Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai. info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ sót, có thể có, xin vui lòng gởi điệ

Size: px
Start display at page:

Download "Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai. info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ sót, có thể có, xin vui lòng gởi điệ"

Transcription

1 ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ TÒA THÁNH TÂY NINH THIÊN NHÃN THẦY Nữ Soạn Giả NGUYÊN THỦY Năm Mậu Tý 2008

2 Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai. info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ sót, có thể có, xin vui lòng gởi điện thư vào địa chỉ: com Thành thật tri ơn Soạn Giả Tùng Thiên Từ Bạch Hạc, Ban Phụ Trách Phổ Biến Kinh Sách Website daocaodai. info đã bỏ nhiều tâm-huyết và công sức trong việc sưu tập, biên khảo, đánh máy, in ấn hay phổ biến trên Website ngỏ hầu Giáo-Lý Đại-Đạo được phổ truyền rộng rãi, lưu lại di-sản tinh-thần vô-giá cho thế-hệ hiện tại và nhiều thế-hệ tiếp nối mai sau. California, 22/01/2013 Tầm Nguyên 2

3 Nữ Soạn Giả: NGUYÊN THỦY THIÊN NHÃN THẦY Mậu Tý

4 4

5 Mục Lục LỜI NÓI ĐẦU CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT Thiên Nhãn vẽ lên Quả Càn Khôn: Quả CÀN KHÔN qua các giai đoạn thay đổi: Lễ an vị quả Càn Khôn: Câu chuyện quanh Quả Càn Khôn: LUẬN ĐẠO: CHƯƠNG II A- THIÊN NHÃN 天眼 35 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI Bát Quái là gì? Đức Chí-Tôn mở Đạo Cao Đài để cứu nhân loại: 50 3 Nguyên-nhân Đạo Cao-Đài thờ Thánh Tượng Thiên-Nhãn Huyền-diệu là được thấy hiện Thiên Nhãn: Ý nghĩa thờ Thiên Nhãn C- Phần Luận Đạo Thiên Nhãn: thần Thiên lương của nhơn loại Chơn Pháp của Đức Chí Tôn Chữ NHÃN 眼 Trong THIÊN NHÃN Dâng Tam Bửu lên Đức Chí-Tôn: Vương Đạo là gì? Khi cúng Tứ thời: Luận về triết:

6 CHƯƠNG III: Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh Thiên Nhãn Nơi Phi Tưởng Đài: Trấn Thần Trước Nhất Quả Càn Khôn Thờ Nơi Bát Quái Đài: Các Thiên Nhãn chung quanh Đền: Giới thiệu hình ảnh: Ý nghĩa của Sen và các con số: Thiên Nhãn đặt bên trong Thông Thiên Đài I. Cơ-Quan Quản-Trị Càn-Khôn Vũ-Trụ II- Cơ Sanh Biến Vạn-Linh Thờ Thánh Tượng Thầy tại tư gia PHỤ CHƯƠNG A Ý-nghĩa Chữ Đạo 道 12 nét B Thiên Nhãn trên áo Mão Chức sắc là nghĩa gì? C BA SỐ NGŨ: THIÊN NHÂN ĐỊA VỀ THIÊN: Tượng Ngũ Khí VỀ NHÂN: Tượng ngũ Tạng VỀ ĐỊA: Tượng Ngũ Hành

7 Tòa Thánh Tây Ninh 7

8 8

9 Tây Ninh Thánh địa, mùa Hội-Yến. Mùa Thu năm Mậu-Tý (dl: ) Nữ Soạn giả: Nguyên-Thuỷ 9

10 LỜI NÓI ĐẦU 10

11 LỜI NÓI ĐẦU ĐẠO CAO ĐÀI Thầy dạy THỜ THIÊN NHÃN Đức Hộ-Pháp có lời rằng: Hễ có kiến thì có thức, kiến thức là căn bổn của trí thức tinh thần. Muốn kiến thì nhờ Nhãn, muốn thức thì nhờ Trí. Ấy vậy, trong tâm (gọi là linh tâm hay chơn linh) là Thiên Nhãn của trí thức loài người. Vì cớ mà Đại Từ Phụ dạy THỜ THIÊN NHÃN. Thiên Nhãn là hình trạng của lương tâm toàn thể làm nền móng cho Cao Đài, nghĩa là Đền thờ cao trọng hay là Đức tin lớn của Chí Tôn tại thế nầy, y như hai câu thi của Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm (Victor-Hugo): L oeil mystique seul verra la religion nouvelle, La grande foi gite dans la conscience universelle. Dịch nghĩa: Có Thiên Nhãn mới tường Chánh giáo, Tín Cao Đài do Đạo lương tâm. Thờ Thiên Nhãn là thờ tánh mạng mình và Chí Tôn, nghĩa là thờ lương-tâm của toàn thiên hạ (Le culte de la conscience)... Trong cửa Đạo đặt ra điều chi đều là hữu ích tất cả, mượn Thể pháp tượng trưng mới đoạt Bí-pháp. Huyền vi mầu nhiệm của Đạo có Bí-pháp cũng như Đời có Luật pháp. Xin trân trọng gởi đến quí đồng Đạo bốn phương đề tài THIÊN NHÃN THẦY để làm quà tinh thần. Đây là tập tài liệu được góp nhặt từ các bài viết của các bậc 11

12 LỜI NÓI ĐẦU tiền bối và tiền hiền trong cửa Đạo. Vì tinh thần tìm hiểu chung để rộng việc phổ biến trong cửa Đạo. Xin miễn chấp. Nữ Soạn-giả NGUYÊN THUỶ 12

13 CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT Khái niệm tổng quát về Quả Càn Khôn 1 Thiên Nhãn vẽ lên Quả Càn Khôn 2 Quả Càn Khôn qua các giai đọan thay đổi 3 Lễ an vị Quả Càn Khôn 4 Câu chuyện quanh quả Càn Khôn 5 Luận Đạo Nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ mà Đức Thượng Đế đến khai sáng nơi nước Việt-Nam này, điều đặc biệt là Đức Thượng-Đế không mượn xác phàm của người Việt Nam để lập nền Đại-Đạo, khác biệt với các Tôn giáo trước kia là: Đạo Phật xúât từ Ấn, mượn hình thể Sĩ-Đạt-Ta, Đạo Thánh Da-Tô mượn hình thể Chúa Jésus, Nay, Đức Chí-Tôn chỉ dùng THIÊN NHÃN THẦY (Con Mắt) đặt trên Quả Càn Khôn làm biểu tượng thờ Đấng Thượng Đế Chúa tể Càn Khôn vũ trụ này. Mục đích của Đạo Cao Đài là đi đến Đại-Đồng. QUẢ CÀN KHÔN E: The heavenly globe F: Le globe céleste (Quả hay là trái, Càn Khôn là hai quẻ trong Bát Quái: CÀN là trời, KHÔN là đất). Quả Càn Khôn còn gọi là Trái Càn Khôn, là biểu tượng một quả cầu tròn tượng trưng vũ trụ để thờ Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, chính Ngài đã đến ban cho một mối Đạo nhà, danh gọi là Đại 13

14 CHƯƠNG I:KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, là nền Đạo phát xúât từ Việt Nam. Quả Càn Khôn tượng trưng Càn Khôn Vũ-Trụ của Ðức Chí Tôn, gồm 3072 ngôi sao. Ngôi sao Bắc Ðẩu ở tại Trung Tâm của Càn Khôn Vũ-Trụ này là nơi Ðức Chí Tôn ngự. Thế nên, Ðức Chí Tôn bảo vẽ Thiên Nhãn trên ngôi sao Bắc Ðẩu là vậy. Sao Bắc đẩu là gì? BẮC ĐẨU 北斗 E: The polar star F: L étole polaire Bắc Đẩu, có hai nghĩa chánh: 1 Là Ông Tiên coi bộ sổ tử (sổ người chết) của con người ở trần gian (còn gọi là Nam Tào Bắc Đẩu). 2 Là Sao Bắc Đẩu (Étoile polaire) là vì sao lớn ở thẳng về miền Bắc cực. Kế bên sao Bắc Đẩu có hai chòm sao (mỗi chòm 7 cái) gọi là hai bánh lái (Grande Ourse et Petite Ourse). Hai chòm sao nầy hình như chầu sao Bắc Đẩu, cho nên trong Luận Ngữ có câu: Vi chánh dĩ đức thí như Bắc Đẩu cư kỳ sở nhi chúng Tinh cung chi (Lấy đức làm chánh, tỷ như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các vì sao khác đều chầu về). Bắc Đẩu là ngôi sao sáng ở hướng Bắc, nằm đúng trên trục quay của Ðịa cầu, nên còn được gọi là sao Bắc-Cực. Sao Bắc Đẩu là một Định tinh, các ngôi sao khác thì chuyển động quanh sao Bắc Đẩu, cho nên sao Bắc Đẩu là trung tâm của Càn Khôn Vũ-trụ. Do đó, Ðức Chí Tôn bảo vẽ Thiên Nhãn ngay trên ngôi sao Bắc Đẩu là lý do ấy. Sao Bắc Đẩu nằm trong chùm sao Thất Tinh, gồm 7 ngôi sao, mà Thiên-văn-học gọi là Tiểu Hùng 14

