! Ta biết hơn ngươi. Ta há không biết thương sao? Ấy cũng vì thiếu đức. Nó đã biết Ta. Cứ tuân lời Thầy đã truyền mà thi-hành! Ngày 26 Avril 1926: Cao-Đài: Chiêu, ngươi chẳng kiên lịnh Ta, Ai kiên? Ta chờ 108

109 2- Ông Ngô Văn Chiêu ( ) ngươi. Chiêu, ngươi chẳng thừa lịnh Ta, ai thừa lịnh? Ta đã nói ngươi làm đầu Tam-giáo, đã bao phen Ta lập Đạo sẵn cho, ngươi chê há? Ta đã sở định, ngươi dám cải: Chuyên quyền từ đó bỏ tuồng xưa, Nghe nịnh, nghe khen thói cũng chừa. Sám-hối Ta cho tu ít tháng. Tài hay, tài khéo chớ đua lừa. Qua bài Thánh Ngôn nầy của Đức Chí Tôn, chúng ta biết được là Ngài Ngô Văn Chiêu bị Quỉ Vương thử thách trước khi được lên ngôi Giáo-Tông. Ngài bị thử thách và chỉ trong 5 ngày, Ngài không thắng nỗi các thử thách của Quỉ Vương bày ra, nên đành chịu mất ngôi Giáo-Tông. Sự thử thách của Quỉ Vương là cần thiết đối với Giáo-Tông là phẩm vị số 1 của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nếu thắng nỗi Quỉ Vương thì bọn chúng mới chịu phục, còn không thắng nỗi thì phải chiụ mất ngôi. Việc nầy cũng không khác chi thời Đức Chí Tôn sai Đức Chúa Jésus mở Thiên Chúa giáo nơi nước Do Thái để cứu độ các sắc dân Âu Châu. Sau khi Đức Chúa Jésus thọ phép Giải oan nơi bờ sông Jourdain với Thánh Jean Baptiste, Thượng Đế đưa Đức Chúa Jésus đến nơi đồng vắng đặng chịu cho ma quỉ cám dỗ trong 40 ngày đêm (trong 40 ngày nầy Ngài kiêng ăn, sau thì đói). Quỉ Satan tìm mọi cách thử thách Chúa, cám dỗ Chúa, nhưng không lay chuyển nỗi tâm ý của Chúa. Chúng ma quỉ thất bại bèn bỏ đi. Liền đó có Thiên sứ đến hầu Đức Chúa. Chúa Jésus chiến thắng Quỉ Vương, nên Chúa trở 109

110 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài thành Đấng Giáo chủ, đi giảng đạo và thâu nhận tín đồ, mở ra Thánh đạo ngót hai ngàn năm nay. 8. NGÀI NGÔ VĂN CHIÊU TÁCH RIÊNG LẬP CHI PHÁI Sau khi Ngài Ngô Văn Chiêu không thắng nỗi các thử thách của Quỉ Vương thì 2 ngày sau, tức là ngày , Ngài Chiêu tự ý tách ra khỏi nhóm. Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, trong quyển Đại Đạo Căn Nguyên, nơi trang 18, thuật lại như sau: Ông Trung vẫn vâng theo Thánh ý lo thiết đàn giảng Đạo. Ông Chiêu lại ở nhà lo bề tự giác, ý ông không muốn truyền bá mối Đạo ra cho nhiều người. Ông vẫn lấy câu Ngô thân bất độ hà thân độ mà làm tôn chỉ. Vì vậy mà ông tách riêng ra kể từ ngày 14 tháng 3 năm Bính-Dần (dl ). Đồng một ý kiến ấy thì có mấy ông: Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang, Lý Trọng Quí. Từ đây, tuy đôi bên chủ nghĩa khác nhau, vì một đàng (Ông Lê Văn Trung) thì lo phổ thông mối Đạo, một đàng (Ông Ngô Văn Chiêu) lại chuyên bề tự giác, nhưng về phương diện tín ngưỡng thì cũng đồng thờ kỉnh Đức Cao Đài Thượng Đế. 9. ÔNG NGÔ VĂN CHIÊU LẬP CƠ TUYỂN ĐỘ CHIẾU MINH TAM THANH VÔ VI Đầu năm Đinh Mão (1927), Ngài Ngô Văn Chiêu cho những người bạn cũ của Ngài biết là Ngài đã xong nhiệm vụ trong Cơ Phổ Độ và Ngài còn đảm đang một sứ mạng quan trọng khác là lập Cơ Tuyển Độ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, gọi tắt là Chiếu Minh Vô Vi. Ngài đổi chữ lót trong tên Ngài thành chữ Minh và kể từ đây gọi Ngài là Ngô Minh Chiêu. 110

111 2- Ông Ngô Văn Chiêu ( ) Cách tu của Ngài Ngô Minh Chiêu thật là khổ hạnh. Ngài đi làm công chức ngày hai buổi, hết giờ làm việc thì lo công phu tứ thời, vì vậy mà Ngài không có thời giờ rảnh. Số người tìm học Đạo Vô Vi cũng khá đông, nhưng Ngài chỉ lựa vài chục người đệ tử chánh thức thôi, bởi vì việc tu hành của Ngài rất khó, phải có can đảm và bền chí lắm mới theo nỗi. Người tu phải trường chay, tuyệt dục, lập đại thệ đại nguyện với Đấng Thượng Đế. Chừng nào Thượng Đế cho phép (xin keo) thì Ngài mới dạy Đạo cho. Hễ tu thì phải có gan chịu khảo (!), vô ma khảo bất thành Đại Đạo. (!). 10. NHỮNG CUỘC DU LỊCH SAU CÙNG CỦA CUỘC ĐỜI a) Du lịch núi Tà Lơn và Đế Thiên Đế Thích: Tháng 4 năm Mậu-Thìn (1928), Ngài Ngô Minh Chiêu xin phép nghỉ làm việc 6 tháng. Ngài tổ chức một cuộc du lịch lên núi Tà Lơn và Đế Thiên Đế Thích ở nước Cao Miên. Số đệ tử đi theo Ngài khá đông, chừng 30 người, có các ông: Hội Đồng Huy, Tư Huỳnh, Phán Quí,... Trước khi đi, Ngài ghé Cần Thơ. Ngày khởi sự đi là , hai ngày sau thì tới Hà Tiên, ghé chùa Tiên Sơn Tự ở Thạch Động để nghỉ ngơi. Hôm sau Ngài đi qua núi Tà Lơn nước Cao Miên. Ngày , Ngài tới chùa Kim Cang ở Đế Thiên Đế Thích. Đi du lịch Đế Thiên Đế Thích xong thì phái đoàn trở về Sài Gòn. Khi hết hạn nghỉ 6 tháng, Ngài Ngô Minh Chiêu trở lại làm việc trong Dinh Thống Đốc Nam Kỳ như trước. 111

112 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài b) Đi du lịch Lục tỉnh: Chuyến thứ nhứt, Ngài Ngô Minh Chiêu đi qua các tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre. Chuyến thứ nhì Ngài đi các tỉnh: Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu. Chuyến đi nầy có Ông Bà Tư Huỳnh, Bà Hai Ngữ, Cô Ký Út, Ông Bà Hội Đồng Huy, đồng Ngưng. c) Du lịch núi Tà Lơn lần thứ hai: Cuối năm 1931, Ngài bị mệt nhiều nên xin phép Chánh phủ cho nghỉ ở nhà dưỡng bịnh. Ngày , Ngài đi núi Tà Lơn với ý định bỏ xác nơi đây, nên không muốn trở về. Các đệ tử đi theo hết sức khẩn khoản, Ngài mới chịu trở về. Bận đi về, Ngài ghé Cần Thơ vào ngày 5-3-Nhâm Thân (dl ) và Ngài ở luôn tại Cần Thơ cho tới ngày liễu đạo. Tại Cần Thơ, Ngài không chịu ở nhà của ai hết, các đệ tử cất cho Ngài một thảo lư cách Châu Thành Cần Thơ chừng 3 cây số để cho Ngài ở. Ngài dạy phải làm bằng cây, lợp lá đơn sơ thôi, vì chỉ tạm dùng chừng một tuần nhựt. Trong lúc cất thảo lư, Ngài tạm ở tại cái am của Bà Tư Huỳnh kế bên. 11. LIỄU ĐẠO TRÊN SÔNG CỬU LONG TIỀN GIANG Ngài Ngô Minh Chiêu thường nói rằng, Đức Chí Tôn đã định cho Ngài bỏ xác trên sông Cửu Long, nên mới có câu: Giờ nầy Thầy điểm thâm công, Ngày sau con sẽ cỡi rồng về nguyên. Ngày 13-3 Nhâm-Thân (Dl ) sáng ra, Ngài nhắc chừng bà Tư Huỳnh lo giùm xe cộ để Ngài về Tân 112

113 2- Ông Ngô Văn Chiêu ( ) An và cứ nói hoài câu: Sợ trễ giờ. Bà Tư Huỳnh (tức là bà Trần thị Hường) rất kính mến Ngài nên cứ dần dà muốn lưu Ngài ở lại. Thấy vậy, Ngài biểu mời ông Hội Đồng Võ Văn Thơm vô. Ngài nói với ông Thơm bằng tiếng Pháp để mấy Bà nghe lén không hiểu, chỉ thấy ông Thơm vâng dạ luôn. Đến khi ông Thơm về đem xe hơi vô thì các bà bàn tán xôn xao. Ngài nói: Đi quanh đây rồi trở lại chớ không đi đâu xa. Lúc ấy cô năm Ngô Thị Nguyệt, con gái của Ngài Chiêu, hỏi Ngài: Cha muốn đi về Tân An phải không? Ngài cười rồi bảo: Cha đi bí mật. Đúng giờ Ngọ ngày 13-3-Nhâm Thân, Ngài triệu tập tất cả đệ tử hiện diện công phu. Sau giờ công phu, anh đồng Ngưng cõng Ngài ra xe, đi theo có Bà Thơm, Bà Tư Huỳnh, Cô năm Nguyệt và anh đồng Ngưng. Ngài ngồi một mình ở giữa băng sau, Bà Tư Huỳnh và Bà Thơm ngồi sụt xuống dưới chân Ngài. Da mặt và mình mẩy của Ngài Chiêu từ từ đổi ra màu vàng như nghệ. Xe chạy đến bến phà Cần Thơ. Qua phà, rồi chạy qua Vĩnh Long đến bến phà Mỹ Thuận. Bà Tư Huỳnh vào mua vé qua phà, xe xuống phà Mỹ Thuận xong, phà chạy ra gần đến giữa sông thì Ngài Ngô Minh Chiêu xuất thần thoát xác một cách êm ái, các đệ tử đi cùng xe hầu Ngài không ai hay cả. Tới chừng công nhân trên phà Mỹ Thuận nhìn vào xe thấy biết, tri hô lên thì mấy Bà mới hay, vội yêu cầu phà quay trở lại. Thế là Ngài Ngô Minh Chiêu liễu đạo trên sông Cửu Long y như lời Đức Chí Tôn tiên tri, lúc 3 giờ chiều 113

114 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài ngày 13-3 Nhâm Thân (dl ), hưởng được 55 tuổi Xe hơi chở Ngài quay trở lại, vừa lên khỏi phà thì gặp xe của ông Tư Huỳnh và Hội Đồng Huy vừa đến. Tất cả đều quay trở lại thảo lư tại Cần Thơ, đem xác Ngài đặt ngồi tại thảo lư. Lúc bấy giờ da thịt của Ngài trở lại trắng và con mắt trái của Ngài bắt đầu mở to ra, có đủ tinh thần như khi còn sống, còn con mắt bên mặt thì nhắm lại như thường. Các đệ tử mới nghiệm lại thấy rằng, Ngài Ngô Văn Chiêu biết rõ ngày giờ liễu đạo của Ngài, nên Ngài bảo cất Thảo lư tạm bằng cây lá dùng trong một tuần nhựt, rồi Ngài nói đi quanh đây rồi trở lại chớ không đi đâu xa. 12. ĐÁM TANG NGÀI NGÔ MINH CHIÊU Nguyên lúc sanh tiền, Ngài Chiêu có dặn các đệ tử, khi Ngài liễu đạo rồi, phải dùng cái áo quan hình lục giác mà liệm ngồi. Lục giác là theo lục tự Cao Đài: NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG. Áo quan lục giác có bề kính tâm lối 8 tấc, cao lối 1 thước 2 tấc. Tất cả công việc khâm liệm đều do các đệ tử thân tín tự tay đảm nhiệm. Tháp của Ngài được xây ngay phía sau thảo lư và miếng đất nầy về sau trở thành Nghĩa Địa của phái Chiếu Minh tại Cần Thơ. Có rất đông tín đồ Cao Đài đến viếng tang. Quan khách đời đến viếng tang khá đông. Báo chí ở Sài Gòn cũng có xuống chụp hình làm phóng sự đăng báo, thông tin đại chúng. Đám tang của Ngài Ngô Minh Chiêu rất đơn giản, an tịnh, không có nhạc lễ, cũng không đọc kinh chi hết, vì Ngài đã dạy trước rằng: Lúc sanh tiền, mỗi ngày đều có cầu cho Ngài rồi, Ngài đã biết Ngài là ai, khi chết Ngài 114

115 2- Ông Ngô Văn Chiêu ( ) sẽ đi đâu, nên khỏi đọc kinh cầu nguyện cho Ngài B- NGÀI NGÔ MINH CHIÊU GIÁNG CƠ Sau khi Ngài Ngô Minh Chiêu thoát xác về Tiên được 17 ngày, Ngài giáng cơ tại đàn Thất Bửu Sơn ở Châu Đốc, đêm 30-3-Nhâm Thân (dl ). NGÔ kỳ huỳnh liễu đắc thành công, VĂ N thượng Thiên đình lý luật đồng. CHIÊU dắt nhơn sanh cơn kiếp khổ, GIÁNG tường cho rõ hiểu hồn vong. Chào các hiền đệ. Hiểu ai chăng? Nay tôi đã từ trần, trong lúc Đạo còn đang nghịch lẫn nhau là bởi nơi đâu? Các hiền đệ có hiểu chi chăng? Cũng bởi vì tiền tài nó hại nhơn sanh. Thầy có ban cho tôi làm một vị Tiên đồng độ chúng. Nay tôi vâng lịnh Thầy giáng đàn mà dạy anh em lúc khổ nầy: KỆ Qui liễu cõi trần đặng thảnh thơi, Gẫm trong sự thế ngán cho đời. Kiếp nầy lao khổ sau chung hưởng, Trời Đất hết lòng giáng khắp nơi. Tôi kính lời thăm huynh Nguyện và Bần đạo Lắm đặng an vui nền Chánh Lý mà hiểu rõ Thiên cơ. Tôi mới học được bài phú vắn, nên tôi để lại cho chư Hiền hữu rõ biết: PHÚ Trời xoay chuyển nên lương tâm người giục khiến, Cho nhơn sanh thuyết diễn trần lao. 115

116 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Chung trí Đạo Thầy mà giúp kẻ đồng bào, Nay tôi đặng kết giao cùng Tiên, Thánh, Phật. Sao chư hiền không lo bồi công âm chất, Giúp cho Thầy, cất Thất cho Thầy, Tôi qui liễu là bởi như vầy, Hết kiếp trần oan dây theo ràng buộc. Tôi tuổi nầy mà đi xem cõi hồng trần soi đuốc, Dẫn nhơn sanh dắt tuốt Thiên đình, Công mở Đạo là tại tỉnh Tây Ninh, Người bởi quấy nên nhơn tình không đầu phục. Thương Tổ đình nên theo một lúc, Hại nhơn sanh cui cút tu hành. Kính ít lời thăm Nguyện và Lắm, Gắng chí Đạo cho thành, Tôi dời bước lưu danh cho anh em hậu thế. Tôi chào Hiền huynh, cho tôi kiếu. THĂNG. Sau đây là trích một đoạn trong bài giáng cơ của Ngài Ngô Minh Chiêu ngày 1-3-Bính Ngọ (dl ) trong quyển Thánh Giáo Sưu Tập ( ) trang 43, của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam Chư Hiền đệ, Hiền muội, Thuở sanh tiền, Bần đạo quyết xuất thế để tìm đến bực siêu đẳng pháp môn, hầu giúp vào cơ Đại Đạo để cứu cánh dân tộc trong khi còn bị đô hộ. Nhưng ước vọng chẳng hoàn toàn vì Thiên số dĩ định nên chưa đoạt đến mục đích, đã vô tình rời bỏ anh em, nên để lại một ảnh hưởng rất lớn cho phái Chiếu Minh là kỳ thân độc thiện. Đó chẳng phải Bần đạo cố tâm, cũng bởi kiếp nạn chúng sanh nên chịu nhiều cảnh chia ly, từ đời tới Đạo, chớ điều xuất thế hay nhập thế 116

117 2- Ông Ngô Văn Chiêu ( ) của Bần đạo đều là một lòng trung kiên với Đạo, vì nước non dân tộc, vì chí hướng quảng độ quần sanh. Đến ngày nay, những giáo lý của Bần đạo còn roi lại một công trình dở dang thiếu sót, nên hiện tình, Bần đạo cũng trông vào hướng đạo hiện tại và tương lai, nối tiếp công nghiệp của tiền bối đã qua, hầu thanh minh cho tấm lòng của đệ huynh tiền bối và Bần đạo. Điều ấy rất mong. C- PHẦN KẾT Ngài Ngô Văn Chiêu là vị Môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn, được Đức Ngài yêu ái nhứt. Đức Chí Tôn đã để ra một khoảng thời gian dài, suốt 5 năm, từ năm 1921 đến năm 1925 để dạy Đạo cho Ngài, truyền Bí pháp luyện đạo cho Ngài. Ngài thường được Đức Chí Tôn khen là chăm chỉ công phu, rồi Đức Chí Tôn cho Ngài thấy cảnh Bồng Lai theo lời yêu cầu của Ngài để khích lệ việc tu hành. Chưa có một Môn đệ nào được Đức Chí Tôn yêu mến đến mức độ ấy. Mục đích của Đức Chí-Tôn là rèn luyện Ngài trở nên người đạo đức hoàn toàn, đắc đạo thành Tiên, Phật tại thế, để giao chức Giáo-Tông cho Ngài làm Anh Cả nhơn sanh, thay mặt Đức Chí Tôn đứng ra mở đạo và dìu dắt nhơn sanh. Công ơn của Đức Chí Tôn đối với Ngài Ngô Văn Chiêu thật vô cùng to tát. Thế mà kỳ vọng của Đức Chí Tôn sụp đổ, vì Ngài không vượt qua được cơ thử thách của Quỉ vương, nên Đức Chí Tôn không thể giao chức Giáo-Tông cho Ngài Có một điều đáng tiếc là Ngài Ngô Văn Chiêu không dám tiết lộ cho bạn Đạo biết là Ngài vượt qua không nỗi 117

118 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài các cuộc thử thách khảo đảo của Quỉ vương, khiến nên nhiều người không biết, tưởng lầm là Ngài Ngô Văn Chiêu chống lại mạng lịnh của Đức Chí Tôn, không chịu nhận chức Giáo-Tông.Thậm chí đến nhiều phái cho rằng Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt soán ngôi Giáo- Tông của Ngài Chiêu và từ hiểu lầm này đến hiểu lầm khác và nhất là hoang mang trong giới hậu sinh. Đức Chí Tôn đặt trọn vẹn sự tin tưởng nơi Ngài Ngô Văn Chiêu, nên không dự bị một vị nào khác để thay thế. Do đó, khi Ngài Chiêu bị rớt trong cuộc khảo đảo của Quỉ vương, thì Đức Chí Tôn phải chuyển pháp, giao chức Giáo-Tông cho Đức Lý Thái Bạch Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm nhiệm. (Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo-Tông Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ) Việc mở chi phái Chiếu Minh là một lối thoát cho tinh thần của Ngài Ngô Văn Chiêu lúc đó, chắc chắn không phải là do ý muốn có dự định trước của Ngài, nhưng việc đó lại mở đường cho một số Chức sắc khác khi bất mãn Hội Thánh, tách ra lập Chi phái như quí ông: Phối Sư Ca, Giáo Hữu Chính...Có lẽ vì những lý do đó mà Ngọc Hư Cung rút Ngài Ngô Văn Chiêu về thiêng liêng khá sớm (Ngài Chiêu qui liễu năm 1932), khiến nên Ngài giáng cơ than rằng: Giáo lý của Ngài truyền lại cho phái Chiếu Minh còn dở dang thiếu sót, làm cho tín đồ phái Chiếu Minh đi vào con đường độc thiện kỳ thân Tất cả những người theo Ngài phải tách rời khỏi Trường thi công quả phụng sự nhơn sanh do Đức Chí Tôn lập ra. Đạo Cao Đài không có một Giáo-Tông mang xác phàm, Đức Chí Tôn buộc lòng giao cho Đức Lý Thái 118

119 3- Ông Vương Quan Kỳ ( ) Bạch kiêm nhiệm chức Giáo-Tông Đại Đạo. Do đó, sự điều hành việc Đạo của Đức Lý phải nhờ nơi Cơ bút của Hiệp Thiên Đài nên không được nhanh chóng và kịp thời. Thế nên, Đức Lý Giáo-Tông, trong Đạo Nghị Định thứ nhì ngày 3-10-Canh Ngọ (1930), ban cho Đầu-Sư Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung) cầm quyền Giáo-Tông tại thế, để điều hành cơ Đạo hữu hình, còn nhiệm vụ Giáo- Tông Vô Vi vẫn do Đức Lý Giáo-Tông nắm giữ. Do đó, toàn Đạo Cao Đài gọi Ngài Thượng Trung Nhựt là Đức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung. Kể từ đó tới nay, Đạo Cao Đài chỉ có một Giáo-Tông là Đức Lý Thái Bạch và một Quyền Giáo-Tông tại thế là Ngài Lê Văn Trung. Tất cả những vị nào khác xưng danh là Giáo-Tông, hay Đệ nhứt Giáo-Tông, Đệ nhị Giáo-Tông... đều là tiếm xưng cả. Và chúng ta thấy rõ, Ngài Ngô Văn Chiêu khi về cõi thiêng liêng, trở lại giáng cơ, chỉ xưng tên họ của Ngài, chớ không bao giờ Ngài dám xưng là Giáo-Tông. (Tham khảo thêm tài liệu Tự điển Cao-Đài của Hiền tài Hồng) 3- ÔNG VƯƠNG QUAN KỲ ( ) (Bỏ Đạo tách ra lập phái Cầu-kho) Năm Mậu-Thìn (1928): Do áp lực của thực dân Pháp muốn theo Cao-Đài thì tự lập chi phái, còn theo anh Lê văn Trung sẽ bị Pháp khủng bố. Nhóm đàn Cầu kho có quí ông Vương quan Kỳ, Đoàn văn Bản, Nguyễn văn Kinh, Nguyễn văn Đạt, Lê văn Giảng, Ngô tường Vân, Nguyễn văn Mùi... chủ trương dùng văn chương hoằng khai Đại Đạo, phổ độ. 119

120 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Họ thành lập Cơ quan ngôn luận La Revue Caodaisme xuất bản bán nguyệt san gồm ba thứ chữ: chữ Việt, chữ Hán và chữ Pháp, cứ nửa tháng ra một số phát hành ra nhiều nước trên thế giới như Trung Hoa, Anh, Pháp, Đức, Ý, Bĩ quảng bá chơn truyền, luật pháp, giáo lý ra nước ngoài. Nhóm này lập thành phái Đạo Cầu kho. Phái Cầu Kho do Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh (Vương Quan Kỳ) đứng đầu, qui tụ được các ông: Giáo Sư Thượng Bản Thanh (Ðoàn Văn Bản), ông Nguyễn Văn Tường, Trần Quang Mính, Nguyễn Văn Khai... Phần lớn số trí thức Cao Ðài ở Sài Gòn đều ngã theo phái Cầu Kho. Ông Vương Quan Kỳ là Ðốc phủ, được Ngài Ngô Văn Chiêu độ, sau được Ðức Chí Tôn phong phẩm Thượng Giáo Sư. Nguyên năm 1930, số Chức sắc tại Thánh Thất Cầu Kho do ông Kỳ cầm đầu, không tuân lịnh Hội Thánh Tây Ninh thi hành quyển Nghi Tiết Ðại Ðàn Tiểu Ðàn do Ngài Bảo-Văn Pháp-Quân biên soạn, trình lên Ðức Phạm Hộ-Pháp, rồi chuyển qua Cửu Trùng Ðài, Hội Thánh xem xét đồng ý thì Ðức Quyền Giáo-Tông ban hành kể từ ngày để áp dụng thống nhứt trong toàn Đạo. Trong quyển nầy, Ngài Bảo Văn Pháp Quân bỏ ba bài Dâng Tam bửu cũ do Ngài Ngô Văn Chiêu đặt ra đã áp dụng trước đây, thay bằng ba bài Dâng Tam bửu mới mà ngày nay chúng ta thường đọc. Quí Chức sắc ở Cầu Kho không chịu áp dụng các nghi tiết mới ban hành, nên quí Ngài tự tách ra lập thành Chi phái Cầu Kho, lấy Thánh Thất Cầu Kho làm trụ sở. Về sau, Thánh Thất nầy dời đến đất mới gần đó, xây dựng lên đặt tên là Thánh Thất Nam Thành, ở đường Nguyễn Cư Trinh Sài Gòn 120

121 3- Ông Vương Quan Kỳ ( ) * Phần đời: Tri phủ Sở thuế thân: Ông Vương Quan Kỳ ( ) là con của ông bà Vương Quan Ðể và Huỳnh Thị Bảy, người tỉnh Chợ Lớn, cháu nội Thống Chế Vương Quan Hạc. Ông ngoại là nhà Nho yêu nước Huỳnh Mẫn Đạt ( ), đậu cử nhân, làm quan hai triều Minh Mạng và Tự Đức, rồi từ quan khi nhà Nguyễn ký Hòa ước 1862 với Pháp. Ông Kỳ học tại trường Chasseloup Laubat, đậu bằng Thành Chung (Diplôme), làm việc tại Dinh Thống Ðốc Nam Kỳ, ngạch Tri phủ, bạn cùng sở với Ngài Ngô Văn Chiêu nên được Ngài Chiêu độ theo Ðạo Cao Ðài. Ông Kỳ là em ruột của Vương Quan Trân. Ông Trân là cha ruột của Cô Vương Thị Lễ Thất Nương Diêu Trì Cung (tức là chú của Vương Thị Lễ). Nhà riêng của ông Kỳ ở tại số 80 đường Lagrandière, sau đổi lại là đường Gia Long, Quận Nhứt, Sài Gòn. * Phần Đạo: Giáo Sư của Tòa-Thánh Tây-Ninh: Ông Vương Quan Kỳ là một trong 12 Môn đệ đầu tiên của Ðức Chí Tôn được Thiên phong Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh ngày 14-5-Bính Dần (1926). Năm 1930, ông Vương Quan Kỳ cùng các Chức sắc nơi Thánh Thất Cầu Kho tách ra khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, lập ra Chi phái Cầu Kho, hành đạo riêng, không theo hệ thống Toà Thánh Tây ninh. Bài thơ Đầu tiên Đức Chí-Tôn cho Ông Vương Quan-Kỳ như vầy: Nhựt nhựt tân hề nhựt nhựt tân, Niên đáo tân hề đạo dữ tân. Vô lao công quả tu đương tác, 121

122 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Niên quá niên hề Đạo tối tân. Ông có Pháp-tịch, thuở nhỏ học ở Mỹ-Tho rồi trường Chasseloup Laubat, đậu Thành Chung, làm quan tới Phủ sứ, thọ phong Giáo-Sư ngày Ngày 15-3 Bính-Dần ông được phong chức Tiên đắc Lang quân nhậm Thuyết đạo Giáo-sư. Rồi ông được Thiên-phong Giáo-sư phái Thượng, tức là Thượng-Kỳ Thanh ngày 14-5 Bính-Dần. Nhưng đến ngày Bính-Dần ( ) thì Đức Lý giáng dạy: Thượng-Kỳ-Thanh bị sụt chức làm Giáo Hữu. Như không tuân lịnh xuất ngoại Đến ngày Bính-Dần ( ) Đức Lý dạy: Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu viết thơ cho mấy Thánh-Thất lục tỉnh nói Thượng-Kỳ Thanh bị trục xuất ra khỏi hàng Môn-đệ chẳng quyền-hành truyền Đạo nữa. Như nó chẳng tin nghe lời bị phạt Tả đạo bàng môn thì chịu, nghe à! Đã lập pháp mà nó muốn làm chi thì làm như buổi trước vậy hoài, thì bị phạm Thiên-điều tránh sao cho khỏi tội. Hộ-Pháp Hiền-hữu khá an lòng. Qua ngày Bính-Dần ( ) thì: Đức Lý giáng dạy: Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu từ đây coi Thượng Kỳ-Thanh như một Môn-Đệ vậy thôi, chứ chức Giáo-Hữu cũng cất luôn nữa. Thầy để lời xin tha mà pháp-luật đã phạm tha sao cho được. Vào năm 1930, Giáo-Sư Thượng Kỳ-Thanh tức là Vương-Quan-Kỳ, không tuân lịnh Toà Thánh Tây-Ninh 122