15 Tinh. Chùm sao Thất Tinh có hình cái bánh lái tàu, sao Bắc Đẩu là ngôi sao ở đầu cán bánh lái. Sao Bắc Đẩu là một ngôi sao nằm ngay hướng Bắc của trục Ðịa cầu. Bắc Ðẩu là một Định tinh, dùng để định chính xác hướng Bắc của Ðịa cầu này. Vốn là ngôi của Thượng Đế khi Ngài ngự cõi phàm trần. Cũng vì thế mà hướng Bắc rất quí trọng, bao nhiêu điển quang linh-diệu đều do từ hướng ấy phát ra. Nhà tu sĩ mỗi lần ngủ đều day đầu về hướng Bắc đặng tiếp linh điển. Bực thường nhơn lạy Trời cũng day về hướng Bắc. Bầy tôi trông vua đều day mặt về hướng ấy, là Bắc diện vì vua là Thiên Tử. Muốn tìm sao Bắc Ðẩu thì phải tìm hai chùm sao Bánh lái (vì nó giống như cái bánh lái thuyền). Chùm sao bánh lái lớn gọi là Ðại Hùng Tinh, chùm sao bánh lái nhỏ là Tiểu Hùng Tinh. Ngôi Bắc Ðẩu tại cái đầu của chùm sao bánh lái nhỏ. Ở Miền Nam Việt-Nam khó nhìn thấy sao Bắc Ðẩu hơn miền Bắc Việt-Nam, vì ngôi sao Bắc Ðẩu nằm gần sát chơn trời, nên thường bị cây cối che khuất. Vị trí của ngôi sao Bắc Ðẩu ở chừng 10 độ so với đường nằm ngang. Sao Bắc Ðẩu để định hướng Bắc: Trước hết chúng ta phải tìm chùm sao Ðại Hùng tinh (Chùm sao Gấu lớn: Grande Ourse) gồm 7 ngôi sao khá sáng xếp theo hình bánh lái, dễ nhìn thấy trên bầu Trời về đêm, hoặc tìm chùm sao Thiên Hậu gồm 5 ngôi sao xếp đặt theo hình chữ M rồi mới tìm chùm sao Tiểu Hùng tinh là Chùm sao Gấu nhỏ (Petite Ourse). Chùm sao Gấu nhỏ có 7 ngôi sao, nên được gọi là Thất Tinh, sao Bắc Ðẩu nằm trên đầu cán của chùm Thất Tinh nầy. Trên Quả Càn Khôn thờ nơi Bát Quái Đài của Đền Thánh Toà Thánh Tây Ninh, Ðức Chí Tôn bảo vẽ Thiên 15

16 CHƯƠNG I:KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT Nhãn ngay phía trên sao Bắc Ðẩu THIÊN NHÃN VẼ LÊN QUẢ CÀN KHÔN: Ngày 12-8-Bính Dần (dl: ) tức là trước ngày Đại Lễ Khai Đạo Bính Dần (dl: ) một khoảng thời gian gần hai tháng, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Ngài Phối Sư Thái-Bính-Thanh làm một Quả Càn Khôn để thờ Đức Chí Tôn nơi Bát Quái Đài, lời dạy rằng: Bính! Thầy giao cho con lo một Trái Càn Khôn, con hiểu nghĩa gì không? Cười. Một trái như trái đất tròn quay, hiểu không? Bề kính tâm ba thước ba tấc (3m30) nghe con! Lớn quá, mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm Tạo Hóa trong ấy, mà sơn màu xanh da trời, cung Bắc Đẩu và Tinh tú vẽ lên Càn Khôn ấy. Thầy kể Tam thập lục Thiên, Tứ Đại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú, còn lại Thất Thập nhị Địa và Tam Thiên Thế giới thì đều là Tinh tú. Tính lại 3072 ngôi sao. Con phải biểu vẽ lên đó cho đủ. Con giở sách Thiên văn Tây ra coi mà bắt chước. Tại ngôi Bắc Đẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Đẩu cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc Đẩu, vẽ Con Mắt Thầy, hiểu chăng?... Đáng lẽ trái ấy phải bằng chai đúc, trong một ngọn đèn cho nó thường sáng. Ấy là lời cầu nguyện rất quí báu cho cả nhơn loại Càn Khôn Thế giới đó, nhưng mà làm chẳng kịp thì con tùy tiện, làm thế nào cho kịp Đại hội, nghe à! (TNHT. I. 45) Bài Thánh Ngôn nầy có trong ÐS. II./232, chỗ nhiều chấm gần cuối bài là đoạn Thánh Ngôn sau, xin bổ sung: Thơ! Nghe dạy: Thầy giao trọn quyền cho con lo liệu. Con phải nhớ, khi Bính đem Trái Càn Khôn ấy về, con làm một cái cốt xây, để Trái ấy lên Ðại điện, nhớ day Con Mắt

17 1 Thiên Nhãn vẽ lên Quả Càn Khôn ra ngoài, rồi con lại lên tượng Phật Thích Ca, Lão Tử và Khổng Tử, mà đặt dựa dưới, kế ba vị ấy thì là: Quan Thế Âm, Thái Bạch, Quan Thánh Ðế; kế nữa, ngay dưới Lý Thái Bạch thì là Jésus de Nazareth, kế Jésus thì là Khương Thượng Tử Nha, còn chư Phật, chư Tiên, Thánh, Thần, đã lên cốt thì để dài theo dưới, hiểu không con? Lời dạy trên chỉ có thờ hình tượng các Đấng tại Từ Lâm-Tự trong buổi đầu. Ngay sau khi dời về Chùa Mới tức là Đền Thánh bây giờ thì chỉ thờ một thời gian, sau khi bị đập phá thì những tượng này được sửa lại và thờ riêng một chỗ gọi là Cực Lạc cảnh. Riêng nơi tư gia thì nhơn sanh thờ Thánh Tượng Ngũ Chi tuy có vài sự thay đổi hình thức khác do Hội-Thánh dạy truyền.. Xem như thế, Quả Càn Khôn nầy chính là một Thiên cầu tượng trưng cho Càn Khôn Vũ Trụ hữu hình của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, lại được đặt trên Bát Quái Đài để thờ, nên biểu thị rõ rệt Triết lý về Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài. Càn Khôn Vũ Trụ của Đức Chí Tôn gồm có hai phần: Phần hữu hình và Phần vô hình. Phần hữu hình: là phần nhìn thấy được bằng mắt: Tam Thiên Thế giới, tức là 3000 quả tinh cầu nhìn thấy như những ngôi sao trên bầu Trời, được vẽ tượng trưng bằng 3000 ngôi sao trên Quả Càn Khôn. Thất Thập Nhị Địa, tức là 72 quả Địa cầu, cũng được nhìn thấy như những vì sao trên bầu Trời, nên cũng được vẽ tượng trưng bằng 72 ngôi sao trên Quả Càn Khôn. Tổng cộng tất cả là 3072 ngôi sao, phải vẽ cho đủ số trên Quả Càn Khôn ấy. Trong số 3072 ngôi sao nầy có 17

18 CHƯƠNG I:KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT chòm sao Bắc Đẩu với Đại Hùng Tinh (Chòm sao Gấu lớn) và Tiểu Hùng Tinh (Chòm sao Gấu nhỏ), mỗi chòm có 7 ngôi sao (Thất Tinh), có hình giống như cái bánh lái thuyền, nên cũng gọi là Chòm sao Bánh lái. Đức Chí Tôn bảo vẽ Con Mắt Thầy ngay trên ngôi sao Bắc Đẩu, tức nhiên Đức Chí Tôn ngự tại sao Bắc Đẩu, nên sao Bắc Đẩu chính là Trung tâm của Càn khôn Vũ trụ của Đức Chí Tôn. Các vì sao khác đều chuyển động chung quanh ngôi sao Bắc Đẩu, giống như Địa cầu của chúng ta, tuy chuyển động chung quanh Mặt Trời, nhưng trục tự quay của Địa cầu luôn luôn hướng về ngôi sao Bắc Đẩu. Như vậy, Càn Khôn Vũ Trụ của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế gồm 3072 ngôi sao chỉ là một phần tử nhỏ trong một khoảng không gian bao la vô cùng tận, có đến hàng tỷ ngôi sao mà các nhà Thiên văn học hiện nay đã khám phá và nhìn thấy được trên bầu Trời. Ngọn đèn đặt tại Tâm của Quả Càn Khôn tượng trưng ngôi Thái Cực, mượn làm Thái cực đăng. * Phần vô hình: Ngoài phần Vũ trụ hữu hình mà mắt phàm nhìn thấy được, Càn Khôn Vũ Trụ của Đức Chí Tôn còn có phần Vô hình mà mắt phàm không thấy được, chỉ có Huệ Nhãn thì mới có thể thấy. Theo bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn nêu trên và những bài Thánh giáo khác ta biết được phần Càn Khôn Vũ trụ vô hình gồm: Tam Thập Lục Thiên: 36 từng Trời. Thập Nhị Thiên: 12 từng Trời nối tiếp ở bên dưới Tam thập lục Thiên, chia ra: + Phần trên 3 từng là: Hỗn Nguơn Thiên, Hội Nguơn Thiên, Hư Vô Thiên. 18

19 2 Quả CÀN KHÔN qua các giai đoạn thay đổi + Phần kế dưới là 9 từng gọi là Cửu Trùng Thiên. * Phần Thực hiện: Đáng lý Quả Càn Khôn nầy phải được làm bằng thủy tinh trong suốt, nhưng vì thời gian quá ngắn nên không thể thực hiện được, mà cũng quá lớn, đường kính 3 thước 3 tấc. Ngài Phối Sư Thái Bính Thanh phải làm Quả Càn Khôn bằng nan tre, bọc vải và sơn màu xanh da Trời, trên đó vẽ các ngôi sao đúng số như Đức Chí Tôn đã dạy, làm gấp rút cho kịp ngày Bính Dần (dl: ) chuẩn bị tổ chức Lễ Khai Đạo tại Thánh Thất tạm đặt tại Chùa Gò-Kén Tây-Ninh. Chỉ có Tòa-Thánh Tây-Ninh mới được làm Quả Càn Khôn để thờ nơi Bát Quái Đài, còn tại các Thánh Thất địa phương chỉ được đắp Thiên Nhãn lớn để thờ mà thôi. Như vậy, Quả Càn Khôn thờ nơi Bát-Quái-Đài Tòa-Thánh là hình ảnh của Càn Khôn Vũ trụ, của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, nó có dạng hình như một quả cầu tròn, trong đó có 3072 ngôi sao, mà tâm điểm là Thái Cực. Quả Địa Cầu của nhơn loại chúng ta đang ở là Địa cầu số 68 trong số Thất thập nhị Địa (72 Địa cầu), nên được tượng trưng bằng những ngôi sao trên Quả Càn Khôn nầy. 2 QUẢ CÀN KHÔN QUA CÁC GIAI ĐOẠN THAY ĐỔI: Quả Càn Khôn đầu tiên do Ngài Phối Sư Thái Bính Thanh làm ra theo sự chỉ dạy của Ðức Chí Tôn vào ngày 12-8-Bính Dần (dl: ). Quả Càn Khôn nầy làm bằng nan tre bọc vải, sơn màu xanh da trời. Khi trả chùa Gò Kén cho Hòa Thượng Như Nhãn, Hội Thánh cất Tòa Thánh tạm nơi đất mới mua ở làng Long Thành, Quả Càn Khôn nầy được rước về Đền Thánh gọi là Chùa mới để thờ nơi Bát Quái Ðài. Ðó là vào đầu 19