123 3- Ông Vương Quan Kỳ ( ) áp dụng nghi lễ mới, nên tách ra lập phái Cầu-kho, lập tại Thánh-Thất Cầu-Kho. Trong Con Ðường Thiêng Liêng Hằng Sống, Ðức Hộ-Pháp thuyết đạo đêm 8-9-Mậu Tý (dl ) nhắc lại khi Ðức Ngài xuất chơn thần về thiêng liêng có thấy ông Vương Quan Kỳ trên đó, Ðức Ngài thuật lại như: Bần đạo thấy người bạn nhờ ơn thiêng liêng của Chí Tôn riêng ban cho người ấy, người ấy có người chí thân là một Ðấng cầm quyền trọng hệ trên Hư linh tức là Thất Nương Diêu Trì Cung. Bần đạo nói rõ, người ấy là Vương Quan Kỳ, chú ruột của Thất Nương vậy. Người mở đạo mà chẳng biết đạo là gì hết, đi theo một tư tưởng của nền Chánh giáo của Ðức Chí Tôn định quyết, mà tư tưởng của người ấy và cả hành tàng nếu chúng ta thấy sẽ lên án là Tả đạo Bàng môn chắc hẳn vậy. Lạ thay! Khi Bần đạo quay lại dòm thấy nhiều bạn rơi xuống Bích Hải khóc lóc, còn người đó trước bận Thiên phục Giáo Sư, nhưng bây giờ thì áo tốt vắt vai, mão cầm nơi tay, bận quần cụt ở trần, đi ngật ngờ ngật ngưỡng, cười một mình, không biết cười cái gì, đi ngang Bát Quái Ðài như không vậy. Ấy các bạn đủ biết, dầu hành tàng của người bề hữu vi thấy trái hẳn nền chơn giáo của Ðức Chí Tôn mà trọn tâm tín ngưỡng Ngài, người thọ Thiên phục áo mão, dầu không thế gì mặc vô được, duy cầm nơi tay, đi ngang vô Bát Quái Ðài, không quyền luật nào ngăn cản được. Chúng ta lấy bài học ấy đặng để trong tâm, đừng phê bình công kích. (Trích Con đường TLHS, trang 11) 123

124 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài 4- ĐẦU-SƯ PHÁI THÁI: HÒA THƯỢNG THIỆN MINH, THÁNH DANH LÀ THÁI MINH TINH (Không hành Đạo bị Đức Lý cách chức) Trong năm Khai Đạo, Đức Chí Tôn Thiên phong ba vị Đầu-Sư sau đây vào phẩm Đầu-Sư đầu tiên của Đạo Cao Đài có mang ba chữ: Nhựt, Nguyệt, Tinh là ba bửu của Trời, là: Đầu-Sư phái Ngọc: Ngài Lê Văn Lịch, Thánh danh là Ngọc Lịch Nguyệt. Đầu-Sư phái Thượng: Ngài Lê Văn Trung, Thánh danh Thượng Trung Nhựt, sau được thăng Quyền Giáo- Tông. Đầu-Sư phái Thái: Hòa Thượng Thiện Minh, Thánh danh là Thái Minh Tinh. Ngài Thiện Minh là học trò của Hòa Thượng Như Nhãn, được Thiên phong Thái Đầu-Sư ngày Bính Dần, nhưng Ngài không hành Đạo, nên ngày Bính Dần (dl ), Đức Lý Giáo-Tông cách chức Thái Đầu-Sư của Ngài Thiện Minh. Cũng trong ngày nầy (12-12-Bính Dần), Đức Chí Tôn phong Ngài Dương Văn Nương chức Thái Đầu-Sư, Thánh danh Thái Nương Tinh. Ba vị Đầu-Sư đầu tiên có mang chữ: NHỰT, NGUYỆT, TINH là ba báu của Trời, đó là một đặc ân của cơ quan Cửu Trùng Đài. Nhưng chắc cũng là trong vòng hữu định nên khiến như thế, vì mặt trời (NHỰT) cũng như mặt trăng (NGUYỆT) mỗi thứ chỉ có một, nên hai vị này giữ phẩm tước được bền bĩ, còn TINH tức là sao có đến sao nên khiến cho vị mang chữ 124

125 5- Ông Phối Sư Thái Ca Thanh (lập Minh Chơn Lý) Tinh có đến hai người là Đầu-Sư: Thái Minh Tinh và Thái Nương Tinh. Từ đó về sau thì tất cả Chức sắc Cửu Trùng Đài, dù ở phẩm Đầu-Sư đi nữa cũng lấy Thánh danh là chữ Thanh (cho nam phái), nữ lấy chữ Hương mà thôi. 5- ÔNG PHỐI SƯ THÁI CA THANH (LẬP MINH CHƠN LÝ) Trong cơ Ðạo phân chia Chi phái, năm 1931 Phối Sư Thái Ca Thanh rút khỏi Toà Thánh Tây ninh về Mỹ Tho lập phái Minh Chơn Lý, Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang hợp tác với Minh Chơn Lý, sau đó thấy ông Ca và ông Phùng sửa đổi hết cách thờ phượng, nên Ngài rút khỏi Minh Chơn Lý, xuống Bạc Liêu hợp tác với ông Cao Triều Phát mở ra phái Minh Chơn Ðạo năm Năm 1937, Ngài Ngọc Chưởng-pháp ra hành đạo ở Ðà Nẵng. Lúc đi ra Trung, Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang không có giấy thuế thân, nên Ngài lấy giấy thuế thân của người trong làng tên là Hà Văn Thuần để xin làm căn cước thì mới được phép ra miền Trung, cho nên khi hành đạo ở Ðà Nẵng, Ngài lấy tên là Hà Văn Thuần. Ngài ủng hộ bổn đạo nơi đây xây dựng được Thánh-Thất Trung-Thành, để làm cơ sở hoạt động của Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt. Ngày 17-2-Bính Tuất (dl ), Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang đăng Tiên tại chùa Linh Quang Tự ở Gò Vấp, Gia Ðịnh, hưởng thọ 77 tuổi. Thi hài của Ngài được an táng tại nghĩa trang Minh Sư gần Linh Quang Tự. Sau nầy, do nhu cầu mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt, Linh Quang Tự và nghĩa trang đều 125

126 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài bị giải tỏa, bổn đạo cải táng Ngài về phần đất ở phía sau Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài vào ngày 15-8-Kỷ Mùi (1956) thuộc xã Thông Tây Hội, cũng thuộc quận Gò Vấp. (Trích trong Ðuốc Chơn Lý, số 51 trang 12) 1- Hoạt động đạo sự của Minh Chơn lý: Thêm vào sự canh cải đó, Minh Chơn Lý gọi Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài là hai phẩm tước chớ không phải là hai cơ quan như trong Pháp Chánh Truyền qui định. Phái ấy cho rằng hai chức nầy hiệp với Ðức Chí Tôn làm thành một cái gọi là Tam Thân Hiệp Nhứt. Những phẩm Chức sắc trên Chánh Phối Sư còn có Thiên Sư, Tứ Bửu, Ðầu Sư, Cửu Trùng Ðài, Tam Tôn. Kinh sách thì sửa đổi hầu hết, không theo như Pháp Chánh Truyền, tuy giọng đọc na ná mà thôi.. Tệ hại hơn nữa là Minh Chơn Lý đã xóa bỏ nguồn cội nền chơn Ðạo. Cơ bút của Minh Chơn Lý dạy như sau: Thầy xuống lập đạo có một mình Thầy hiệp với hai Chưởng quản, một là Lê Văn Ðược làm chức Hiệp Thiên Ðài (hồn) của Ðạo, là bậc Chơn như có Phật Hàng Long hiệp mới thành chánh vị Tam Tôn chủ tam hồn, đội áo Khai Thiên (12 thước vải trắng) đứng trên ngọc ỷ, phía trước mặt kế bên án có ông Cửu Trùng Ðài Nguyễn Văn Ca là xác của Ðạo. Ðạo có một xác một hồn mà thôi. Cửu Trùng Ðài nhờ chuyển kiếp 9 lần mới hiệp cùng Phật An Thiên nên Thánh danh kêu là Bửu An Thiên 18 năm, trong thời gian ấy chịu trả vay nhiều nỗi. Còn ai bày ra Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài là hồn ma xác quỉ, đó là giả dối. (Trích trong Ðuốc Chơn Lý số 51 trang 97) Vì sự canh cải Chơn truyền Luật pháp nên Minh 126

127 5- Ông Phối Sư Thái Ca Thanh (lập Minh Chơn Lý) Chơn Lý tuy hấp dẫn được một số Chức sắc Ðại Thiên phong buổi đầu, nhưng sau nầy lại trở thành một tệ đoan lớn lao hơn hết trong sự phân tán nhà Ðạo. Do đó, có thể nói rằng, phái Minh Chơn Lý, ngay sau khi tự canh cải Chơn truyền, thờ phụng sửa đổi nghi thức, không còn dính dáng gì của vẻ Ðạo Cao Ðài nữa và như thế phái nầy không tránh khỏi bàn tay Tà Thần vậy. Theo lời các tiền bối kể lại, nguyên căn của Phối Sư Thái Ca Thanh là Ðộc Giác Thanh Ngưu của Ðức Lão Tử giáng phàm, Truyền Trạng Phạm Văn Ngọ là Từ Giáp giáng phàm. Thanh Ngưu ở với Ðức Lão Tử lâu năm nên có nhiều phép biến hóa huyền diệu, xem truyện Ðông Du Bát Tiên thì rõ. Ngay lúc mà Đức Tôn sư Hộ-Pháp mặc khôi giáp rực rỡ đến trình diện trước Ngọc Hư Cung. Thanh ngưu của Đức Lão Tử kinh hoảng giựt mình chạy làm đứt dây sứt lỗ mũi, chạy bay xuống thế đầu kiếp làm Nguyễn văn Ca, có ý định để trả thù Hộ-Pháp sau này. 2- Cuộc Ân oán đối với Đốc Phủ Ca: Nguyên khi Ðốc Phủ Ca làm Quận Trưởng Châu Ðốc, ông vâng lịnh Thực dân Pháp ruồng bố các nhóm Cách Mạng chống Pháp đang lập căn cứ trong Thất Sơn, giết chết ông Cử Ða và bắt học trò của Cử Ða là Bảy Do giao cho Pháp xử tử. Linh hồn Bảy Do lên kiện nơi Ngọc Hư Cung. Ngọc Hư Cung cho phép ông Bảy Do báo oán và giao phận sự giục loạn trong nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn để trục ngoại các thành phần phản đạo, rửa ráy hàng ngũ Chức sắc cho trong sạch. Ngày , tại Phạm Nghiệp, Ðức Hộ-Pháp cùng Ngài Cao Tiếp Ðạo phò loan, ông Bảy Do nhập cơ: 127

128 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài BẢY DO Kính chào chư vị Ðại Ðức và chư Ðạo hữu, Xin cho biết phẩm vị. Thần. Thầy của Bần tăng mắc chuyển cơ đặng giáo hóa TRANG, TƯƠNG, nên đến không đặng, mới sai Bần tăng thưa lại cùng chư quí vị. Thưa Ðức Hộ-Pháp, Bần tăng lấy làm bất nguyện vì buổi nọ Ngọc Hư Cung ban lịnh cho trừ diệt Phủ CA đặng báo oán. Bần tăng đã dụ nó vào Cấm Sơn và định đưa luôn vào ngục thất đặng sát hại, nào dè có lịnh Chí Tôn mật chỉ không cho sát mạng. Sau Bần tăng muốn nhập thể nó làm cho nó điên cuồng rồi bắt nó tự ải, nào dè Chí Tôn lại binh vực cấm ngăn thêm nữa, chỉ cho hành bịnh mà thôi. Nay nó bị điêu tàn cơ giả Ðạo nên mang bịnh thất tình, tưởng khi Bần tăng cũng còn phương tẩy hận. Ngài nín nẩm lóng tin thì hiểu rõ hành tàng mọi lẽ. Còn hai người TRANG, TƯƠNG thì Ngọc Hư Cung cho khảo. Thần đặng phép thử, khử tà trừ trược đủ ba năm khảo án, rồi dạy dỗ cho nó trung tâm, rồi cho trở lại Hội Thánh. Không. Cười... Hạng Thiên Thánh mà vào phẩm Ðầu Sư sao đặng. Bần tăng tưởng khi Ngài hiểu điều ấy chán chường, chẳng cần để luận. Họ chỉ lãnh Hàm phong là may mắn lắm đó. ( tài liệu sưu tập của Quang Minh) 3- Ba vị Tướng soái của Chí-Tôn: Ngày 11-5 Mậu Thìn (Thứ Năm: ) Đức Thượng Đế giáng Cơ dạy rằng: Trung! Hai em con là Cư và Tắc từ đây hằng ở bên 128

129 5- Ông Phối Sư Thái Ca Thanh (lập Minh Chơn Lý) con đặng cùng lo phổ độ. Đối với ba vị Đại Thiên Phong của Toà Thánh là cột đồng vững chắc lúc nào cũng ra tay chống đỡ đạo quyền, các Ngài lo cho chúng sanh tức là lo cho cả đại đồng nhơn loại. Lúc này Đạo phải lén lút đưa một số người ra ngoại quốc du học theo phong trào Đông du mới phối hợp với bốn nhà Nguyễn đưa người đi tìm đường cứu nước, nên những tiền bạc gom góp để hỗ trợ cho việc này không dám công khai mà các Ngài phải chịu mang tiếng. Nhất là Đức Quyền Giáo-Tông phải chịu phần mạ lỵ của nhóm người chống đối luôn rình rập và làm khổ Ngài. Nhưng khổ nỗi việc làm phải dấu kín làm sao phơi bày sự thực, nên phải đành ngậm miệng, thừa thế lũ người ấy càng làm lớn chuyện để sỉ nhục các Ngài. 1/-Thực dân pháp tiến hành âm mưu: Với Đức Quyền Giáo-Tông thì: Thực dân Pháp cung cấp tài liệu cho nhóm người bồi bút viết báo nói xấu Đức Quyền Giáo-Tông Lê văn Trung, đả kích rằng: mọi việc ăn, ở, sinh hoạt của Đức Ngài đều do Hội-Thánh Cao-Đài lo chu đáo, thế mà hằng tháng Đức Ngài còn nhận 50 đồng của Đạo làm sinh hoạt phí. Đức Ngài là người lãnh đạo tối cao của Đạo Cao Đài, thế mà Đức Ngài còn dùng nhiều bút hiệu viết báo cho nhiều tờ báo để lấy tiền nhuận bút. Tất cả tiền bạc vay hỏi là lén lút trao cho nhóm người ra nước ngoài lo phần ăn học và lo phần cứu nước. Với Đức Cao Thượng-Phẩm: Chúng viết báo nói xấu Ngài là không lo thi hành trách nhiệm, bảo vệ chơn truyền luật pháp Đại Đạo, việc 129