20 CHƯƠNG I:KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT năm Ðinh Mão (1927). 20 Khi được di dời Đức Lý dạy: Bính Thanh! Hình Phật Thích Ca trước Hiệp Thiên Đài đó, phải làm thế nào cho đừng hư gãy, vì Chí Tôn đã trấn Thần chính nơi tay Người nghe. Quả Càn Khôn cũng vậy, khi tháo ra rồi ráp lại y như vậy; khi tháo ra phải cầu Lão đưa Thần một đỗi, rồi mới đặt tay người vào, nghe à! Dặn đến Thánh Thất mới, phải cầu Chí-Tôn trấn Thần lại nữa. Quả Càn Khôn bị cháy vào năm Thân (1932): Ðầu Xuân Nhâm-Thân (1932), tối mùng 8 tháng giêng, chuẩn bị đến giờ Tý cúng Ðại lễ Ðức Chí Tôn, làm Quả Càn Khôn bị bắt lửa cháy, nhưng Quả Càn Khôn đã bị cháy hết hơn hai phần, còn một phần bên phía Thiên Nhãn thì không cháy, nên Thiên-Nhãn vẫn còn nguyên. Ðược biết Thiên Nhãn nầy do Ðức Chí Tôn nhập Thần vào Ðức Cao Thượng Phẩm mà vẽ nên. Ðức Hộ Pháp nói với Ðức Quyền Giáo Tông: Thiên Nhãn còn tức là Ðạo còn, là Trời còn nhưng đời phải bị nhiều tai biến nguy hiểm đất lở tang thương biến. Nhắc lại đầu xuân ngày 9 tháng Giêng năm Nhâm Thân (1932) sắp Đại Lễ Đức Chí Tôn nên vào buổi chiều tối ngày 8 có đốt bên trong lòng Quả Càn Khôn một ngọn đèn manchon cho có ánh sáng. Do hai vị chăm sóc là Hồ Văn Lầu và Nguyễn Văn Biện. Lối 9 giờ đèn phựt dầu phát cháy Quả Càn Khôn. Nhờ ông Văn-Thắng-Trà (sau nầy là Lễ sanh Phái Thượng) dập tắt được ngọn lửa. Quả Càn Khôn bị cháy chỉ còn 1/3 phía Thiên Nhãn thôi. Đến sáng ra thì Anh Cả Quyền-Giáo-Tông mới qua hỏi Đức Hộ Pháp:

21 2 Quả CÀN KHÔN qua các giai đoạn thay đổi Quả Càn Khôn bị cháy Hộ Pháp nghĩ sao? Đức Hộ Pháp nói: Quả Càn Khôn bị cháy mà Thiên Nhãn còn, tức là Đạo còn, nhưng đời phải tận. Sau vụ cháy Quả Càn Khôn rồi thì Đức Chí Tôn có giáng cơ cho một bài thơ sau. THI Chẳng phải Tây Ninh chịu nạn nghèo, Cuộc đời luân chuyển thế cheo leo. Trời còn đất lỡ tang thương biến, Ruộng rẫy phố phường lộ mốc meo. Sắc tướng âm thinh tua giảm bớt, Mở đường công quả chúng làm theo. Văn chương đâu rõ thông cùng lý, Tận thế hưng vong đã thấy vèo. Trong thời gian Hội Thánh xây cất Tòa Thánh bằng vật liệu kiên cố; Tòa-Thánh tạm bằng cây ván thuở trước phải dỡ ra, Qủa Càn Khôn được Hội Thánh dời đến thờ tạm tại Báo Ân Từ. Năm Tân-Tỵ (1941), nhà cầm quyền Pháp vào Tòa Thánh bắt Ðức Hộ Pháp ngày Nội-Ô bị quân đội Pháp chiếm đóng, Báo Ân Từ bị chúng dùng làm Câu Lạc Bộ, Quả Càn Khôn bị lính Pháp đập phá, lấy Thiên Nhãn liệng ra ngoài sân. Người Ðạo nhìn thấy cảnh ấy rất đau lòng và phẫn uất, chờ khi bọn chúng không để ý, liền lượm Thiên Nhãn đem cất kín dành sau nầy làm lại Quả Càn Khôn khác. Khi Ðại Chiến thế giới bùng nổ, quân đội Pháp ở Việt Nam bị Nhựt bổn đảo chánh đầu hàng, lính Pháp 21

22 CHƯƠNG I:KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT chiếm đóng tại Toà Thánh Tây Ninh đã rút lui, Hội Thánh phục hồi, bổn đạo qui tụ về, lo sửa chữa những chỗ hư hỏng và nhứt là lo làm Quả Càn Khôn mới, để tái lập sự thờ phượng. Khi ấy Hội Thánh vẫn lấy Thiên Nhãn cũ gắn lên Qủa Càn Khôn mới, vì nhận thấy đã hai lần, Qủa Càn Khôn hư nhưng Thiên Nhãn vẫn không hư. Ðó là sự mầu nhiệm mà Chí Tôn đã đặt vào Thiên Nhãn, tất cả mọi người đều phải nhìn nhận như thế. Qủa Càn Khôn mới được làm xong và đặt vào vị trí cũ nơi Báo Ân Từ. Sự thờ phượng Ðức Chí Tôn nơi đây được tái lập như trước. Ngày 4-8-Bính Tuất (dl: ), chánh quyền Pháp đưa Ðức Hộ Pháp trở về Toà Thánh Tây Ninh. Sau lễ đón tiếp của Hội Thánh, Ðức Hộ Pháp tái thủ quyền hành, tái lập các cơ quan của Ðạo, đồng thời lo xây dựng, sửa chữa, trang trí Tòa-Thánh, làm gấp rút ngày đêm để hoàn thành trước Tết năm Ðinh Hợi (1947). Nhờ sự nỗ lực của tất cả nhân viên công quả và của Hội Thánh, Đền Thánh được hoàn thành đúng sự dự định. Ngày mùng 8 tháng Giêng năm Ðinh-Hợi (dl: ) Ðức Hộ Pháp làm Lễ rước Quả Càn Khôn từ Báo-Ân-Từ đến thờ nơi Bát Quái Đài của Đền Thánh mới xây, chuẩn bị đến giờ Tý ngày mùng 9-giêng-Ðinh Hợi là khởi Ðại Lễ cúng Ðức Chí-Tôn. Quả Càn Khôn nầy dần dần theo thời gian cũng hư hỏng, Hội Thánh phải lo làm một Qủa Càn Khôn khác để thay thế. Một sự linh thiêng ngoài sức tưởng tượng của mọi người cũng là sự thanh lọc của Thượng đế. Sau khi đặt Quả Càn Khôn cũ xuống, cả thế giới và trong Đạo đều chấn động. Trong Đạo xảy ra nhiều rối rắm, gây bất hòa giữa người Đạo với nhau. Đến nỗi, Đức Lý giáng cơ quở 22

23 3 Lễ an vị quả Càn Khôn trách và ngưng việc cầu phong, cầu thăng. Ngoài đời có nhiều thay đổi, như cuộc đảo chánh của Hội Đồng tướng lĩnh Việt-Nam Cộng-Hòa, vụ mưu sát Tổng thống Mỹ Kennedy (1961). Nhà Vua Thái Lan gặp nhiều khó khăn và nhiều biến chuyển khác trên toàn thế giới. Ngày Quí Mão ( ) Hội Thánh tổ chức Lễ Khánh Thành Qủa Càn Khôn mới, Ngài Hiến Pháp có đọc một bài thuyết Đạo, nhắc lại sự tích Qủa Càn Khôn, xin trích một đoạn (Hiến pháp HTĐ trang 11, 12). Thể theo Thánh ý của Ðức Chí Tôn, chư Chức sắc hiệp sức kiến tạo Quả Càn Khôn đầu tiên đặt lên một trụ cốt nơi Bát Quái Đài để cho toàn Đạo sùng bái và chiêm ngưỡng (thời điểm tại Từ Lâm Tự).. Về sau rủi ro, Quả Càn Khôn ấy phát hỏa (vận Bĩ) cháy tiêu hết, duy có Thiên Nhãn thì còn nguyên Hội Thánh quyết định tạo một quả Càn Khôn khác và đồng ý đặt Thiên Nhãn cũ lên Quả Càn Khôn. Vì sự linh thiêng ấy mà toàn đạo càng thêm tin tưởng và đến khi tu tạo lại Quả Càn Khôn khác, tất cả đều quyết định đặt Thiên Nhãn cũ ấy lên Quả Càn Khôn mới. Ðến nay, Quả Càn Khôn sau cũng vì thời gian mà hư hoại. Hội Thánh quyết định kiến tạo một Quả Càn Khôn khác thay thế. Hội Thánh cũng đồng thanh biểu quyết dành lại Thiên Nhãn cũ đặt lên Quả Càn Khôn mới ngày nay. Ðó là do lòng tín ngưỡng cao cả của toàn Đạo, không ai có quyền phủ nhận. 3 LỄ AN VỊ QUẢ CÀN KHÔN: Ngày 06 tháng Giêng Đinh-Hợi (1947) lễ rước Quả Càn Khôn tạm thờ nơi Báo Ân Từ về Đền Thánh. Đức Hộ Pháp hành pháp trấn Thần An Vị. Khi đến Ngai Hộ 23

24 CHƯƠNG I:KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, Đức Ngài thuyết minh: tiên tri ngày về của người đứng đầu chi Thế, rằng: E sau nầy Hộ Pháp xuất ngoại, Thượng Sanh về ngự nơi đuôi (ngôi Thượng Sanh trên đuôi Thất đầu xà), thì thất tình lục dục tự do dấy động, cái loạn không phương kềm chế Ngày Hộ Pháp trấn lại trên Ngai, mới êm tịnh Đạo Đời, lập lại tháng Thuấn, ngày Nghiêu, hưởng thuần phong mỹ tục. Lễ rước QỦA CÀN KHÔN Đức Hộ-Pháp nói: Ngày nay đã dời Quả Càn Khôn về Ðền Thánh, Ðức Chí Tôn đã ngự nơi ngai của Ngài, chúng ta nên mừng cho nhơn loại được ảnh hưởng nơi Ðền-Thánh nầy mà tiến hóa mãi lên. Ðền Thánh kể từ đây không còn ai xem nó là vôi, cát, xi măng nữa, mà là một khối đức tin đã tượng nên hình vậy. Nhờ những bàn tay khéo léo của mấy em, mấy con, thợ hồ, thợ mộc đã chịu đói rách khổ cực hơn mười năm trường mới dày công đào tạo nên. Từ đây một sắc dân nào có đủ đức tin nơi Chí Tôn là Chúa Tể vạn loại thì dầu ở phương trời nào, họ sẽ hướng về Ðền Thánh mà cầu nguyện hàng ngày hàng giờ để mong hưởng phước lành của Ngài. Ðền Thánh làm xong, nền Ðạo đã vững vàng, chúng ta sẽ dẹp lần cái bạo tàn của đời để dìu dắt nhơn loại đi vào con đường gầy dựng lại trật tự hòa bình cho cái năng lực Nhơn Nghĩa, chúng ta sẽ đem hạnh phúc lại cho thiên hạ trong buổi chuyển thế nầy. Chúng ta nên mừng vì nhơn loại sẽ nhờ khối đức tin của chúng ta mà hưởng ân huệ của Ðấng Chí Tôn. Bần Ðạo nhắc lại, Ðức Chí Tôn đã hứa với con cái của Ngài những gì ngày nay chúng ta đã thấy, Ngài cho chúng ta theo lời hứa, Bần Ðạo đứng tại tòa giảng đây chứng chắc như thế, bởi những công nghiệp phi thường 24

25 4 Câu chuyện quanh Quả Càn Khôn tạo thành trong thời gian qua để làm bằng chứng. Vì quốc dân Việt Nam ta còn kém đức tin nơi Ngài, nên cơ quan cứu khổ để giải thoát cái ách nặng nề của chúng ta phải còn muộn màng đến ngày nay, mà trước mắt chúng ta còn thấy cái thảm trạng tương tàn tương sát rất đau đớn thương tâm, phải chi quốc dân ta thử cầu nguyện đi, rồi coi Ðức Chí Tôn sẽ cho chúng ta y như lời hứa không? (Thuyết Ðạo Q I / tr25) 4 CÂU CHUYỆN QUANH QUẢ CÀN KHÔN: Khoảng năm 1935, Đức Hộ Pháp bảo anh em Phạm Môn tháo ba căn nhà mà Ngài đã ra lịnh làm là: Dưỡng Lão, Sở Nữ công nghệ và Sở Phạm-Môn Trường Hòa, ba nhà ấy kích thước như nhau, đem về ráp ba căn ấy lại thành một dãy để thờ Chức sắc là BÁO-ÂN-TỪ bây giờ. Đấy có phải giờ phút này Qui Tam không? Tức nhiên ba mà một là vậy. Trước khi khởi công xây cất Đền Thánh, phải dời Quả Càn Khôn về thờ tạm tại Báo Ân Từ này; rồi mới phá dở cây, lá, tranh, của Đền Thánh cũ (có Quả Càn Khôn do ông Bính làm lần đầu tiên thờ nơi đây). Vì sơ ý không tính trước, hay đã tính trước rồi mà quên phần nầy hay là do Thiên ý chăng? Khi đem Quả Càn Khôn vào cửa Báo-Ân-Từ vô không lọt, vì bề ngang cửa nhỏ hơn Quả Càn Khôn (nếu biết là đã tháo cửa rồi). Túng thế đành ép dẹp lại méo như quả trứng mới vào được cửa. Đứng trước cảnh này Đức Hộ Pháp khóc và nói: Rồi đây Phước Thiện sẽ khổ. 25

26 CHƯƠNG I:KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT Kế đến Đức Hộ Pháp bị bắt đày sang Madagascar. Pháp chiếm lấy Tòa Thánh, lấy Báo Ân Từ làm nhà ăn tập thể, chúng đập phá Quả Càn Khôn rồi quăng ra ngoài. Sau khi Quả Càn Khôn thành từng mảnh vụn người ta thấy Thiên Nhãn vẫn còn nguyên; còn cốt Tượng Tam Giáo, Tam Trấn, Ngũ Chi chúng đập phá ném ra sân; ông Thơ đem về Cực Lạc Cảnh sửa đắp lại thờ cho còn tới bây giờ. Thiên Nhãn còn: ông Thơ mướn người làm lại Quả Càn Khôn bằng thiếc. Khi Đức Hộ Pháp hồi loan, Quả Càn Khôn do ông Thơ tạo được di vào thờ nơi Đền Thánh. Biến lọan năm : Thời kỳ của Đức Thượng Sanh và Bảo Thế, lúc này cũng là lần thay đổi lịch sử: Ông Phối sư Ngọc-Hoài-Thanh được Ngô Đình Diệm mua chuộc với một giá tiền rất đắc để hạ Quả Càn Khôn của ông Thơ xuống và dựng Quả Càn Khôn của ông Hoài lên (bên trong quả Càn Khôn của ông Hoài làm là Cây Thánh Giá). Dựng Quả Càn Khôn của ông Hoài có nghĩa là dựng Cây Thánh Giá lên; thay đổi Quả Càn Khôn là cái cớ để che mắt Tín-đồ, Chức-sắc cho khỏi sinh loạn. Ông Bảo Thế và ông Hoài cho mời ông thợ hàn ở cửa số 2 là ông Giáo Hữu Thượng-Tửu-Thanh đến Đền Thánh đục khoan hàn lại chân trụ để thượng cây Thánh Giá bên trong. Ấy là chủ mưu của Ngô Đình Diệm, nhưng việc ấy không thành. Khi hay tin đục khoan chân trụ, Bà Chánh Phối Sư Hương Nhiều (Bà Tám, bạn đời của Ngài Phạm Công Tắc) lên Đền-Thánh để quan sát. Lúc đó thợ đã khoan gần tới nơi mà Đức Hộ Pháp đã trấn ếm khi xưa. Bà biết nơi mà Đức Hộ-Pháp đã hành pháp trấn; Bà nói: Thiêng liêng mầu nhiệm, khiến như vậy, nó khoan 26

27 4 Câu chuyện quanh Quả Càn Khôn không tới, chỉ còn một chút xíu nữa là tới rồi. Bà sợ e khi khoan phải chạm đến nơi mà Đức Hộ Pháp đã trấn thì không biết nguy hại dường nào, mà điều gì xảy ra cho Đạo không lường trước được. Vì lúc Đức Hộ-Pháp trấn; Ngài có bảo ông thợ bạc người Phước Thiện quê ở Phú Mỹ làm một cây gươm bằng vàng. Ngài trấn đó: Đức Hộ Pháp kêu Chức sắc từ phẩm Giáo-Hữu đổ lên đến dự chứng cuộc hành pháp trấn ếm chân trụ Quả Càn Khôn, cũng nơi đây sau khi trấn ếm xong, Ngài tuyên bố: Sau này, nơi đây, nếu có hư hoại và mất đi, thì những người có mặt hôm nay phải chịu tội trước Thiêng liêng. Lòng người đâu qua được Thiêng liêng; Trời đâu để cho thực hiện được. Kết quả: Ngày : Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ và chết bi thảm trước họng súng đại bác, y như lời tuyên thệ hứa với Đức Hộ Pháp khi Đức Hộ Pháp đứng ngay tại bàn thờ có cờ Tổ Quốc. (Ngô Đình Diệm làm lễ tuyên thệ trước Bàn thờ Tổ quốc có Đức Ngài chứng). Ông Hoài cũng chết trước, khi mưu đồ chưa làm được. Cây Thánh-Giá không được để trong Quả Càn Khôn, vì ông Hoài chết, mọi sự không theo đúng kế hoạch. Quả Càn Khôn không có cây Thánh Giá được dựng lên là Quả Càn Khôn thờ hiện nay đó vậy. Quả Càn-Khôn đầu tiên là do Ông Bính làm bằng giấy, vải cứng, những người Pháp họ xé nát tan tành, nhưng còn lại Thiên-Nhãn. Quả Càn-Khôn thứ hai: Ông Thơ làm lại bằng thiếc và lấy Thiên-Nhãn còn lại đắp vào. Quả Càn-Khôn thứ ba, Ông Hoài làm bằng chai 27

28 CHƯƠNG I:KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT bên trong đặt cây Thánh Giá do Ngô-Đình-Diệm chủ xướng nhưng sự việc không thành, là không có đặt cây Thánh-Giá. Bên trong là một ngọn đèn thường sáng Thờ cho tới ngày nay đó vậy. Âu cũng là Thiên-Cơ! Bài Thi nầy do Đức Chưởng-Đạo Nguyệt-Tâm Chơn Nhơn đã cho Hộ-Pháp nhân chuyến Âu du vào ngày tức trước ngày thay đổi Quả CÀN-KHÔN của Ông Hoài được sự chỉ đạo của Ngô-Đình-Diệm: Khởi điểm vinh quang đã trổ màu Giang-San Đất Việt giá là bao? Nền Nhân Câu-Tiển vừa chen bước, Cửa ải Phù Tan đã mở vào. Mong lịch duyệt, nay đà lịch duyệt Muốn thanh cao, đã đặng thanh cao, Tiên, Rồng đã gặp hồi phong-vũ, Thay đổi CÀN-KHÔN thử thế nào? 5 LUẬN ĐẠO: Xem thế, Quả Càn Khôn không chỉ là trái đất mà gồm cả Thiên Cầu. Các tinh tú nói trên xa gần khác nhau, nhưng trong đêm mắt ta như ghi trên một hình cầu màu xanh to lớn (do hiệu quả của phép phối cảnh). Đó là Thiên Cầu, vì nước Việt Nam (gần xích đạo) nên thấy sao Bắc Đẩu nằm ngang trên đường chân trời (tức ngang tầm mắt) chớ không phải Thiên Nhãn vẽ trên địa xích đạo. * Con số Càn Khôn nhiệm mầu sanh hóa: Quả Càn Khôn đường kính là 3,3 mét đó là lý Tam Âm Tam Dương có thể giải theo nhiều cách: 28