130 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài phá rừng lập Thánh địa chi tiêu không minh bạch. Mua sắm vật liệu giá cao hơn giá thị trường, việc chi thu không rõ ràng.đủ thứ hết. Với Đức Hộ-Pháp: Họ cũng thi hành vấn đề viết báo bêu xấu Đức Ngài không thi hành trách nhiệm bảo thủ chơn truyền luật pháp Đại Đạo, không triệu tập Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài để thụ lý xét xử đơn tố cáo của đồng đạo: tố cáo Đức Quyền Giáo-Tông và cả Đức Thượng-Phẩm nữa. Rằng Ngài luôn có lập luận bao che cho các bậc Chức sắc bề trên. 2/- Thực dân Pháp mua chuộc, hăm doạ và cưỡng bức nhà Nho Đặng Thúc Liêng và Hoà Thượng Thái Diên cùng ba nhà báo hợp soạn quyển Cao-Đài Đàm quái giáo nghị, mục đích là xuyên tạc, vu khống, đả phá, mạ lỵ Đạo Cao Đài, in tràn lan, phổ biến rộng rãi khắp nơi, loan truyền khắp các giới. Kết quả là làm cho dư luận xôn xao, trong quần chúng hoang mang và những người không vững đạo tâm sẽ có những hành động táo bạo, sự rạn nứt bắt đầu: Do đó phái của ông Phối Sư Thái Ca-Thanh (Tri phủ Nguyễn văn Ca) bỏ Toà Thánh Tây ninh về Rạch giá phổ biến Chánh tà yếu lý lập ra nhóm An-Thiên-Hội, lập Toà Thánh Tam Bình ở Rạch giá, Toà Thánh Trung ương ở Cầu Vỹ, Mỹ Tho, lập phái Cao-Đài Minh Chơn Lý tự phong làm Giáo-Tông, tức nhiên tạo những đàn Cơ thiếu nghiêm túc, rồi quay lại chỉ trích Hội-Thánh Cao- Đài Toà Thánh Tây ninh là nơi đã khai sanh ra chính các phẩm tước của các vị ấy, chính con người của họ nữa kìa! Lúc bấy giờ Toà-Thánh bị quá nhiều khảo đảo từ trong nội bộ vì nghe theo nhóm người phá Đạo cùng sự xúi giục của người Pháp, gây ra phe này phái nọ làm chao 130

131 5- Ông Phối Sư Thái Ca Thanh (lập Minh Chơn Lý) đảo tinh thần những ai nhẹ đức tin. Nhưng người chịu nạn nặng nề nhứt là các Ngài: Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt Đức Hộ-Pháp Phạm Công-Tắc. Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư Những phe chống Hội Thánh, trong đó có: Phái Minh Chơn Lý ra đời. Phái nầy do Ngài Ðốc phủ Nguyễn Văn Ca lập ra. Ông nhập môn vào Ðạo Cao Ðài năm 1926, được Ðức Chí Tôn phong phẩm Phối Sư Thái Ca Thanh. Ông Ca đóng góp nhiều công sức trong việc xây dựng tờ báo La Revue Caodaïste, bằng Pháp văn để truyền bá Ðạo Cao Ðài cho người ngoại quốc. Ông Ca vâng theo Cơ bút của ông Trương Kế An (hiệu là Tuyết Vân Mặc Khách) nên ông Ca ở luôn tại Cầu Vỹ, Mỹ Tho, không về Tòa Thánh Tây Ninh và không tuân mạng lịnh của Hội Thánh nữa, lập phái Minh Chơn Lý vào năm Ông Ca lôi kéo được một số Chức sắc hiệp tác với ông buổi đầu như: Ngài Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang, Vài Chức sắc ở Cầu Kho, Quí ông Cao Triều Phát, Nguyễn Ngọc Thiệu. Cơ bút do ông Trương Kế An cầu, phong ông Ca làm Ðầu Sư Thái Ca Nhựt. Cũng trong năm nầy, Cơ bút lại dẫn ông đi xa hơn nữa, qua các kỳ An Thiên Ðại Hội, gọi ông là Ðức Cửu Trùng Ðài. Từ đây, chưởng quản Hiệp- Thiên-Ðài là Thiên Sư Nguyễn Văn Phùng cầu cơ sửa đổi hết cách thờ phượng và nghi lễ, thay Thiên Nhãn bằng Trái Tim và Thập ngũ Linh Ðăng, rồi giải thích Thánh 131

132 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Ngôn một cách lệch lạc, khiến cho không còn gì là chơn truyền của Ðạo Cao Ðài nữa. Các Chức sắc trước đây hiệp tác với ông Ca thấy vậy liền rút khỏi Minh Chơn Lý, đồng xuống Bạc Liêu là quê hương của Ngài Cao Triều Phát lập phái Minh Chơn Ðạo, xây dựng Tòa Thánh Ngọc Minh ở Giồng Bướm, Giá Rai, Cà Mau. Phái Minh Chơn Lý hiện nay thu hẹp rất nhiều, lại chia làm hai: chi Chơn Lý tại Cầu Vỹ (Minh Chơn Lý cũ) và Tòa Thánh Cao Ðài Việt-Nam tại Bến Tranh. Trong Đạo lúc này có lẽ rối như tổ ong, vì không còn ai nghe ai nữa. Thầy giận mà rằng: Thầy hỏi: Thằng CA nó phản đạo là tại cớ nào? Nói Thầy nghe thử... Không phải vì vậy mà thôi, mà tại gương xấu của các con phản phúc lẫn nhau, nhục mạ lẫn nhau, mưu hại lẫn nhau, giành giựt quyền hành, gây điều bất chánh, đến đỗi Hiệp-Thiên-Ðài cũng thế. TẮC! Con nghe rõ: nhiều đứa dùng Cơ Bút mà làm ngọn đao thương đặng sát phạt mắng chửi nhau, ngày nay mới làm mối oan khiên cho Tà Thần bắt chước. Hại thay cho một nền Tôn giáo chơn chánh dường nầy, bị phàm tâm của các con đã ra ô trược... Thầy đã thấy trong Thiên thơ, tội tình của mỗi đứa, Thái Bạch đã giao nạp cho Ngọc Hư Cung rồi, đã đủ mặt Cửu-Trùng-Ðài và Hiệp-Thiên-Ðài đều có hết.! Về Phối Sư Thái Ca Thanh: 132

133 5- Ông Phối Sư Thái Ca Thanh (lập Minh Chơn Lý) Sau đây, xin trích một đoạn trong quyển Lịch Sử Cao Ðài Quyển 2 của Ðồng Tân, trang : Thế là một phái nữa thành hình, ban đầu lấy tên là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Minh Lý Hội, sau đổi thành Minh Chơn Lý Hiệp Ngũ Chi. Những việc ông Ca làm buổi ban sơ xem cũng có mòi xây dựng, nhưng qua năm 1935, Chưởng quản Hiệp Thiên Đài là Thiên Sư Nguyễn Hữu Phùng chấp cơ sửa đổi hết cách thờ phượng, lễ bái, nghi tiết, đổi sự thờ Thiên Nhãn bằng Trái Tim và Thập ngũ Linh Ðăng. Vì lẽ ấy mà phần lớn Chức sắc, một số trở về Cầu Kho giữ nguyên gốc cũ làm thành nhóm bảo thủ, còn một số thì hợp tác với phái Tiên Thiên. Minh Chơn Ðạo cũng nảy sinh khi phái Minh Chơn Lý bắt đầu đi sâu vào Tà phái. Việc ông Ca tách ra thành hình phái Minh Chơn Lý là cơ đại khảo trong Đạo, nhưng cũng do nghiệp báo của ông, nên sự canh cải làm cho thất chơn truyền là một sự nguy hại cho ông và cho phái ông rất nhiều. Ðể chứng minh điều nầy, ta hãy xem bài cơ bút sau đây đã giải thích huyền vi Thiên Nhãn một cách rất tà mị, dù người kém chữ nghĩa đến đâu cũng không thể hiểu như vậy được. Bài trích trong tập Ðuốc Chơn Lý, do Tòa Thánh Ðịnh Tường (Minh Chơn Lý, Cầu Vỹ) xuất bản năm 1955: VÔ VI HIỆP THIÊN ÐÀI Ngày 19 tháng 8 âm lịch 1938 (7 giờ tối) Ðược! Con nghe Thầy dặn, nay Thầy giải nghĩa câu: Nhãn thị chủ tâm, Lưỡng quan chủ tể, quan thị Thần, Thần thị Thiên, Thiên giả Ngã dã. 133

134 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Trước Thầy có hứa sau Thầy sẽ chỉ rành là đợi cho đến ngày nay là đúng Tam Kỳ Phổ Ðộ, Thầy phải giải cho rành cho cả thảy đặng hay kẻo nhiều đứa nó ước ao trông đợi. Giải nghĩa như vầy: Chữ Nhãn thị chủ tâm nghĩa là cái nhãn của mỗi người đó là chủ nghĩa ở nơi tạng Tâm mà truyền ra, ấy là trái tim nên hình cái Nhãn cũng tương tự trái tim vậy. Ðó là Tâm nội xuất hình ư ngoại đó nên lấy nó mà làm chủ nghĩa đặng cho đời xem chung nên gọi là Nhãn thị chủ Tâm là vậy đó. Lưỡng quan chủ tể, chữ tể nầy là cai trị (gouverner) nghĩa là hai điều quan hệ trong sự ngó dòm, coi xét, đó phải ngăn ngừa phòng sợ, trong đó có chánh có tà, đó là lưỡng quan là hai ngõ, hễ ngó chánh thì có chánh, ngó tà thì có tà, trong đó có một ngôi chủ tể xem xét không lầm nên phải quan phòng là vậy đó. Quan thị Thần, chữ quan nầy là khán (observer), chữ thị nầy là thật (droit) nghĩa là xem xét đặng làm việc phải là chữ thị đó. Thị trong đó có Thần. Thần nầy là Thần huệ diệu minh là điển đó, nên gọi là điển quan Thần diệu huệ phát minh tâm là vậy đó. Thần thị Thiên, Thần vậy đó mới gọi là có Trời ẩn trong đó. Thần nầy mới gọi là Thần mục tợ điển. Còn Thiên đó là người đời hay kêu là Thiên La Thần, Ðịa La Thần là vậy, vì xem xét không lầm, bao la vũ trụ chẳng vị chẳng tư. Còn chữ Thiên giả ngã dã, chữ Thiên là xấu (mauvais), chữ Ngã là nghiêng (pencher). Ðó là nghĩa nói về người đạo. Nếu dùng Thiên Nhãn đặng treo vậy thì trong chỗ ngó xem hành động không y theo lời dạy thì người đó có chỗ thiên là không đúng thiệt nơi lòng. 134

135 5- Ông Phối Sư Thái Ca Thanh (lập Minh Chơn Lý) Phật gọi là ngã (tomber) tướng đó. Hễ người đạo mà phạm vào nhơn ngã thì hóa ra là người nương đạo mà lập danh quyền lợi, dầu có treo cũng vô ích. Vậy, con biểu CA nó coi rồi giao lại cho ba Ðầu Sư, Tứ Bửu, Thiên Sư xét cho kỹ, coi cho rành đặng in ra, rồi gởi cho các Chi phái khác đặng rõ lời Thầy dạy đó, mặc may chúng nó có đặng hồi tâm mà tránh cái nạn tu mà lắm mê hoặc đặng biết chơn lý mà theo Thầy thì là nhờ công trong mỗi đứa đó. Thăng. 4- Ngọc Chưởng Pháp: Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang ( ) (Bỏ Cao-Đài Tây Ninh theo Minh Chơn Lý) Như trên đã nói: Ông Ca lôi kéo được một số Chức sắc hiệp tác với ông buổi đầu như: Ngài Chưởng Pháp 135

136 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Trần Ðạo Quang, Ngài Trần Ðạo Quang, thế danh là Trần Văn Quang (có tài liệu chép là Trần Thanh Nhàn) sanh ngày Canh Ngọ (dl ) tại Ban Dầy, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Ngài là con trai duy nhứt của ông Trần Chí Hiếu và bà Dương Mỹ Hậu. Hai ông bà làm nghề nông và tu theo đạo Minh Sư, tông Phổ Tế. Ngài có lòng mộ đạo từ nhỏ. Năm 12 tuổi, Ngài noi theo cha mẹ, tu theo đạo Minh Sư. Năm 16 tuổi, Ngài bắt đầu ăn chay trường. Thái Lão Sư Trần Ðạo Cửu nhận làm thầy đứng ra khai thị cho Ngài. Năm 21 tuổi, Ngài xuất gia tu hành, bắt đầu tu Nhứt Thừa: Nhứt bộ rồi Nhị bộ và Tam bộ, sau tiến lên tu Nhị Thừa qua bốn bậc: Thiên Ân, Chứng Ân, Dẫn Ân, Bảo Ân; rồi Ngài tiếp tục tu lên Tam Thừa, qua hai bậc: Ðảnh Hàng: lấy đạo hiệu Trần Vận Quang. Thập Ðịa là Thái Lão Sư: lấy đạo hiệu là Trần Ðạo Quang. Năm nầy Ngài được 45 tuổi. Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang, được sự tín nhiệm của 12 vị Lão Sư Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam, nên Ngài về trụ trì chùa Linh Quang Tự là Tổ đình của Tông Phổ Tế ở Việt-Nam. Tổ Sư của Tông Phổ Tế đạo Minh Sư bên Tàu là Thái Lão Sư Trần Ðạo Khánh dự định phong cho Ngài Trần Ðạo Quang làm Việt Nam Ðệ Nhứt Tổ của Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam. (Tài liệu của Huệ Nhẫn) Trong lúc đó thì Lão Sư Nguyễn Văn Tương và Nguyễn Văn Kinh đã được Ðức Chí Tôn độ theo Ðạo 136