29 5 LUẬN ĐẠO Chú thích: Trích từ quyển: Dẫn Giải Sự Tích & Ý Nghĩa Về Hình Thể Tượng Trưng tại Ngoại và Nội Tâm Đền Thánh * Lý giải theo nét của hai Quẻ Càn Khôn: Càn (3 vạch liền) Khôn (ba vạch đứt). Ấy là hình ảnh Tam Âm Tam Dương; từ đây có thể tạo ra hai hình Tam giác đều, là hình có trước tiên và hoàn hảo nhất trong hình học phẳng. Đặt 3 cạnh liền nhau, khép kín: tam giác đỉnh quay lên là Tam Dương, một tam giác đỉnh quay xuống là tam Âm, đặt chồng lên nhau tạo thành ngôi sao sáu cánh. Hình ảnh này sẽ lý giải được danh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (6 chữ). Cũng là quyền hành của Giáo Tông và Hộ Pháp nữa (xem khảo cứu vụ II/3). Quyền hành Hộ-Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài. Quyền hành của Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. * Chữ điền 田 (Ma-phương-số): Hình ảnh này sẽ lý giải tất cả các ngày Đại Lễ Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu, ngày Khai Đạo. Chu vi Nội-ô Tòa Thánh. * Lý giải theo toán học thì biến hóa khôn lường, ẩn tàng triết lý sâu xa: Thay quẻ Càn bằng 3 chấm từ đó ta vạch thẳng xuống thành ra số (Tượng Thái cực). Quẻ Khôn bằng 6 chấm và cũng từ đó vẽ thành vòng tròn 29

30 CHƯƠNG I:KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT (tượng Vô cực). Cho phối hợp vào nhau tức đặt đường thẳng lên vòng tròn thành ra chữ Trung. Thánh nhân khi bày ra Lục thư tức là phần tượng hình thì chữ trung vẽ nên vuông 中 Ấy là nói lên Vô Trung Từ Phụ 無中慈父. Vô trung là vượt cả lên trên tức là Đại, từ đó danh từ Đại Từ Phụ cùng một nghĩa: Quyền hành nắm trọn hai quẻ Càn Khôn. Chữ TRUNG này cũng chính là tên của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung 梨文忠 mà Đức Chí-Tôn đã chọn lựa làm người Anh Cả. Trước đó thì Ngài là Đầu Sư phái Thượng, Thánh danh Thượng Trung-Nhựt, thì không ai có thể ước mơ lấy chữ NHỰT của Ngài được, đặc biệt nhứt là Ngài nắm chữ NHỰT là một trong Tam bửu của Trời: Nhựt, Nguyệt, Tinh. Chính vì chữ Nhựt này mà ông Phối Sư Thái Ca-Thanh ham muốn cho được nên đã mích lòng với Đức Ngài rồi tách riêng ra lập Chi phái ở Cầu Vỹ (Mỹ tho) và lấy hiệu là Thái Ca Nhựt. Nhưng ai đó đã quên rằng Trời không hai mặt, Đất chẳng hai vua, thì Người cũng không thể hai lòng. Tiếc thay! Ngày về thiêng liêng khó mà nhìn nhau cho đặng. Nhưng thật ra có về được tới đâu mà nhìn! «Lý học thâm uyên trình tiên giác». Trong Sấm ký Trạng Trình có câu này: Cửu Cửu Càn Khôn dĩ định, Thanh minh thời tiết hoa tàn. Thế nên bề kính tâm quả Càn Khôn 3,3m tức (3x3)=9 Trời đất định rằng chín lần chín 81 năm, vào tiết thanh minh sức Dịch đã tàn. Trên thực tế thì Tây (Pháp) đã chấm dứt đô hộ nước ta sau 81 năm, chính là lúc mở đầu 30

31 5 LUẬN ĐẠO cho một chu kỳ số học mà hai con số 9 này lại hiển hiện trong cửa Đạo Cao Đài ngày nay thật là rõ nét: Trở lại với số nét của hai quẻ Càn Khôn, thì Càn (3 vạch liền) Khôn (3 vạch đứt thành ra 6 nét), cộng chung 9 nét (3+6) mà ngay trong Đền Thánh rất nhiều những số ấy: Hai lầu chuông trống đứng trước Hiệp Thiên Đài, mỗi lầu cao 36 m (3+6=9). Hai lầu có hai con số 9, 9. Gọi là Cửu Cửu. Bước vào trong có hàng cột Rồng xanh chầu Chí Tôn, mỗi bên cũng có 9 Rồng, hai bên thành ra 99. * Bài toán về số đường kính quả Càn Khôn: 3 3 = 0 biểu tượng Hư vô (Trời Đất chưa phân) 3 : 3 = 1 biểu tượng Thái Cực (ngôi Đức Chí Tôn) 3 x 3 = 9 biểu tượng Thái Dương (Mặt trời) = 6 biểu tượng Thái Âm (Mặt trăng) Hai con số sau: 9 là Lão Dương, 6 là lão Âm. Nếu cộng hai con số này lại là 15 (9+6=15) là số Ma phương. Chỉ có hai con số 3 mà gom cả lý thuyết vũ trụ, nếu không phải Đức Chí Tôn thì không ai có thể làm nỗi! Nguyên lý: SỐ 3 là do 1 với 2 hỗn-hợp lại mà biến ra 3. Ba tức là cơ quan hữu tướng cùng vô tướng hiện có ở Càn- Khôn vũ-trụ này. Tánh chất đặc-biệt của con số 3: Số 3 là số nửa tịnh, nửa động. Nhưng phần động nhiều hơn. Số 3 chỉ cơ biến tướng và vi-chủ vật-loại thuộc quyền Tăng. Số ấy có đặc-tính năng động, biến đổi. Vạn hữu mang số 3 thì chất nóng-nảy nhưng vì có phần tịnh nên cũng biết dung-hòa. Số 3 là cơ sở của Tam thể: PHẬT PHÁP TĂNG nên nó vừa có năng-lực huy-động mà cũng vừa có năng-lực dung hòa. Vật 31

32 CHƯƠNG I:KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT nào có số 3 là vật ấy có bản-thể cứng-rắn, nhiều hoạt-động, ít may-mắn, dễ thành nhưng mau bại. Càn Khôn là Thái Cực: Càn Khôn là Thái Cực, Thái Cực là Chí Tôn, Chí Cực. Hệ từ thượng viết: «Càn Khôn là cái sâu kín của Đạo Dịch. Càn Khôn thành hàng mà Đạo Dịch lập nên ở trong. Càn Khôn bị phá thì còn gì để thấy Đạo Dịch. Dịch không thể thấy thì hầu như Càn Khôn không thể thi hành được». Câu: Nhất âm nhất dương chi vị đạo (một Âm một Dương gọi là Đạo). Càn Khôn là cửa của Đạo Dịch. Càn tiêu biểu vật Dương, Khôn tiêu biểu vật Âm. Âm Dương hợp với nhau mà Cương Nhu mới có thực thể, thể hiện công việc của trời đất và thông cảm cái đức của Thần minh. (Thần là Trời, Minh là trăng sao). Đóng cửa gọi là Khôn, mở cửa gọi là Càn. Một lần đóng một lần mở gọi là biến. Đây nói đến sự biến hóa của muôn vật do Âm Dương đun đẩy lẫn nhau: Biểu hiện ra nó gọi là Tượng 象 Hình thể nó gọi là đồ dùng (Khí) 器 Chế ra mà dùng nó gọi là Pháp 法 Hình nhi thượng giả vị chi Đạo, hình nhi hạ giả vị chi Khí nghĩa là cái có trước khi có hình gọi là Đạo, cái có từ khi có hình gọi là Khí. Vậy: Càn Khôn là hai tính chất của vũ trụ và vạn vật, trở thành một thế-giới-quan của Đạo Cao Đài. Thế-giới-quan này đã thâm nhập vào học thuật, tư tưởng, văn hóa của loài người. Bởi lẽ, CÀN KHÔN không dùng để chỉ rõ hiện tượng hay sự vật đặc thù nào, mà là Đạo rộng lớn phổ biến. Nói 32

33 5 LUẬN ĐẠO một cách khác Đạo Cao Đài là Đại-Đồng. Các nhà học giả cũng có ý-niệm rằng: Đạo thờ Càn Khôn là Đạo thờ Cha Mẹ: Vì Càn là Cha, Khôn là Mẹ. Đạo thờ cha mẹ tâm linh chính là một tín ngưỡng bản địa của dân tộc ta. Đạo thờ cha mẹ tâm linh dân tộc cần được giữ gìn và phát huy. Bởi đó chính là tinh thần văn hóa, là kinh nghiệm lịch sử, là sự độc đáo của Việt Nam không thể xóa bỏ được (Văn hóa nghệ thuật số 8 năm 1996, trang 25). Mặt khác, Kinh Thuyết Pháp có câu: Đạo Hư Vô, Sư Hư Vô. Hư Vô bao gồm tất cả: vũ trụ, không gian, thời gian, vạn vật và cả về giáo lý, bao hàm ba ý nghĩa: 1 Có mà không; 2 Cuộc đời ngắn ngủi không không; 3 Tất cả mọi vật không thể tồn tại dưới một hình thức nhứt định (phải biến dịch). Giáo lý dạy: Cuộc đời vô thường tức không vĩnh cữu, luôn luôn thay đổi để tiến lên. Đạo đức cũng phải tiến hóa. Đạo thờ Trời Đất, Cha Mẹ cũng phải sửa đổi cho hợp trào lưu phát triển của nhơn sanh. Không biến sinh là hiện tượng chết dần, nhưng biến trong khuôn khổ thì không lọan Đạo là Dịch: Dịch là biến dịch, tương sinh tương khắc, là quay về với lẽ ban đầu. Trong xã hội nông nghiệp buổi đầu, chịu tác động trực tiếp của thời tiết do mặt trời, mùa màng ảnh hưởng nhiều bởi mặt trăng; con nước triều vận hành trong thế quay về. Đời người cũng sinh, lão, bệnh, tử, theo gió mưa. Cái vòng lặp đi lặp lại đó Đạo 33