137 5- Ông Phối Sư Thái Ca Thanh (lập Minh Chơn Lý) Cao Ðài, nên hai Ngài xin lập đàn cơ tại Linh Quang Tự để Ðức Chí Tôn độ Ngài Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang luôn thể và Ngài Trần Ðạo Quang được Ðức Chí Tôn độ nên bằng lòng qui hiệp vào Ðạo Cao Ðài. Khi Ngài Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương đăng Tiên tại làng Hữu Ðạo quận Cai Lậy thì khoảng hơn một tháng sau, Ðức Chí Tôn phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Quyền Thượng Chưởng Pháp ngày Bính Dần (dl ). (Theo Ðạo Sử của Bà Nữ Ðầu-Sư Hương Hiếu Q.2 trang 172 và 192) Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ đăng Tiên ngày 14-5-Ðinh Mão, thì sau đó ít lâu, Ðức Chí Tôn ân phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Ngọc Chưởng Pháp chánh vị. Trong cơ Ðạo phân chia Chi phái, năm 1931 Phối Sư Thái Ca Thanh rút khỏi Toà-Thánh Tây-Ninh về Mỹ Tho lập phái Minh Chơn Lý, Ngài Ngọc Chưởng Pháp hợp tác với Minh Chơn Lý, sau đó thấy ông Ca và ông Phùng sửa đổi hết cách thờ phượng, nên Ngài rút khỏi Minh Chơn Lý, xuống Bạc Liêu hợp với ông Cao Triều Phát mở ra phái Minh Chơn Ðạo năm Năm 1937, Ngài Ngọc Chưởng ra hành đạo ở Ðà Nẵng. Lúc đi ra Trung, Ngài Ngọc Chưởng Pháp không có giấy thuế thân, nên Ngài lấy giấy thuế thân của người trong làng tên là Hà Văn Thuần để xin làm căn cước thì mới được phép ra Trung. Thế nên khi hành đạo ở Ðà Nẵng, Ngài lấy tên là Hà Văn Thuần. Ngài ủng hộ bổn đạo nơi đây xây dựng được Thánh-Thất Trung-Thành, để làm cơ sở hoạt động của Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt. Ngày 17-2-Bính Tuất (dl ), Ngài Ngọc 137

138 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang đăng Tiên tại chùa Linh Quang Tự ở Gò Vấp, Gia Ðịnh, hưởng thọ 77 tuổi. Thi hài của Ngài được an táng tại nghĩa trang Minh Sư gần Linh Quang Tự. Sau nầy, do nhu cầu mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt, Linh Quang Tự và nghĩa trang đều bị giải tỏa, bổn đạo cải táng Ngài về phần đất ở phía sau Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài vào ngày 15-8-Kỷ Mùi (1956) thuộc xã Thông Tây Hội, cũng thuộc quận Gò Vấp PHÁI TIÊN THIÊN: GIÁO HỮU NGỌC CHÍNH THANH (Ông bị trục xuất vào năm 1930). Phái nầy do ông Giáo-Hữu Ngọc Chính Thanh (Nguyễn Văn Chính) lập ra ở Cai Lậy. Nguyên ông Chính thọ phong Giáo Hữu tại Toà-Thánh Tây-Ninh, nhưng ông không hành đạo, mà lo việc luyện đạo và lập Cơ bút riêng. Ông bị Hội Thánh Tây Ninh cảnh cáo nhiều lần, và cuối cùng thì ông bị trục xuất vào năm Năm 1932, Cơ Bút phái Tiên Thiên phong ông Chính làm chức Chưởng Pháp, quí ông Nguyễn Văn Tòng và Lê Kim Tỵ qua hợp tác với ông Chính, thành lập phái Tiên Thiên, lập Tòa Thánh Châu Minh tại làng Sóc Sãi tỉnh Bến Tre. (Ông Lê Kim Tỵ là một nhà thầu khoán có tài, người có danh vọng lúc bấy giờ, tính tình cương nghị, người Pháp rất kính nể. Khi ban sơ mới mở Ðạo tại Sài Gòn, ông Tỵ có đến hầu đàn, Ngài Nguyễn Trung Hậu phò loan, Ðức Chí Tôn cho ông 4 câu thi rồi viết tiếp: Tỵ họa bất như tỉnh phi. [nghĩa là: Tránh họa không bằng xét lại lỗi lầm của mình], Lui. (tức là Ðức Chí Tôn không thâu nhận ông Tỵ làm Môn đệ).

139 6- Phái Tiên Thiên: Giáo Hữu Ngọc Chính Thanh Phái Tiên Thiên dùng Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Tân Luật và Pháp Chánh Truyền như Tòa Thánh Tây Ninh, nhưng Chức sắc không chia ra Thái, Thượng, Ngọc, chỉ mặc đạo phục toàn trắng, đầu đội khăn đóng trắng. Nhờ tài thầu khoán của ông Lê Kim Tỵ, ông xây dựng được 72 Thánh Tịnh (Thất thập nhị Thánh Tịnh) trong khắp các tỉnh ở miền Nam cho phái Tiên Thiên. Hội Thánh Tiên Thiên cũng có hai đài: Hiệp-Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài nhưng cầm đầu lại do Thất Thánh, có Thất Hiền phụ tá. Thất Thánh gồm 7 ông: Phan Văn Tòng, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Thế Hiển, Lê Kim Tỵ, Trần Lợi, Nguyễn Bửu Tài, Nguyễn Tấn Hoài. Thất Hiền gồm 7 ông: Lê Thành Thân, Nguyễn Phú Thứ, Lâm Quang Tỷ, Ðoàn Văn Chiêu, Phan Lương Hiền, Trương Như Mầu, Phan Bá Phước. Dự khuyết: Phan Thanh. Cũng trong thời gian nầy, phái Tiên Thiên lập Trước Tiết Tàng Thơ, chủ tịnh là ông Trương Duy Toản. Ông Trần Văn Quế thì hiệp với đồng tử Liên Hoa (Ðàm Thi) lập nhiều Thánh Tịnh khác như: Trước Lý Minh Ðài ở Gia Ðịnh, Ngọc Minh Ðài ở Bà Ðiểm, Ngọc Tuyển Thánh Tịnh ở Long Thành, Biên Hòa. Sau đó Cơ Bút phái Tiên Thiên dạy thành lập Cao Ðài Ðại Ðạo Liên Ðoàn, qui tụ một số Chức sắc kỳ cựu trong Ðạo và một số trí thức trong mục tiêu hiệp nhứt các Chi phái, làm cho phái Tiên Thiên bắt đầu xuống dốc và có nguy cơ tan rã. Ngài Nguyễn Bửu Tài, được Cơ bút Tiên Thiên 139

140 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài phong chức Ðầu Sư Thượng Tài Thanh, lãnh đạo 65 vị Chức sắc Tiên Thiên qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh, được Ðức Lý Giáo-Tông giáng cơ chấp thuận ngày , tạm thời giáng nhứt cấp tất cả các vị nên Ngài Nguyễn Bửu Tài là Phối Sư Thượng Tài Thanh và Ðức Lý hứa, khi nào đem hết tất cả Chức sắc và bổn đạo của phái Tiên Thiên qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh thì Ðức Lý sẽ phong cho chức cũ. Hai năm sau, Ngài Nguyễn Ngọc Tương Giáo-Tông phái Bến Tre qui liễu, Ngài Nguyễn Bửu Tài lại tách rời Tòa Thánh Tây Ninh trở về Sóc Sãi Bến Tre, tái lập phái Tiên Thiên và sau đó Cơ bút Tiên Thiên phong Ngài Nguyễn Bửu Tài lên chức Giáo-Tông ngày Sự kiện có tính cách vĩ đại nầy của phái Tiên Thiên không được các Chi phái khác quan tâm vì phái Tiên Thiên lúc bấy giờ không có thực lực đáng kể, số tín đồ còn lại rất ít, số Chức sắc thì lại nhiều hơn. Tiểu sử Ông Nguyễn Bửu Tài phái Tiên Thiên: Ông Nguyễn Bửu Tài sanh năm 1882 tại làng Chẹt Sậy, sau đổi tên là làng Phú Hưng, tỉnh Bến Tre. Ngài theo tân học nhưng cũng rất giỏi Hán học, làm Giáo viên tại Bến Tre, được thăng lên Thanh Tra Tiểu Học, sau lại đổi lên Biên Hòa. Năm 1926, ông Nguyễn Bửu Tài lập một phái tu đơn tại Chẹt Sậy, Tịnh Thất được đặt tên là Tây Tông Vô Cực Cung. Năm 1941, ông có liên lạc với Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể ở Nhựt, nên bị Pháp bắt đày đi Côn Ðảo 5 năm. Ngày , Chánh phủ Trần Trọng Kim ân xá, 140

141 6- Phái Tiên Thiên: Giáo Hữu Ngọc Chính Thanh ông Tài được trả tự do, ông trở về quê tiếp tục tu đơn. Sau đó ông gia nhập phái Tiên Thiên, được cơ bút phong Thượng Ðầu Sư, trở thành Chức sắc lãnh đạo phái Tiên Thiên. Một số lớn Chức sắc cao cấp của phái Tiên Thiên nhập qua các phong trào Thống Nhứt Chi phái, làm cho phái Tiên Thiên suy yếu. Do đó, ông Nguyễn Bửu Tài cùng một số Chức sắc Tiên Thiên cấp dưới qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh, được Ðức Lý Giáo-Tông giáng cơ chấp thuận trong đàn cơ đêm 1-3-Mậu Tý (dl ), và Ðức Hộ-Pháp ra Thánh Lịnh số 535 ngày 4-6-Kỷ Sửu (dl ) thi hành quyết định của Ðức Lý Giáo-Tông. Ngày 27-5-Canh Dần (dl ), theo lời dạy của Ðức Lý Giáo-Tông đêm 3-1-Canh Dần, Ðức Phạm Hộ-Pháp ký Thánh Lịnh số 302, chư Chức sắc phái Tiên Thiên có danh sách trong Thông qui ngày Kỷ Sửu, đã đệ trình lên Ðức Lý Giáo-Tông xem xét, được Ðức Lý tạm phong vào hàng Chức sắc Tòa Thánh Tây Ninh, sụt bớt một cấp, như sau đây: Phối Sư Thượng Tài Thanh (Nguyễn Bửu Tài) Phối Sư Thượng Hiền Thanh (Phan Lương Hiền) Giáo Sư Ngọc Thiệu Thanh (Phan Lương Thiệu) Giáo Sư Ngọc Dừng Thanh (Ðinh Văn Dừng) Giáo Sư Thượng Tấu Thanh (Trần Văn Tấu) Phần tiếp theo là danh sách 26 Giáo Hữu và 35 Lễ Sanh. Tổng cộng: 66 vị Chức sắc, không ai là Ðạo hữu cả. Ngày Canh Dần (dl ) Ðức Phạm Hộ- 141

142 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Pháp lại ký Thánh Lịnh phong thêm 5 vị Giáo Sư, 3 Giáo Hữu và 17 Lễ Sanh. Cả thảy Chức sắc phái Tiên Thiên được Ðức Lý Giáo-Tông tạm phong do cơ bút tại Tòa Thánh Tây Ninh, phải hành sự tùng quyền Ngọc Chánh Phối Sư, Chủ trưởng Chức sắc. Giữa năm 1951, ông Nguyễn Ngọc Tương Giáo-Tông phái Bến Tre qui liễu tại Thánh Thất An Hội Bến Tre. Sau đó, ông Nguyễn Bửu Tài và số Chức sắc Tiên Thiên đã qui hiệp về Toà-Thánh Tây-Ninh trước đây, âm thầm tự ý rút lui khỏi Tây Ninh, trở về Sóc Sãi tỉnh Bến Tre tái lập phái Tiên Thiên, lập Tòa Thánh Châu Minh và Hội Thánh Tiên Thiên. Ngày , cơ bút phái Tiên Thiên phong ông Nguyễn Bửu Tài lên chức Thượng Chưởng Pháp. Ngày , ông Nguyễn Bửu Tài được tấn phong Quyền Giáo-Tông phái Tiên Thiên. Ngày , tức là đúng 1 năm sau, cơ bút phong ông Nguyễn Bửu Tài lên chức Giáo-Tông chánh vị phái Tiên Thiên. Ngày 21-9-Mậu Tuất (dl ), ông Nguyễn Bửu Tài qui liễu, bửu tháp của ông được xây tại Tòa Thánh Châu Minh ở Sóc Sãi, Bến Tre. Vậy ở Bến Tre, trước sau có hai vị Giáo-Tông Chi phái: Nguyễn Ngọc Tương và Nguyễn Bửu Tài. CUỘC THỬ CƠ của PHÁI TIÊN THIÊN Về Toà-Thánh Tây ninh Phò loan: Luật Sự Nhung - Hưởng. 142

143 6- Phái Tiên Thiên: Giáo Hữu Ngọc Chính Thanh Thừa Sử: Nguyễn Văn Kiết. Hầu đàn: Chức sắc CTÐ, HTÐ, Sĩ quan cao cấp, Chức sắc Tiên Thiên và đồng tử Thanh Trước Ðàn, Tiền Phong Hội Quán, ngã 5, Tòa Thánh TN, lúc 21g30 Ðêm 4-2-Tân Mão ( ). LÝ GIÁO-TÔNG Chào con cái Chí Tôn. Thượng Tài Thanh, Hiền hữu có biết chăng Ðạo Thầy có một.? Khai Pháp Hiền hữu chấp bút nhang đuổi nó đi, vì đây trước mặt Lão lại còn cho Thần Cái trụ. Thượng Tài Thanh, hỏi một Hội Thánh có mấy Ðài Hiệp Thiên và mấy Ðài Cửu Trùng? Chính tay Lão đã lập Ðạo Nghị Ðịnh thứ 8, có đâu Lão lại phá luật; còn Ðài Hiệp Thiên do Hộ-Pháp nắm giữ, có đâu Lão lại quá quyền phạm pháp, phong tước Chưởng quản Hiệp-thiên-Đài, Hiền hữu vốn biết Lão đương quyền Giáo-Tông đó chớ? Cơ chia phe phân phái cũng do đó có phải? Nè Lão cho hay rằng: Hội Nhơn Sanh sắp đến đó, thử hỏi Chức sắc và tín đồ về đặng bao nhiêu? Hiền hữu khá nhớ rằng: được phẩm thì dễ, chớ ngồi yên khó lắm, sự không qui thuận của Chức sắc và tín đồ Tiên Thiên là lỗi nơi Hiền hữu, chớ không phải nơi họ. Từ đây, Hiền hữu cứ ra nghiêm lịnh coi. Nên nhớ rằng: với tình thì Lão dung thứ được, chớ về luật pháp e khó dung tha được. Cao Sĩ Tấn! Lão biết Hiền hữu có ý bất mãn, nhưng 143

144 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Lão khuyên Hiền hữu khá suy nghĩ sẽ thấy rõ đường đi. Ðức Chí Tôn khai Ðạo chẳng bó buộc một ai hết thảy, nếu ngoan là con của Thầy, còn dại thì mặc tình quỉ dẫn. Những cặp đồng tử của Hiền hữu, tuy vốn xuất thần, nhưng bị hồi điển do bổn thân. Hiền hữu khá đem họ nhờ sự trau luyện của Hiệp-thiên Đài Chức sắc thì sẽ được ứng dụng ngày sau. Hiền hữu thử hỏi lại chúng nó coi: trước đêm mùng 4 vừa qua nó có suy nghĩ gì chăng? Thượng Tài Thanh, Hiền hữu hiểu lời Lão rồi chớ? Bảo Thế, Khai Pháp, Tiếp Ðạo, sáng ngày mai phải xuống Trí Huệ Cung tường thuật cặn kẽ cho Hộ-Pháp nghe. Còn hai em Hưởng và Nhung, Lão khen đó, hai em đã giúp Lão chỉnh đốn Cửu Trùng Đài nhiều lắm đó, Lão mang ơn nơi cõi Hư linh, còn hữu hình Lão chẳng có quyền. Thăng. Tái cầu: Lúc 23 giờ. THƯỢNG TRUNG NHỰT Qua chào mấy em. Cười! Ông Già nộ khí dữ quá ta! Lúc nãy đồng tử của họ có một người tà tâm nên Ổng đánh nó đó. Bạch: Không sao, tuy vậy chớ Thượng Tài Thanh và Cao Sĩ Tấn biết suy nghĩ lắm, họ bị quá mê tín mà nên nông nỗi. Cười... Coi chừng đồng tử bị đánh, bịnh ta ơi! Tội nghiệp, không phải tự họ muốn lên giả, nhưng tại Thần trược mà bị hồi điển. Những người đồng tử họ bất bình, họ nói mình xúm nhau mà làm ngưng nghề họ, chớ không phải là Ðức Lý. Cười.. Mặc dầu lúc nãy, Ông Già đã nói trước rồi. 144

145 7- Phái Minh Chơn Ðạo Còn KHOA thì coi hình như đeo muốn rớt. Em Trung Dõng nên gần gũi dẫn dụ họ, nếu họ có ức thì xin với Ðức Hộ-Pháp, Ðức Hộ-Pháp phò loan tại Trí Huệ Cung một lần nữa, nhưng không cho đồng tử theo vì có hại cho họ. Cười... Cần cơ gãy... Cười... Anh nói thiệt, nếu cơ không gãy thì e cho họ phát điên rồi mà chớ. Ðó cũng may cho họ vì đầu cơ không có điển, hành pháp không xuất được. Thôi cũng yên một phần, em Trung Dõng cười đi em. Thăng. Chú thích: (KHOA: Ngài Hồ Tấn Khoa, lúc đó chưa được phong chức Bảo Ðạo. TRUNG DÕNG: hiệu của Trung Tướng Nguyễn Văn Thành). 7- PHÁI MINH CHƠN ÐẠO Phái nầy do ba Ngài: 1- Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang, 2- Cao Triều Phát và 3- Nguyễn Ngọc Thiệu, Tách khỏi phái Minh Chơn Lý (vì thấy hai ông Ca và Phùng biến cải theo Tà đạo), qui tụ về Giá Rai tỉnh Bạc Liêu, lập ra phái Minh Chơn Ðạo vào năm Lúc đầu trụ sở đặt tại Chùa Minh Sư của Ngài Trần Ðạo Quang tại Giá Rai, sau mới lập Tòa Thánh Ngọc Minh ở Giồng Bướm Giá Rai, cũng gọi là Tòa Thánh Hậu Giang. Gần Tòa Thánh nầy có Ngũ Hành Tòa để làm Hiệp-Thiên-Ðài. Phái nầy hoạt động khá mạnh, lên tới tỉnh Vĩnh Long. 145

146 CHƯƠNG II Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái Cao-Đài Phái Minh Chơn Ðạo giữ đúng theo Tân Luật, Pháp Chánh Truyền và lễ nghi của Ðạo buổi sơ khai. Phái nầy không luyện đạo, mặc dầu Ngài Trần Ðạo Quang, trước khi gia nhập Ðạo Cao Ðài, Ngài là Thái Lão Sư cầm đầu Chi Minh Sư ở Việt-Nam. Ngài Trần Ðạo Quang được phong chức Chưởng quản Vô Vi Chưởng quản Cửu-Trùng Ðài, Ngài Cao Triều Phát chức Thái Chưởng Pháp Chưởng quản Hiệp Thiên Ðài, Ngài Nguyễn Ngọc Thiệu chức Ðầu Sư Ngọc Thiệu Nhựt. Sau nầy, Ngài Cao Triều Phát lại tách ra, ông Nguyễn Văn Kiện tự Huân được phong chức Hộ-Pháp Thiên Ấn Tinh Quân, chưởng quản Hiệp Thiên Ðài. Cơ bút của phái Minh Chơn Ðạo phong gần đủ các phẩm Chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Đài, như: Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh, 9 vị Thời Quân, 2 vị Chưởng Pháp, 7 vị Ðầu Sư, 3 Chánh Phối Sư (không có phẩm Giáo-Tông, bên Cửu Trùng Đài thì chức Chưởng quản Vô Vi là cao nhứt). Sau cuộc đảo chánh của Nhựt Bổn, quân đội Pháp trở lại dùng phi cơ dội bom, trúng Tòa Thánh Ngọc Minh tan tành. Ngài Cao Triều Phát hợp tác với Việt Minh để bảo vệ tín đồ. Sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, Ngài Cao Triều Phát tập kết ra Bắc và qui liễu tại đó trong năm sau. 8- HAI VỊ QUYỀN ĐẦU-SƯ TÁCH RA LẬP CHI PHÁI BÊN TRE Quyền Đầu-Sư Thượng Tương Thanh, Quyền Đầu-Sư Ngọc Trang Thanh 146

147 8- Hai vị Quyền Đầu-Sư tách ra lập Chi Phái Bên Tre Nhóm Nguyễn Phan Long mở Hội Vạn Linh xét xử tội trạng Đức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung và Đức Hộ- Pháp Phạm Công Tắc. Ngày 19-5-Quý Dậu (Thứ ba: ) Thực dân Pháp kết hợp với triều đình nhà Nguyễn ở Huế và được sự nội ứng của Phối Sư Ngọc Trang Thanh (Tri phủ Lê Bá Trang) đưa nhà chính trị Nguyễn Phan Long về Toà-Thánh Tây-Ninh qui tụ tất cả Chức sắc, chức việc, đạo hữu trên toàn quốc họp về mở Đại hội vạn linh họp giữa chánh điện trong Đền-Thánh để xét xử tội trạng Đức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung và Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc. Ông Nguyễn Phan Long là người không có Đạo Cao Đài, hôm ấy người ông đầu trần, mặc áo sơ-mi trắng ngắn tay, quần sọt (ngắn) trắng, bỏ áo trong quần, giày ba ta trắng, ngồi ghế Nghị trưởng chủ toạ đại hội vạn linh; còn Chức sắc, Chức việc mặc đại phục (áo mão chỉnh tề) ngồi theo thứ bậc. 147

YLE Movers PM.xls

YLE Movers PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 18/11/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 BUI PHAM DANG NAM 11/06/2010 3 2 3 8 2 LE PHUC ANH 07/07/2009 2 4 2 8 3 VO GIA

More information

SBD HO TEN Ngày Sinh Sửa đổi DOAN THI AI DAO THI AN DO VAN AN DO XUAN AN LE

SBD HO TEN Ngày Sinh Sửa đổi DOAN THI AI DAO THI AN DO VAN AN DO XUAN AN LE 30001 DOAN THI AI 05.01.1993 30002 DAO THI AN 17.05.1995 30003 DO VAN AN 09.08.1995 30004 DO XUAN AN 20.09.1993 30005 LE HONG AN 29.07.1992 30006 LE XUAN AN 19.02.1994 30007 MA MY AN 25.08.2005 30008 MAC

More information

SBD HỌ TEN Ngày Sinh Sửa đổi NGUYEN VINH AI DO XUAN AN HOANG VAN AN LUU LE HONG AN

SBD HỌ TEN Ngày Sinh Sửa đổi NGUYEN VINH AI DO XUAN AN HOANG VAN AN LUU LE HONG AN 40001 NGUYEN VINH AI 26.10.1995 40002 DO XUAN AN 03.05.1998 40003 HOANG VAN AN 25.09.1994 40004 LUU LE HONG AN 19.03.2003 40005 NGO THI THUY AN 17.11.2000 40006 NGUYEN CONG AN 07.07.1997 40007 NGUYEN HUU

More information

YLE Starters PM.xls

YLE Starters PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 08/12/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Starters 1 WANG NAN SIANG 28/02/2010 3 5 5 13 2 CHEN HSUAN BANG 08/04/2012 5 5 5 15 3 HUANG

More information

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx277 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx111 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 3 DO DINH DAO 0943xxx000 03. TITANIUM STEPUP CREDIT

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

Mục lục 1.Chú ý an toàn 2.Danh sách các bộ phận 4~5 6 3.Chú ý trong thi công 7 4.Các bước thi công chính Chuẩn bị lắp đặt bồn tắm~lắp đặt bồn tắm (1)C

Mục lục 1.Chú ý an toàn 2.Danh sách các bộ phận 4~5 6 3.Chú ý trong thi công 7 4.Các bước thi công chính Chuẩn bị lắp đặt bồn tắm~lắp đặt bồn tắm (1)C NTE150 2013.10 HƯỚNG DẪN LẮP ĐẶT BỒN TẮM GANG TRÁNG MEN ĐẶT SÀN CÓ CHÂN FBY1756PWGE, FBY1756PWNE Để phát huy hết tính năng của sản phẩm, vui lòng lắp đặt đúng như bản hướng dẫn này. Sau khi lắp đặt, hãy

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR Class: Pre- Intermediate 1 1 Tran Duc Anh 6.5 5.7 4.3 4.9 4.0 4.0 5.9 6.7 5.3 D 2 Tran Ngoc Van Anh 7.6 8.2 6.9 8.2 7.3 7.3 8.9 9.4 8.0 B 3 Pham Dai Duong 7.4 8.2 7.6 7.4 6.6 7.1 8.5 9.2 7.8 C 4 Le Xuan

More information

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx277 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx111 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 3 DO DINH DAO 0943xxx000 03. TITANIUM STEPUP CREDIT

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NG

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NG DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NGUYEN THI NGOC HUYEN NGUYEN VAN DAN NGUYEN QUANGMINH

More information

DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM "SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN" DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY ,403 2 NGUYEN THI

DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY ,403 2 NGUYEN THI DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM "SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN" DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY 025355865 152,403 2 NGUYEN THI HUONG HUYEN 320635110 1,500,000 3 HA DUY THANH 023146891

More information

Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/ /12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG G

Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/ /12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG G Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/2018-31/12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN 422076XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG GIANG 457353XXXXXX8460 1,000,000 3 NGO VAN PHUC 422076XXXXXX7476

More information

SBD HO N5 TEN NGAY SINH BUI NGOC AN HOANG THI NHI AN HOANG THI UT AN NGUYEN BINH AN

SBD HO N5 TEN NGAY SINH BUI NGOC AN HOANG THI NHI AN HOANG THI UT AN NGUYEN BINH AN SBD HO TEN NGAY SINH 50001 BUI NGOC AN 16.08.1989 50002 HOANG THI NHI AN 19.08.1993 50003 HOANG THI UT AN 19.08.1993 50004 NGUYEN BINH AN 15.12.1995 50005 NGUYEN HUU AN 06.10.1993 50006 PHAM THI AN 05.04.1984

More information

N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN LUU LE HONG AN NGUYEN CONG AN NGUYEN DINH NGAN AN

N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN LUU LE HONG AN NGUYEN CONG AN NGUYEN DINH NGAN AN N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN 23.10.1996 0002 LUU LE HONG AN 19.03.2003 0003 NGUYEN CONG AN 07.07.1997 0004 NGUYEN DINH NGAN AN 13.01.2000 0005 NGUYEN HAI AN 05.12.1995 0006 NGUYEN QUOC AN

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER 1 SCHOOL YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER 1 SCHOOL YEAR Class: Pre- Intermediate 1 1 Tran Phuc An 8.6 6.7 6.8 6.5 6.9 7.4 8.7 8.4 7.5 C 2 Nguyen Manh Dan 9.1 8.4 7.9 6.9 5.2 6.7 9.5 6.7 7.6 C 3 Huynh Tuan Dat 8.7 7.4 6.8 6.3 4.1 7.7 9.7 7.6 7.3 C 4 Lam The

More information

Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20, xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20, xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000

Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20, xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20, xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000 Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20,000 090xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20,000 093xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000 098xxxx068 3/3/2017 9:00 DO TUAN ANH 20,000 012xxxx122

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM No. Class: Starter 1 Name RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM No. Class: Starter 1 Name RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR Class: Starter 1 1 Tran Nguyen Binh An 7.2 5.6 7.1 5.3 3.8 5.3 8.6 6.1 D 2 Phung Lam Ngoc An 7.8 8.2 8.6 7.6 4.3 7.1 9.3 7.6 C 3 Tu Pham Tieu Bang 7.5 8.3 9.2 7.4 4.4 7.9 9.6 7.8 C 4 Nguyen Thi Truong

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Intermediate 1   RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PR Class: Intermediate 1 1 Dang Quang Anh 8.0 6.0 6.1 7.9 6.8 7.3 7.3 7.7 7.1 C 2 Nguyen Thuy Quynh Anh 8.3 6.4 6.0 7.5 6.6 7.3 5.4 9.1 7.1 C 3 Nguyen Tran Ha Anh 8.8 6.4 8.5 8.7 9.0 7.1 9.9 8.5 8.4 B 4 Chang

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH DUONG QUOC AI CHU MINH AN NINH VAN AN PHAM THI THUY AN

N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH DUONG QUOC AI CHU MINH AN NINH VAN AN PHAM THI THUY AN N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH 50001 DUONG QUOC AI 16.09.1993 50002 CHU MINH AN 14.08.1990 50003 NINH VAN AN 22.06.1994 50004 PHAM THI THUY AN 17.05.2000 50005 VUONG THI AN 03.09.1992 50006 BUI THI ANH 08.08.1997

More information

YLE Movers PM.xls

YLE Movers PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 16/12/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 NGUYEN HUU XUAN KHANG 10/04/2009 4 4 5 13 2 TRAN LONG MINH DUY 01/10/2008 2 2

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1   RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Chemistry Mathematics 1 Dang Quang Anh 7.8 7.6 6.8 7.9 7.0 6.2 8.7 8.4 7.6 C 2 Nguyen Thuy Quynh Anh 7.6 8.7 6.7 7.3 6.5 6.1 6.8 7.3

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Elementary 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROG

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Elementary 1   RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROG Class: Elementary 1 1 Tran Nguyen Binh An 7.6 6.0 6.1 6.9 6.8 5.9 7.1 6.6 C 2 Phung Lam Ngoc An 8.2 6.8 8.1 7.9 8.2 6.4 8.7 7.8 C 3 Tu Pham Tieu Bang 7.4 8.1 8.4 8.4 8.6 8.3 9.3 8.4 B 4 Nguyen Thi Truong

More information

KET for Schools_ August xls

KET for Schools_ August xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE Kỳ thi ngày: 11/08/2018 Cấp độ: KET 0001 CONG CHIEN NGUYEN Pass 128 0002 BA RIN PHAM Z 0003 THI MAI ANH DO Council of Europe Level A1 112 0004 KHOI