34 CHƯƠNG I:KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT Cao Đài gọi là vòng luân hồi, trong một lý lẽ cao siêu mà Thầy dạy: «Thầy là các con, các con là Thầy». Thầy phân tánh tạo ra khoáng sản, thảo mộc, cầm thú rồi con người. Con người ấy sống tập đoàn với nhau phải có Lễ, có đạo đức để bước lên hàng Tiên Phật mà trở thành Trời. Thánh giáo dạy: Tu hành là học làm trời. Phải đâu kiếp kiếp làm người thế gian. 34

35 A a- THIÊN NHÃN 天眼 A- Thiên Nhãn CHƯƠNG II B-Tìm hiểu Thiên Nhãn là tìm hiểu Bát Quái 1 Bát Quái là gì? 2 Đức Chí-Tôn mở Đạo để cứu nhân loại 3 Nguyên nhân Đạo Cao Đài thờ Thiên Nhãn? 4 Huyền diệu được thấy Thiên Nhãn 5 Ýnghĩa thờ Thiên Nhãn 6 Truy về nguồn cội trên Thế giới biết Thiên Nhãn C- Phần Luận Đạo 1 Thiên Nhãn: Thần Thiên lương của nhân lọai 2 Chơn pháp của Đức Chí-Tôn 3 Chữ Nhãn trong Thiên Nhãn 4 Dâng Tam bửu lên Đức Chí-Tôn 5 Vương Đạo là gì? 6 Khi Cúng Tứ thời 7 Luận về Triết Thiên Nhãn là gì? E: The divine Eye A- THIÊN NHÃN 天眼 F: Eye of Providence, Divine Eye, All-seeing Eye Thiên-Nhãn là biểu tượng của Tân-Giáo Cao Đài. Đấng Chí-Tôn ban sơ đến dạy về Thiên Nhãn rằng: Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽthánh Tượng Con Mắt mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh: 35

36 CHƯƠNG II 1. Nhãn thị chủ Tâm 眼是主心 2. Lưỡng quang chủ tể 兩光主宰 3. Quang thị Thần 光是神 4. Thần thị Thiên 神是天 5. Thiên giả Ngã dã 天者我也 THẦN là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Ðạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, duy Thầy cho THẦN hiệp TINH- KHÍ đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh. Các con nhớ nói vì cớ nào thờ Con Mắt Thầy cho chư Ðạo hữu nghe. Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, từ ngày Ðạo bị bế, thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên đình mỗi phen đánh tản THẦN không cho hiệp cùng TINH KHÍ. Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn Thần cho các con đắc Đạo. Con hiểu Thần cư tại Nhãn. Bố trí cho chư Ðạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên con mỗi phen nói Ðạo, hằng nhớ đến danh Thầy. Giải nghĩa: (1). Con mắt là chủ của cái Tâm. Ở đây, Thiên Nhãn là chủ của cái Thiên Tâm; Thiên Nhãn là chỉ Ông Trời, Thiên Tâm là cái Tâm của ông Trời tức là ngôi Thái Cực, là Ðại Linh quang, Ðại hồn. Vậy: Ông Trời là chủ của ngôi Thái Cực Thánh Hoàng ngày nay đã đến với nhân lọai ngự trong mỗi gia đình con cái của Ngài trong cơ Đại Ân Xá kỳ Ba. (2). Hai ánh sáng là chúa tể. Lưỡng quang ấy là Lưỡng Nghi: Dương quang và Âm quang. Ðức Chí Tôn Chưởng quản Dương quang, Ðức Phật Mẫu Chưởng quản Âm quang. Âm quang và Dương quang là chúa tể, bởi vì Lưỡng quang Âm Dương phối hợp mới tạo ra 36

37 A a- THIÊN NHÃN 天眼 Càn Khôn vũ trụ và hóa sanh vạn vật (Lưỡng là hai vật không thể chia lìa; nhị là hai, nhưng có thể chia lìa tách rời ra được) (3). Ánh sáng là Thần (Thần là chơn thần của Trời) (4). Thần chính là Trời. (5). Trời ấy là TA vậy (Tiếng tự xưng của ông Trời). Thế nên, thờ Thiên Nhãn là thờ Trời, thờ Ðức Chí Tôn. Thần cư tại Nhãn. Chơn Thần hiện ra nơi con mắt. Nhìn vào đôi mắt, ta đoán biết Thần của người đó mạnh hay yếu. Huờn nguyên hay hoàn nguyên là trở về nguồn cội. Phép luyện đạo trong Ðại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là luyện Tam Bửu (Tinh Khí Thần) hiệp nhứt: Ấy là luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần huờn Hư, tạo được Chơn Thần huyền diệu, là cơ đắc đạo tại thế. Ngài Bảo Văn Pháp Quân giải về Thiên Nhãn (1927) Thiên Nhãn, tuy là Chí-Tôn dạy ta vẽ ra mà thờ kỉnh Chí Tôn, nhưng lại có dạy đặt ở giữa một ngọn đèn gọi là Thiên đăng để chiếu rọi vào Thiên-Nhãn, tức là Thánh ý Chí-Tôn muốn trạng thái cái nguồn cội của sự sáng suốt thông minh gọi là ánh Thái-Cực, vốn từ buổi khai thiên, Chí-Tôn đã phân định: nhứt khí Hư-vô chia đôi ra gọi là phân Lưỡng-nghi, xẻ tư ra gọi là sanh Tứ-Tượng, rồi lại phân ra tám gọi là biến Bát-Quái. Người tu Phật xưa chỉ niệm 6 chữ Nam-mô: A-Di Đà-Phật chứng tỏ Phật chỉ độ Dương mà không độ Âm, độ Nam mà không độ Nữ, độ tử mà không độ sanh; nhưng Đạo Phật ngày giờ này lại biến thiên rất nhiều làm mất đi những chơn lý bí truyền cao cả của Phật, là thất kỳ truyền! Ngày nay người tu theo Đạo Cao Đài niệm danh 37

38 CHƯƠNG II Thầy 12 chữ tức là cơ Đại Ân xá kỳ ba của Chí-Tôn. Phải Hằng nhớ đến danh Thầy là gì? Tức nhiên phải hằng tâm niệm câu chú của Thầy là: Nam-Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại-Bồ Tát Ma-Ha-Tát Tại sao phải niệm câu Chú của Thầy? Câu Chú của Thầy là câu niệm có tánh cách huyền bí của Ðấng Thiêng-Liêng đặt ra để hộ trì các Môn đệ trên bước đường tu. Đặc biệt là niệm danh Thầy trong nguơn hội Cao-Đài để được giải thoát! Trong thời Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ này, Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế giáng cơ dạy Đạo, xưng mình là Thầy, gọi các con cái của Người đang học Đạo là Môn đệ. Ðức Chí Tôn dạy đạo đức cho nhơn sanh như là Thầy dạy trò, gần gũi thân mật, biểu lộ lòng thương yêu của Chí Tôn đối với chúng sanh thật vô cùng tận, như tình cha con, qua lời khiêm tốn, thân thương của Thầy rằng: Làm Cha nuôi nấng ân cần, Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần, ngôi Tiên. Lẽ tất nhiên Đức Chí-Tôn trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ này nắm hai nhiệm vụ: vừa làm Cha (Đại Từ Phụ) thì lo lắng cho con, như người Cha trong gia đình; vừa làm Thầy (Ngọc Hòang Thượng Đế) thì mới đủ quyền hành ban cho ngôi Tiên phẩm Phật cho chư môn đệ của Thầy. Câu Chú của Thầy tức là câu niệm Chí Tôn có 12 chữ: Nam- mô Cao- Ðài Tiên- Ông Ðại Bồ- Tát Ma- Ha- Tát Nam-Mô 南無 (đọc trại ra từ Nam-vô) do phiên 38

39 A a- THIÊN NHÃN 天眼 âm từ tiếng Pali Namô hoặc từ tiếng Phạn Namah, từ ngữ Nam Mô thường được dùng làm chữ khởi đầu cho bất cứ câu cầu nguyện nào trong Tôn giáo ngày nay. Nam Mô có 6 ý nghĩa: Qui y: trở về nương tựa Phật và Bồ Tát. Qui mạng: qui thân mạng của mình. Cung kính: hết lòng chí thành cung kính. Cứu ngã: mong được cứu độ. Đảnh lễ: lòng thành kính. Độ ngã: mong tu được qua bờ giác ngộ. Hai chữ Nam-Mô là một triết lý quan yếu đối với trời đất cùng vạn vật, đó là Âm Dương nhị Khí vậy. Thuở hỗn độn Hồng mông trong pháp sơ tạo ấy chính là Đạo khởi thỉ của Trời Đất nên chữ Nam vô 南無 được niệm đầu tất cả các Thánh danh, nhưng đọc trại là Nam mô. Nam là Phương Nam thuộc Bính Đinh, HỎA là lửa Thái-Cực ở lý nhứt nguyên biến cung Càn thành ba vạch.. Vô là chỗ tách rời hìnhkhônlục đoạn với khoảng không đó là vòng Vô Cực nơi phát xuất sanh quang cho Vũ Trụ. Đây là các câu niệm của Đạo Cao-Đài. Cao Ðài: là cái đài cao, dùng làm nơi ngự của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế khi có Ðại hội triều đình của Ðức Ngài tại Ngọc Hư Cung Linh Tiêu Ðiện. Tiên Ông: Ông Tiên, vị Tiên, một phẩm chót của Tiên giáo (một sự khiêm tốn của ông Thầy Trời) Ðại Bồ-Tát: Nói đầy đủ là Bồ-Ðề-Tát-Ðóa, tiếng Phạn là Bodhisattva, nghĩa là người đã tự giác được bản tánh và có nhiệm vụ phổ độ chúng sanh (một phẩm chót 39

40 CHƯƠNG II của Phật giáo cũng là hình thức khiêm tốn). Ma Ha-Tát: Nói đầy đủ là Ma-Ha-Tát-Ðóa, tiếng Phạn là Mahasattva, nghĩa là Ðại chúng sanh, tức là người có dũng tâm muốn làm việc lớn. Ðại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát là vị Bồ-Tát ở phẩm bực cao trọng, xứng đáng đứng vào hàng Phật vị, nhưng vì còn nhiệm vụ cứu độ chúng sanh nên còn mang danh Bồ-Tát, hằng ngày hoá độ chúng sanh. Câu Chú của Thầy đặc biệt có 12 chữ là vì số 12 là số riêng của Thầy với ý nghĩa là bao gồm Tam giáo: Cao Ðài: tượng trưng Nho giáo. Tiên Ông: tượng trưng Lão giáo hay Tiên giáo. Ðại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát: tượng trưng Phật giáo. Ngày nay Ðức Chí Tôn dùng câu Chú nầy có mục đích Qui Nguyên Tam Giáo, tức là đem Tam giáo (Phật Lão Nho) về một gốc, gốc đó là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Thầy nói: Thập nhị Khai thiên là Thầy, Chúa cả Càn-Khôn thế giái, nắm trọn Thập nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy. Vậy danh xưng của Đức Cao-Đài đã gồm trọn Tam giáo: Phật Tiên Thánh. Lại nữa Thánh danh này còn thể hiện một hạnh khiêm-nhường nữa, qua lời dạy của Thầy: Các con nghe! Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn-sanh là thế nào, phải xưng là một vị TIÊN ÔNG và BỒ-TÁT, hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối cao, tối trọng; còn Thầy thì khiêm-nhường là thế nào! Vì vậy mà nhiều kẻ Môn-Đệ cho Thầy là nhỏ Cười! (TNI/44) 40

41 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI Ngoài ra đứng về Lý Dịch mà nói thì: hai chữ Nam Mô tượng trưng cho lý Âm Dương mà bất cứ nơi nào cũng có. Cả câu nguyện có 12 chữ, tượng cho Thập Nhị Địa Chi, tức là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dâu, Tuất, Hợi. Nếu lấy hai chữ Nam-Mô ra thì danh xưng của Thầy có 10 chữ, ấy là tượng cho Thập Thiên Can, là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí. Như vậy phối hợp cả Thiên Can và Địa Chi là quyền Chúa Tể của Thầy đã thể hiện trong ấy, mà Kinh Phật Mẫu dạy rằng: Thập Thiên Can bao hàm vạn tượng, Tùng Địa Chi hóa trưởng Càn Khôn Niệm danh Thầy để được giải thoát Đức Hộ-Pháp giải về con đường Thiêng-Liêng Hằng Sống có nói rằng: Hỏi thử tội tình của chúng ta đã làm trong kiếp sanh, Đức Chí-Tôn để trong phương-pháp nói rằng: Tội tình các con đầy dẫy nơi mặt địa cầu này mà đến giờ chót, các con biết kêu danh Thầy thì Thầy đến cứu, Thầy đem bí-pháp giải thoát để trong tay các con đặng các con đoạt chơn pháp giải thoát đó vậy. Kêu danh Thầy là Nam-Mô Cao-Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma-Ha-Tát. B- TÌM HIỂU THIÊN NHÃN THẦY LÀ TÌM HIỂU VỀ BÁT QUÁI 1 BÁT QUÁI LÀ GÌ? Vẫn là tám đạo hào-quang gọi là Bát phẩm Chơn hồn: Phật hồn, Tiên-hồn, Thánh-hồn, Thần hồn, Nhơn hồn, cầm thú, côn trùng, thảo mộc, vật chất hồn. Vì đó 41

42 CHƯƠNG II mà nơi thờ PHẬT-MẪU có câu đối này: BÁT phẩm chơn hồn tạo Thế giới, hóa chúng sanh, vạn vật hữu hình tùng thử ĐẠO. QUÁI hào Bác ái định Càn Khôn, phân đẳng pháp, nhứt thần phi tướng trị kỳ TÂM 八品真魂造世界化眾生萬物有形從此道 卦爻博愛定乾坤分等法一神非相治其心 Xin lược giải: Tám bậc linh hồn gầy nên cõi đời, biến thành chúng sanh là muôn vật có hình dõi theo cơ Đạo. Ánh sáng trọn lành định an võ-trụ, đặt bày ngôi thứ do một Đấng vô ảnh phán đoán nơi cõi lòng. Hai chữ khởi đầu là BÁT QUÁI Hai chữ cuối của hai câu là ĐẠO TÂM. Xin nói qua về DỊCH: Quái (quẻ) có hai lọai: quẻ đơn có 8 quẻ: Càn, Đòai, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Đấy là 8 quẻ căn bản nhất dùng trong các Bát Quái sau. Quẻ kép là do hai quẻ đặt chồng lên nhau. Hào là những vạch ngang để ký hiệu cho một quẻ. Vậy thì Bát Quái vốn là tám đạo hào-quang, tùy sự cao hạ mà định phân ngôi thứ ra tám bậc, cho nên Đức Chí-Tôn mới nói là Bát Phẩm Chơn hồn. Hễ có chia ra từ bậc thì tất nhiên phải có đẳng cấp thượng hạ khác nhau: Phật hồn khác với Tiên hồn 42

43 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI Tiên hồn khác với Thánh hồn, Thánh hồn khác với Thần hồn, Thần hồn khác hơn, thông minh hiểu biết hơn nhơn hồn. Chữ Bát Quái cho thấy rằng đây là thời kỳ Phục hưng của đạo pháp, đâu đâu cũng thấy chữ Bát Quái như: Bát Quái Đài, Bát Quái Đồ thiên, Lộ Bát Quái Cũng là thời kỳ ứng hợp với Kỹ-thuật-số mà văn minh khoa học đang tiến triển. Đạo học thì đang thịnh về: Nho, Y, Lý, Số. Đạo Tâm cho thấy rằng sắp chuyển mình để bứơc qua một Tịch Đạo Đạo Tâm là theo sau Tịch Đạo Thanh Hương, tức nhiên là có biến chuyển về tâm linh. Hai câu đối này có số chữ dài nhứt: mỗi câu 17 chữ. Nếu tính về Dịch lý thì đây là quẻ Thiên Sơn Độn (1 là Càn vi THIÊN, 7 là Cấn vi SƠN, đọc là Thiên Sơn Độn (Độn là lui đi) tức nhiên xác nhận một lần nữa: thời Thanh Hương đã lui đi, để nhường chỗ cho cơ Đạo Tâm! Tuy nhiên: nếu nói từ bậc phẩm Phật, Tiên, Thánh, Thần, ta không nên luận đến sự cao hạ. Một ví dụ cho thấy Đức Quan Thánh Đế; nói là hàng Thánh, nhưng Ngài là vị Cái Thiên Cổ Phật Quan-Thánh Đế-Quân. Chỉ biết rằng trong hàng chúng sanh thì phẩm người là linh hơn hết mà thôi: Loài người vẫn cao kiến hơn, thông minh hơn cầm thú côn trùng. Cầm thú côn trùng hiểu biết hơn thảo mộc và vật chất hồn, là sự rõ thấy hiển nhiên. Sự cao hạ về bậc phẩm đã định phân trong Bát Quái vốn do theo lẽ công bình của Chí-Tôn nơi luật tấn hóa để sắp đặt hàng phẩm tùy theo sự quang minh nơi linh tâm của vạn vật đã tự mình trau luyện gọi là TU mà đào tạo ra hàng 43

44 CHƯƠNG II phẩm ấy. Nếu muốn rõ thấu về sự cao hạ của bậc phẩm, thì không còn chi hơn cho bằng ta tìm hiểu ngôi thứ của nhân loại, Thánh nhân vẫn chia ra ba bậc khác hẳn tính nhau là Nguyên nhân, Hóa nhân, Quỉ nhân. Vạn vật không thể nào dấu diếm hạng bậc thiêng liêng của mình đặng, là do nơi chơn hồn đã qui định rồi, thì lẽ tự nhiên nơi linh tâm ta, nó lộ bày ra trong tánh cách cử chỉ ta Tâm ư trung xuất hình ư ngoại rồi lại cũng do nơi linh tâm quang minh mà kẻ khác trông thấy hiểu biết được phẩm của ta.. Điểm quang minh ấy gọi là Thần Lương tâm (La conscience) mà Thần lương tâm vốn vô hình, vô ảnh nên gọi là Thần phi tướng, theo như câu: QUÁI hào Bác ái định Càn Khôn, phân đẳng pháp, nhứt thần phi tướng trị kỳ TÂM. Ấy là sự hiểu biết thông minh sáng suốt duy ở hai mắt này ngó xem cho thấy vật mà thôi, cho nên Chí Tôn mới nói Lưỡng quang chủ tể. Còn sự định đoạt hay dở thấp cao vẫn do nơi con mắt mầu nhiệm nên Chí-Tôn mới nói rằng Nhãn thị chủ Tâm. Con mắt ấy vẫn vô vi phi tướng. Ấy là do sự tu luyện để tìm về nguồn cội Đạo gọi là Huệ Nhãn phân biệt với mắt thường gọi là phàm-nhãn. Tùy nơi sự quang minh cao hạ mà định phân đẳng cấp riêng cho người, vật; rồi cũng do nơi Huệ-nhãn mà người để tâm trau luyện gọi là tu cho quang minh hơn nữa, nên người mới đoạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật như các Đấng được nêu danh trên Bát-Quái Đài, như Đức Phật Thích Ca Mâu-Ni, Đức Thái Thượng Lão Quân, Đức Văn Tuyên Khổng Thánh.. Chính vì vậy mà Thánh nhân gọi cặp phàm nhãn của người là Lưỡng mục 兩目 duy có để xem thấy vật bên ngòai mà thôi. Về tâm linh khôn sáng thì vẫn của Thần 44