More information

Movers PM.xlsx

Movers PM.xlsx BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 24/03/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 NGUYEN LINH CHI 31/12/2009 5 5 5 15 2 BUI HOANG QUAN 19/06/2008 5 4 5 14 3 BLINO

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Flyers 1 RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR 2015

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Flyers 1 RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR 2015 Class: Flyers 1 No. Name Speaking Listening Grammar 1 PHAN DIEN KY BOI 8.3 9.1 8.8 8.9 7.6 7.8 8.6 7 8.3 Distinction 2 LUC PHU HUNG 8.5 9 7.9 8 7.3 6.8 9.1 7 8 Distinction 3 LUU DUONG BAO KHANH 7.5 9.6

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Upper-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YE

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Upper-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YE Class: Upper-Intermediate 1 History Economics Math Biology Physics Chemistry 1 Le Hai An 8.3 8.7 8.8 9.0 9.4 9.6 7.4 9.1 8.8 B 2 Hoang Truc Anh 7.1 5.5 7.2 7.4 8.0 7.7 6.0 6.9 7.0 C 3 Nguyen Phu Cuong

More information

Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC

Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC DIEM 093xxxxx779 1,000,000 3 NGUYEN TIEN DUNG 090xxxxx796

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLISH

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLISH Class: Movers 1.1 No. Name Speaking Listening Grammar Social Studies 1 NGUYEN CAO THIEN AN 7.7 9.3 9.8 8.8 9.7 8.9 8.9 9.6 9.1 High Distinction 2 LE PHUONG ANH 7.7 8.7 9.0 7.8 9.1 6.5 7.8 8.6 8.2 Distinction

More information

NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do

NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do - Hanh phuc Dia< M3D1 16/12/201 ~.98 T*. Khai,HaN6i

More information

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name   Speaking Listening Grammar RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Chemistry Mathemati 1 Le Hai An 8.9 9.0 7.6 7.7 9.9 7.4 7.3 9.0 8.4 B 2 Le Minh Anh 7.1 5.6 6.6 5.4 7.3 7.7 7.7 5.3 6.6 C 3 Hoang Truc

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Date of issue: Ja

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Date of issue: Ja Class: Intermediate 1 Geograph Histor Econom ic Math Phsics Chenistr GPA 1 Vu Nhat Chuong 8.9 9.0 6.4 8.6 7.6 6.5 7.5 7.0 7.7 C 2 Nguen Tran Anh Du 9.0 8.9 6.7 8.3 8.7 8.4 7.6 8.2 8.2 B 3 Do Le Y Duen

More information

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers 2.1 Name Speaking RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR List

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers 2.1 Name   Speaking RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR List No. Class: Movers 2.1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Writing Social Studies Science Maths 1 NGUYEN HOANG ANH 8.8 9.7 8.6 9.7 9.8 9.9 9.8 9.2 9.4 High Distinction 2 DOAN NGOC TRUC GIANG 8.6 9.8

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG H

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG H DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG HA 2,000,000 2 Sở giao dịch NGUYEN PHUOC MINH DUC 2,000,000

More information

GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM NHCT SAM SON HUA THANH PHONG NHCT CA

GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM NHCT SAM SON HUA THANH PHONG NHCT CA GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN 1294090 NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM 6327127 NHCT SAM SON HUA THANH PHONG 0737415 NHCT CA MAU NGUYEN THI CAI 6532757 NHCT QUANG NINH NGUYEN

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: TOEFL Beginner 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR 2

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: TOEFL Beginner 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR 2 Class: TOEFL Beginner 1 Speaking Listening Grammar Reading & Literature Geography History Economics Math Biology Physics Chemistry 1 Le Hai An 8.9 9.2 8.3 9.2 8.7 9.6 8.2 8.9 8.9 B 2 Hoang Truc Anh 8.7

More information

THÔNG CÁO BÁO CHÍ

THÔNG CÁO BÁO CHÍ HỘI SỰ NGHIỆP TỪ THIỆN MINH ĐỨC Minh Duc Charitable Foundation (MDCF) 明德慈善事業基金會 Website: http://www.tuthienminhduc.com Địa chỉ: Chùa Trung Lâm, xã Tân Xã, Thạch Thất, Hà Nội Số 242A Minh Khai, Quận Hai

More information

Final Index of Viet Ad Person.xls

Final Index of Viet Ad Person.xls 11000-001 Truong Tan Sang 11000-002 Nguyen Thi Doan 12100-001 Nguyen Phu Trong 12220-001 Nguyen Phu Trong 12220-002 Truong Tan Sang 12220-003 Nguyen Tan Dung 12220-004 Nguyen Sinh Hung 12220-005 Phung

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Starters RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLIS

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Starters RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLIS Class: Starters 2.1 No. Name Speaking Listening Grammar Social Studies Science 1 PHAM HUYNH LOC AN 7.5 7.4 6.7 8.7 5.9 6.9 8.0 7.4 7.3 Pass with Merit 2 JI YOU BIN 7.8 10.0 10.0 9.5 9.0 7.5 9.3 9.3 9.1

More information

Bốn bài thi của Phó đại sĩ

Bốn  bài  thi  của  Phó  đại  sĩ 1 Bốn bài thi của Phó đại sĩ Tác giả : Văn Thận Độc Dịch giả : Dương Đình Hỷ Phó đại sĩ (497-569) là một cư sĩ đời Tề, Lương người huyện Nhĩa Ô nay thuộc tỉnh Triết Giang. Năm 16 tuổi lấy Lưu thị, sanh

More information

Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải

Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải 法輪大法義解 Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải 李洪志 Lý Hồng Chí Lời nói đầu Để làm tốt hơn nữa công tác phụ đạo Pháp Luân Đại Pháp, và theo yêu cầu của Hội Nghiên cứu và các trạm phụ đạo các nơi, [một số] giảng Pháp

More information

KINH VÀO HỌC

KINH VÀO HỌC KINH VÀO HỌC (Giọng nam xuân) KINH VĂN Đại từ phụ xin thương khai khiếu, Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ, Gần điều nên, lánh lẽ hư, 4. Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn. Dò đường Thánh khó khăn chẳng

More information

Tinh Tan Yeu Chi 3

Tinh Tan Yeu Chi 3 法輪大法 Pháp Luân Đại Pháp 精進要旨三 Tinh Tấn Yếu Chỉ 3 李洪志 Bản dịch tiếng Việt trên Internet http://phapluan.org http://vi.falundafa.org MỤC LỤC Lời chúc đến Pháp hội tại New York...1 Sư phụ chúc mừng năm mới...1

More information

PHÁP LUÂN CÔNG 法輪功 Lý Hồng Chí 李洪志 MỤC LỤC Chương I Khái luận...1 I. Khởi nguồn của khí công...1 II. Khí và công...2 III. Công lực và công năng...3 1. Công lực là dựa vào tu tâm tính mà xuất lai...3 2.

More information

Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD)

Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD) Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD) 大越 國總覽圖 Trần Việt Bắc (Tiếp theo) Như đã trình bày trong phần trước theo như Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn đã ghi: - Là bản-đồ nước ta do hai Đại-tướng nhà

More information

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa 觀無量壽佛經 疏鈔演義 Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Tịnh Không Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Giảo chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang Quán Vô Lượng Thọ

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH "HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA" Giai đoạn 1: Từ 28/4/ /5/2016 STT GI

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA Giai đoạn 1: Từ 28/4/ /5/2016 STT GI DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH "HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA" Giai đoạn 1: Từ 28/4/2016-27/5/2016 1 GIAI 01: MAY ANH VO TIEN HUY AN DUONG 2 GIAI 01: MAY ANH

More information

BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0CfflNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, n

BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0CfflNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, n BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0ClNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, nang cao chat hrong, hieu qua boat dong cua Lien hiep

More information

Giáo trình tư duy thơ hiện đại Việt Nam

Giáo trình tư duy thơ hiện đại Việt Nam G'.0000016852 A I H O C Q U O C G I A H A NGUYEN BA THANH g i A o t r i n h i n DUY TH0 HIEN DAI VIET NAM O K ] O D G Ha NQI NHA XUAT BAN DAI HOC QUOC GIA HA NO' GIAOTRiNH TITDUY THAT HIEN DAI VIET NAM

More information

UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIE

UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIE UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Xu- do - Hanh phiic Hd Tinh, ngdy/flf

More information

DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG HO THI MY QUYEN NGUYEN THANH VINH LAM QUA

DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG HO THI MY QUYEN NGUYEN THANH VINH LAM QUA DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG 1 28342753 HO THI MY QUYEN 2 28259949 NGUYEN THANH VINH 3 28265356 LAM QUANG DAT 4 23156836 NGUYEN NGOC NHO 5 26231419 NGUYEN

More information

CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON XX

CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON XX CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON 457353XXXXXX8443 LE HONG THUY TIEN 230,000 2 HAI PHONG 478097XXXXXX3147

More information

_x0001_ _x0001_

_x0001_	_x0001_ 1 BAO DO 2 HO NGUYEN 3 TAM PHAM 4 MY LINH TONG 5 THU DO 6 HONG NGUYEN 7 THOM NGUYEN 8 BINH VO 9 MY LE VO 10 HAI DUONG NGUYEN 11 DAO THI NGUYEN 12 LAN NGUYEN 13 ROMAI THI NGUYEN 14 TOAN NGUYEN 15 PHI VO

More information

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng 5 nam 017 V/v huong din danh gia, hoan thanh h6 so BDTX nam hoc 016-017 Thuc hien KS

More information

TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ s

TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ s ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ TÒA THÁNH TÂY NINH TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Chú Giải TRẦN VĂN RẠNG 2010 TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info.

More information

TIEM LUC CAN BANG-BAOVE SINH THAI VA PHAT TRIEN NONG THON QUA XAY DUNG HE THONG CHAN NUOI GIA CAM DAC SAN TAI VIETNAM

TIEM LUC CAN BANG-BAOVE SINH THAI VA PHAT TRIEN NONG THON QUA XAY DUNG HE THONG CHAN NUOI GIA CAM DAC SAN TAI VIETNAM The role of Old Hungarian Poultry Breeds in development of poor regions with regards to agrarian environmental protection and gene conservation in Vietnam VAI TRO CAC GIONG GIA CAM CHAN THA HUNGARY TRONG

More information

MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM)

MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM) MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM) TAP DOAN HOA CHAT VIET NAM CONG TY CO PHAN BOT GIAT

More information

So tay di cu an toan.indd

So tay di cu an toan.indd Bộ ấn phẩm: Sáng kiến phòng chống mua bán người và di cư không an toàn Sổ tay di cư an toàn World Vision International 2014 ISBN 978-0-918261-41-0 Tầm nhìn Thế giới (TNTG) là tổ chức nhân đạo Cơ đốc, thực

More information

H

H H.T. THÍCH TRÍ THỦ Chủ trương LÊ MẠNH THÁT Chủ biên TỰ ĐIỂN BÁCH KHOA PHẬT GIÁO VIỆT NAM A Tập II Từ A Di Đà (Tịnh Độ Giáo) đến A Di Đà Tự Phật Lịch 2548 TL 2004 Lời Tựa Từ điển BÁCH KHOA PHẬT GIÁO VIỆT

More information

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG DỊCH VỤ SACOMBANK EBANKING Sacombank ebanking phiên bản Ngân hàng điện tử mới Ưu việt Thân thiện An toàn Hãy trải nghiệm các chức năng nổi trội của Sacombank - ebanking: Cá nhân hóa giao

More information

UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi,

UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi, UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi, kiem ta danh gia tong cac ky thi ket thuc hoc phan

More information

* Tiểu kết chương CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ PHẬT GIÁO THỜI MINH MẠNG ( ) Đặc điểm Phật giáo thời Minh Mạng ( ).

* Tiểu kết chương CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ PHẬT GIÁO THỜI MINH MẠNG ( ) Đặc điểm Phật giáo thời Minh Mạng ( ). MỤC LỤC MỞ ĐẦU... 1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI... 1 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU... 2 3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU... 2 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU... 3 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN... 4 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN

More information

Viện nghiên cứu Phật học

Viện nghiên cứu Phật học Mục lục Lời nói đầu CHƯƠNG I Phần dẫn luận: Khái quát về 5 việc của Đại Thiên và phương pháp nghiên cứu CHƯƠNG II Thảo luận về những nguồn tư liệu liên quan đến Đại Thiên và 5 việc của ông 1. Vấn đề văn

More information

Microsoft Word - Duoc Su_ready for print.doc

Microsoft Word - Duoc Su_ready for print.doc Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Thiển Thích Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Lược Giảng 1 Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch Tuyên Hóa

More information

Phục hồi chức năng bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não

Phục hồi chức năng bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não Cao D ing Y te Plu'i Thp - Tlur vi?n PGS.TS. BSCC TRAN VAN CHUONG PHUC Hdl CH LfC NANG b n h n h a n l i t n u a n g u o i D O T A I B IE N M A C H M A U N A O NHA XUAT BAN Y HOC Ha Noi - 2010 PGS. TS.

More information

hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng. Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một

hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng. Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một 1 Sự hình thành và phát triển Thiền phái Trúc Lâm Thích Như Pháp Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được gắn liền với tên tuổi của Ngài, với dòng Thiền do Ngài mở lối, là một đại nhân duyên không phải tầm thường

More information

Số 76 Bản Tin Thế Đạo ngày

Số 76 Bản Tin Thế Đạo ngày Baûn Tin Theá Ñaïo Soá 76 ngaøy 19-3-2017 TIN ÚC CHÂU: Tường Trình thành lập Điện Thờ Phật Mẫu tạm tại Châu Đạo Victoria, Melbourne, Úc Châu Điện Thờ Phật Mẫu theo mô hình mẫu số 3 do Hội Thánh thiết kế

More information

2. Quê quán 3. Tên họ 4. Chức tước 5. Lão tử với Khổng tử có gặp nhau không? Khổng tử có hỏi Lão tử về lễ không? 6. Lão tử có phải là Lão Lai tử không

2. Quê quán 3. Tên họ 4. Chức tước 5. Lão tử với Khổng tử có gặp nhau không? Khổng tử có hỏi Lão tử về lễ không? 6. Lão tử có phải là Lão Lai tử không Nguyễn Hiến Lê Lão Tử Đạo Đức Kinh MỤC LỤC Vài lời thưa trước Phần I: ĐỜI SỐNG và TÁC PHẨM Chương I: Đời sống 1. Sự tích Lão tử 1 Lão Tử - Đạo Đức Kinh Nguyễn Hiến Lê www.thienquan.net 2. Quê quán 3. Tên

More information

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG DỊCH VỤ SACOMBANK EBANKING Sacombank ebanking phiên bản Ngân hàng điện tử mới Ưu việt Thân thiện An toàn Hãy trải nghiệm các chức năng nổi trội mới của Sacombank - ebanking: Cá nhân hóa

More information

Microsoft Word - VIETFAIR's EXHIBITION SCHEDULE 2018 (Vietnamese Version) - update 28.9

Microsoft Word - VIETFAIR's EXHIBITION SCHEDULE 2018 (Vietnamese Version) - update 28.9 KẾ HOẠCH HỘI CHỢ TRIỂN LÃM (CHỦ YẾU) NĂM 018 do Công ty VIETFAIR tổ chức thực hiện TẠI HÀ NỘI STT Tên Hội chợ, Triển lãm Thời gian Địa điểm tổ chức Nội dung, quy mô Đơn vị chủ trì, ủng hộ, phối hợp Ghi

More information

2015 Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES) Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gi

2015 Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES) Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gi TÀI LIỆU DỊCH TLD-11 TẦM NHÌN VÀ HÀNH ĐỘNG THÚC ĐẨY CÙNG XÂY DỰNG VÀNH ĐAI KINH TẾ CON ĐƯỜNG TƠ LỤA VÀ CON ĐƯỜNG TƠ LỤA TRÊN BIỂN THẾ KỶ XXI Cơ quan ban hành: Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia, Bộ

More information

CONG TY CP NHI/A BINH MINH CQNG HOA XA HQI CHU NGHIA VlfT NAM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DAI HQI CO DONG

CONG TY CP NHI/A BINH MINH CQNG HOA XA HQI CHU NGHIA VlfT NAM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DAI HQI CO DONG CONG TY CP NHI/ BINH MINH CQNG HO X HQI CHU NGHI VlfT NM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DI HQI CO DONG THUONG NIEN NM 2018 - Can cu Luat Doanh nghiep so 68/2014/QH13

More information

2 TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI Kỉnh nguyện hồi hướng cho âm siêu dương thới, quốc thái dân an, đạo pháp trường lưu, chánh giáo hoằng dương, vạn linh thức tỉnh h

2 TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI Kỉnh nguyện hồi hướng cho âm siêu dương thới, quốc thái dân an, đạo pháp trường lưu, chánh giáo hoằng dương, vạn linh thức tỉnh h ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ T H I Ệ N Q U A N G TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI IN LẦN THỨ NHẤT Nhà xuất bản San Martin, California, USA Vía Đức Quan Âm 19-9 Giáp Ngọ (2014) 2 TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI Kỉnh nguyện hồi hướng cho

More information

PwC 2

PwC 2 www.pwc.com/vn Sổ tay thuế Việt Nam 2016 PwC 1 PwC 2 Mục Lục Hệ Thống Thuế Tổng quan 5 Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp ( TNDN ) 7 Thuế suất Ưu đãi thuế TNDN Xác định thu nhập chịu thuế TNDN Các khoản chi không

More information

LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI

LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI - DỰ BÁO V -NHẦM LẪN GIỮA CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG VI

More information

Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp

Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp chuyên môn của mình. Chúng tôi cùng nhau chuẩn bị

More information

GU285_VNM_Cover.indd

GU285_VNM_Cover.indd GU285 Hướng dẫn Sử dụng www.lgmobile.com P/N : MMBB0353931 (1.0) ELECTRONICS INC. GU285 Hướng dẫn Sử dụng TIẾNG VIỆT 简体中文 ENGLISH Bluetooth QD ID B015843 Một số nội dung trong sách hướng dẫn này có thể

More information

2 汉语和越南语形容词的体 Trí thông minh về vận động (bodily/kinesthetic): Những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua cách vận động và sử

2 汉语和越南语形容词的体 Trí thông minh về vận động (bodily/kinesthetic): Những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua cách vận động và sử 1 汉语和越南语形容词的体 ỨNG DỤNG THUYẾT ĐA TRÍ TUỆ TRONG VIỆC GIẢNG DẠY TIẾNG TRUNG TẠI KHOA ĐÔNG PHƢƠNG ThS. Hoàng Thị Thu Thủy Bộ môn Trung Quốc học, khoa Đông phương học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

More information

Microsoft Word _09_04__DS_08__Part_1_Bai_So_00_09_Nghien_Cuu_Bien_Khao_Editing_OK.doc

Microsoft Word _09_04__DS_08__Part_1_Bai_So_00_09_Nghien_Cuu_Bien_Khao_Editing_OK.doc Một Cách Thiền Để Dưỡng Sinh Trong Thái Cực Quyền (Trích sách TẬP THÁI-CỰC DƯỠNG SINH, Let s Practice Nutri-Living TaiChi Exercises! Đỗ Quang-Vinh, Canada, 2013) Giáo Sư Đỗ Quang-Vinh 1-Thái-cực-quyền

More information

CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN

CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN CHUONG TRINH TAp HuAN Sau khi ky HQ'P dong tham gia ban hang da c~p voi Cong ty, Nha phan phoi c6 nghia vu hoan

More information

Danh Sách Mã Dự Thưởng Chương Trình Bốc Thăm May Mắn Tháng 6/2018 Mã số dự thưởng cho Khách hàng tham gia chương trình bốc thăm may mắn tháng 6/2018 L

Danh Sách Mã Dự Thưởng Chương Trình Bốc Thăm May Mắn Tháng 6/2018 Mã số dự thưởng cho Khách hàng tham gia chương trình bốc thăm may mắn tháng 6/2018 L Danh Sách Mã Dự Thưởng Chương Trình Bốc Thăm May Mắn Tháng 6/2018 Mã số dự thưởng cho Khách hàng tham gia chương trình bốc thăm may mắn tháng 6/2018 Lucky draw entries for Lucky Draw Program for cycle

More information

Microsoft Word - Sachvck1.doc

Microsoft Word - Sachvck1.doc OSHO OSHO Tín Tâm Minh Sách về Cái không HSIN HSIN MING The Book of Nothing HÀ NỘI 3/2010 @ OSHO INTERNATIONAL FOUNDATION Mục lục Tín Tâm Minh - Sách về cái không Copyright 2000 Osho International Foundation,

More information

Mục lục TỦ SÁCH PHẬT HỌC TỪ QUANG TẬP 9 Tháng 7 năm 2014 (PL. 2558) TRONG TẬP NÀY: Chánh Trí : Đại Trai đàn Chùa Xá Lợi Pháp sư Diễn Bồi : Nhơn quả củ

Mục lục TỦ SÁCH PHẬT HỌC TỪ QUANG TẬP 9 Tháng 7 năm 2014 (PL. 2558) TRONG TẬP NÀY: Chánh Trí : Đại Trai đàn Chùa Xá Lợi Pháp sư Diễn Bồi : Nhơn quả củ T Ủ SÁCH PHẬ T HỌ C - T Ừ QUANG TẬ P 9 1 Mục lục TỦ SÁCH PHẬT HỌC TỪ QUANG TẬP 9 Tháng 7 năm 2014 (PL. 2558) TRONG TẬP NÀY: Chánh Trí : Đại Trai đàn Chùa Xá Lợi Pháp sư Diễn Bồi : Nhơn quả của Phật pháp

More information

TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN Nguyễn Minh Tiến biên soạn Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sa

TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN Nguyễn Minh Tiến biên soạn Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sa TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN Nguyễn Minh Tiến biên soạn Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sao chép, trích dịch hoặc in lại mà không có sự cho phép

More information

NNT_Lich_Su_Thien_Tong_Trung_Quoc_CVCN

NNT_Lich_Su_Thien_Tong_Trung_Quoc_CVCN LỊCH SỬ THIỀN TÔNG TRUNG QUỐC Biên dịch: Nguyễn Nam Trân Dẫn Nhập Của Người Biên Dịch: Cổ nhân hình tự thú, Tâm hữu ñạo, thánh ñức. Kim nhân diện tự nhân, Thú tâm an khả trắc! (Lời người xưa) Trong tiếng

More information

SỐ 3 HUYỀN-DIỆU

SỐ 3 HUYỀN-DIỆU Hay là TAM BỬU (TẬP 01) Tây-Ninh Thánh Địa, mùa hoa Đạo nở. Ngày 01 tháng 03 Vía Đức Cao Thượng-Phẩm (Tháng 4 năm 2007) Nữ Soạn-giả NGUYÊN-THUỶ 1 Trọng giá của TAM-BỬU mà CHÍ-TÔN ưa chuộng để dâng Đại

More information

Bí quyết niệm Phật tu tâm của pháp sư Sơn Ðường

Bí quyết niệm Phật tu tâm của pháp sư Sơn Ðường NIỆM PHẬT PHÁP YẾU 念佛法要 Cư sĩ Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính sưu tập ( 惕園毛凌雲敬緝 ) Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa (theo bản in năm 2002 của Tịnh Tông Học Hội Dallas, TX) Phật Lịch 2546-2002 Lời

More information

BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve d

BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve d BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve dy an Luat Nhap canh, xuat canh, cu tru cua ngiroi nircrc

More information

Luật hải quan Việt Nam và quốc tế

Luật hải quan Việt Nam và quốc tế TRl/CSNG DAI HOC KINH TE Q U O C DAN KHOA THLfflNG MAI VA KINH TE QUOC TE' Chu bien: PGS. TS. NGUYEN THlTA LOC WIMAN (XMf; NHA XUAT BAN DAI HOC KINH TE Q UO C DAN TRLTCJNG DAI HOC KINH TE QUOC DAN KHOA

More information

Ngân hàng câu hỏi thi, kiểm tra môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

Ngân hàng câu hỏi thi, kiểm tra môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin TS. PHAM VAN SINH (Chu bien) NGAN HANG CAU HOI THI, KlfeM TRA MON NHUNG NGUYEN LY C(T BAN CUA CHU NGHIA MAC - LENIN (Dung lam tai lieu tham khao phuc vu thi, kiem tra cho cac trirang dai hoc, cao d^ng)

More information

Liêt Tử Và Dương Tử

Liêt Tử Và Dương Tử Liêt Tử Và Dương Tử Tác giả: Thể loại: Trung Hoa Website: Date: 24-October-2012 Trang 1/54 NHÂN VẬT LIỆT NGỰ KHẤU Trước hết về bản thân Liệt tử, có một số học giả còn nghi ngờ. Như Cao Tự Tôn (thế kỉ XII),

More information

Eyes of Compassion Relief Organization Ngày Nhận Check Date Tỉnh bang Province USD CAD VND Người Đóng Góp - Benefactor Chuyển tiền 16/01/2017 Transfer

Eyes of Compassion Relief Organization Ngày Nhận Check Date Tỉnh bang Province USD CAD VND Người Đóng Góp - Benefactor Chuyển tiền 16/01/2017 Transfer Eyes of Compassion Relief Organization Ngày Nhận Check Date Tỉnh bang Province USD CAD VND Người Đóng Góp - Benefactor Chuyển tiền 16/01/2017 Transfer date Rate: 22735 20-Dec-16 Phac Nguyen CA 400.00 23-Dec-16

More information

Ban đầu, con tập dùng hạnh lắng nghe, để tư duy phân biệt tốt xấu, động tĩnh Sau đó tu tập quán chiếu vào tánh nghe không phân biệt, quên hẵn tiếng ng

Ban đầu, con tập dùng hạnh lắng nghe, để tư duy phân biệt tốt xấu, động tĩnh Sau đó tu tập quán chiếu vào tánh nghe không phân biệt, quên hẵn tiếng ng Sự Giác Ngộ và Hóa độ của Bồ tát Quán Thế Âm qua Triết lý Tánh Không - Bát Nhã I-Duyên khởi: Trong nhiều bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, có nói về Bồ tát Quán Thế Âm; một vị Bồ tát luôn luôn khởi lòng

More information

The Sutra of the Past Vows of Earth Store Bodhisattva

The Sutra of the Past Vows of Earth Store Bodhisattva Câ m Nang Thiê n I: Tư Ho c Thiê n Thi ch Vi nh Ho a LƯ SƠN TƯ Lu Mountain Temple 7509 Mooney Drive Rosemead, CA 91770 USA Tel: (626) 280-8801 Xuâ t ba n lâ n thư nhâ t, ISBN 978-0-9835279-6-1 Copyright:

More information

Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai. info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ sót, có thể có, xin vui lòng gởi điệ

Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai. info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ sót, có thể có, xin vui lòng gởi điệ ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ TÒA THÁNH TÂY NINH THIÊN NHÃN THẦY Nữ Soạn Giả NGUYÊN THỦY Năm Mậu Tý 2008 Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai. info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi

More information

Microsoft Word - GKPH I net.doc

Microsoft Word - GKPH I net.doc GIÁO KHOA PHẬT HỌC cấp một Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc 1 GIÁO KHOA PHẬT HỌC Cấp Một (Sơ Cấp Phật Học Giáo Bản nguyên tác Hán ngữ của cư sĩ Phương Luân,

More information

Quy tắc mô tả tài liệu thư viện

Quy tắc mô tả tài liệu thư viện 0000023981 u EN THI KIM LOAN (Chu bien) HI HANH, LE THI NGUYET a * a a QUY TAC MO TA TAI LIEU THU5VIEN I a t NHA XUAT BAN THONG TIN VA TRUYEN THONG ThS. N G U Y E N THI KIM LO AN (Chu bien) PH A M TH I

More information

font chữ Arial Unicode MS Standard hoặc Chu Nom Minh download ở đây: (arialuni.rar, độ lớn 13MB) hoặc (taifont.zip, độ lớn 5.3MB). Nói đến Kinh dịch d

font chữ Arial Unicode MS Standard hoặc Chu Nom Minh download ở đây: (arialuni.rar, độ lớn 13MB) hoặc (taifont.zip, độ lớn 5.3MB). Nói đến Kinh dịch d Kinh dịch - Đạo của người quân tử Nguyễn Hiến L ê Mục lục Lời nói đầu Lời nói đầu của Nguyễn Hiến Lê Chương 1 : NGUỒN GỐC KINH DỊCH VÀ NỘI DUNG PHẦN KINH Chương 2 : NỘI DUNG PHẦN TRUYỆN Chương 3 : CÁC

More information

THAY LỜI GIỚI THIỆU Hồi tản cư về ở Tân Thạnh ( ) tôi được bác ba tôi, thời trẻ làm giáo sư trong Đông Kinh nghĩa thục mà cũng là rể cụ Lương Vă

THAY LỜI GIỚI THIỆU Hồi tản cư về ở Tân Thạnh ( ) tôi được bác ba tôi, thời trẻ làm giáo sư trong Đông Kinh nghĩa thục mà cũng là rể cụ Lương Vă ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC PHONG TRÀO DUY TÂN ĐẦU TIÊN Ở VIỆT NAM Tác giả: Nhà xuất bản: Văn hoá Thông tin Năm xuất bản: 2002 Đánh máy: Quantam Sửa lỗi và bổ sung: Goldfish THAY LỜI GIỚI THIỆU Hồi tản cư về

More information