45 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI phi tướng 神非將 là điểm Linh quang của người. Trong hàng Bác sĩ, Kỹ sư những vị này tạo ra phi cơ hiện nay, cũng chỉ dùng nơi Huệ-nhãn, tức là dùng sự quang minh mà lần lượt tầm kiếm trong phòng thí nghiệm, đồ theo kiểu vở phi điểu của Tạo công, từ xưa đến nay mới đắc pháp, ấy cũng do sự cao siêu của Linh tâm mà ra. Ấy vậy, Thiên-Nhãn gọi là Mắt Trời, Đấng Chí Tôn ban cho mỗi người một tia sáng nơi mình gọi là Thần Lương tâm (La conscience) cốt yếu để chủ định giữ gìn phẩm hạnh người ta. Bởi cớ nên Đấng Chí-Tôn thường dạy rằng: Thầy hằng ở bên các con mà nhắc nhở dìu dắt các con là dường ấy, lại cũng do nơi đó mà có câu Nhứt Thần phi tướng trị kỳ tâm. Cơ Tấn hóa: Như thế, là duy có riêng luận về linh quang của Nhơn phẩm mà thôi. Dưới hạng bậc của nhân loại vẫn còn đoàn em thấp thỏi hơn là cầm thú, côn trùng, thảo mộc và vật chất. Mỗi vật loại cũng đều có điểm Linh quang nơi mình, nhưng rất nhỏ-nhít. Do theo hàng phẩm: vật chất tùy cơ tấn hóa sẽ bước lên hàng thảo mộc; thảo mộc bước lên hàng côn trùng, cầm thú; cầm thú tấn bước vào nhân loại, cũng như loài người nếu chí tâm luyện tập, điểm Linh quang sánh kịp bậc nào trong hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật thì cũng được vào hàng phẩm ấy. Tóm lại: Thiên Nhãn đã là tôn chỉ của Đạo, lại là cội nguồn của Pháp nên quá thâm-thâm huyền diệu. thế nên Thiên Nhãn nghĩa là Mắt Trời được tôn thờ: Thứ nhất là cả thế giới lòai người ai cũng biết rõ tầm quan trọng của MẮT như thế nào rồi! Khi nói Mắt ai cũng biết được hình dạng của nó. 45

46 CHƯƠNG II Mắt là cửa sổ của Linh hồn là tượng trưng cho cái tâm, thế nên cách thờ phượng của Đạo Cao Đài ngày nay là ngay dưới Thiên Nhãn có thắp một ngọn đèn dầu cho thường sáng, giả làm Tâm đăng cũng là nguồn cội Đạo, vẫn là cái ánh sáng trọn lành của Trời gọi là Ánh Thái-Cực, nêu lên trên cao vọi nơi tuyệt đỉnh là Cao Đài. Nếu tính theo hình phẳng thì trên hết là Thiên 46

47 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI Nhãn. Dưới Thiên-Nhãn ngay hàng giữa thể hình Ngũ Chi: Thích Ca Mâu-Ni tượng...phật đạo Thái-Bạch Kim Tinh...Tiên đạo. Da-Tô Giáo Chủ...Thánh đạo Khương Thượng Tử Nha...Thần đạo Ngôi Giáo Tông Đại-Đạo...Nhơn đạo. Nhưng trên vòng tròn, thì ngôi Chí-Tôn ở giữa, là tâm. Đồ hình trên: vòng tròn lớn tượng Càn Khôn vũ trụ. Trong có một tam giác lớn nội tíêp: đỉnh mang chữ THÍCH CA MÂU NI là ngôi PHẬT, hai đỉnh dưới của tam giác này là TIÊN, THÁNH, chứng tỏ rằng Tam giáo trước mặt Đức Chí-Tôn vốn có từ xưa đến giờ vẫn đồng quyền, đồng đẳng nhau của thời Nhứt kỳ Phổ độ. Qua Nhị kỳ Phổ độ thì Tam giác trên là Tam Giáo: Đỉnh là chữ Thích Ca Mâu-Ni (Phật). Kế đếnthái Thượng Lão Quân (Tiên) Đỉnh kế là Khổng Thánh Tiên Sư (Thánh) Nay, Qua Tam Kỳ Phổ Độ thay quyền Tam Trấn Oai nghiêm, thì biểu tượng là tam giác ở giữa: Đỉnh mang chữ: Thái Bạch Kim Tinh (Tiên giáo) Kế đến là Quan Âm Như Lai (thay Phật giáo) Kế là Quan Thánh Đế Quân (thay Thánh Giáo) Nếu chỉ tính hàng giữa thì đây là biểu tượng: Ngũ Chi Đại Đạo như trên đã nói. 47

48 CHƯƠNG II Nhưng tại sao Đức Da-Tô Giáo Chủ đặt ở tâm? Đấy là nét đặc biệt nhứt của thời Tam Kỳ Phổ Độ. Đức Chúa lại ngự trong tâm của vũ trụ tức là ngay ngôi của Đức Thượng Đế, bởi Đức Chúa Cứu Thế đã chịu đóng đinh trên Thánh giá để chuộc tội cho lòai người. Ngày nay Đức Chí-Tôn bảo hành y Tam Lập tức là tinh thần PHỤNG SỰ. Vì phụng sự Vạn linh tức là phụng sự Chí linh. Nếu chư Môn đệ làm xong phận sự là Lập đức, lập Công, lập Ngôn thì cũng gần ngôi Tiên, Phật vậy; Thầy còn dành cho cả ngôi Trời cho người dám Thọ khổ nữa! Nhìn vào đồ hình quả là Chúa đã ngự trên ngôi Thập tự giá tức là giao điểm hai đường kính vòng tròn. Đồ hình có cả thảy 9 Đấng: Phật, Tiên, Thánh, Thần, nhưng duy chỉ có Phật Quan Âm là Nữ, tức là Nữ Phật Tông là nghĩa làm sao? Dịch nói Chúng dĩ quả vi chủ tức nhiên trong số đông thì số ít làm chủ! Vậy thời kỳ này Nữ Phật Quan Âm làm chủ! Làm CHỦ về vấn đề gì? Thời Tam Kỳ Phổ Độ này Đức Chí-Tôn mở Đạo không dùng Tam giáo như hai kỳ trước mà dùng TAM TRẤN OAI NGHIÊM thay quyền cho Tam Giáo, vậy: Đức Phật Quan Âm là Nhị Trấn Oai Nghiêm tượng cho đức BI (Từ bi Bác ái) Đức Lý Thái Bạch là Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ, tượng trưng đức TRÍ Đức Quan Thánh Đế Quân là Tam Trấn Oai nghiêm, tượng trưng đức DŨNG. Như vậy người tu theo Đạo Cao Đài ngày nay 48

49 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI phải noi gương Tam Trấn mà tu cho hiệp tam bửu, ấy là BI TRÍ DŨNG vậy. Tuy nhiên theo Tôn chỉ của nền Đạo Cao Đài ngày nay là cứu thế và chuyển thế, tức nhiên vì nhân lọai sắp đến kỳ hủy diệt nên Đạo mới đến để cứu đời. Trước mắt cho thấy rõ là nhân lọai ngày nay thừa đức TRÍ và DŨNG, nhưng thiếu đức BI. Vì thiếu đức BI nên nhiều nứơc đã liều chết chính mình và còn làm cho nhiều người cùng chết, tức nhiên họ không thương mình thì còn thương ai! Lòng Bác ái, Từ-bi đã khô cạn lắm rồi! Phải thể hiện đức Từ bi, Bác ái mới cứu nhân lọai trong phút lâm nguy này! Sắp theo ngôi thứ, tức là thể bày công trau luyện theo gương sáng của các Đấng đã dày công tu hành, cũng là tinh thần qui nhứt. Nhưng dưới mắt Đức Thượng Đế không phân biệt cao thấp, mà là đồng đẳng đồng quyền với nhau, nhưng chỉ biệt phân nhiệm vụ mà thôi. Giờ này Đức Thượng Đế ngồi sau hết nhưng trên hết để đưa về cơ tận độ trong kỳ Ba cứu thế. Đức Khương Thượng Tử Nha là Thần Đạo, nhưng không có ngày Vía, vì Ngài bình sanh không để lại một triết lý nào cho nhân lọai, mà chỉ có công lập BẢNG PHONG THẦN mà thôi. Ngôi Giáo Tông là đại diện cho NHƠN ĐẠO. Tuy là Ngài có ngai vàng, có Long vị thờ nơi Bát Quái Đài, nhưng không có câu niệm như Đức Hộ-Pháp. Nhưng cả hai ông chủ của Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài hiệp một mới là quyền Chí-Tôn tại thế. Đây là một hình thức ÂM DƯƠNG luôn thể hiện một cách khít khao trong nền Đại-Đạo ngày nay. 49

50 CHƯƠNG II Tuy nhiên: quyền tối thượng vẫn là Đức CHÍ-TÔN Ngọc Hòang Thượng Đế Giáo Chủ về vô vi. Người Việt Nam có quyền hãnh diện ngày nay có được mối ĐẠO NHÀ, là đạo này phát xúât từ Việt Nam. 50 Thầy đã xác nhận điều ấy, quathi văn dạy Đạo: Từ thử nước Nam chẳng Ðạo nhà, Nay Ta gầy dựng lập nên ra. Ví bằng ai hỏi sao bao nả? Rằng trẻ noi sau biến hóa già! 2 ĐỨC CHÍ-TÔN MỞ ĐẠO CAO ĐÀI ĐỂ CỨU NHÂN LOẠI: Nhơn-loại đang bị thống khổ và sẽ lăn vào cảnh tangthương vì tinh thần ly-tán nên Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ xuất hiện đặng phục-hưng Khổng-giáo, áp dụng Nho Tông làm khuôn luật tổ-chức xã-hội cho tận-thiện, tận-mỹ. Các dân tộc sẽ đối đãi nhau như anh em một Cha, ở chung một nhà, cộng hưởng Đại-Đồng hạnh-phúc. Đó là về mặt xã-hội, còn mặt Đạo là mặt tinh-thần thì Đại-Đạo giữ-gìn tinh-ba giáo-lý nhà Thiền và Lão giáo đặng độ tận linh-hồn về Thượng-giới. ĐẠI-ĐẠO tiên khởi lập thành tại nước Việt-Nam, nhiên hậu sẽ hoằng khai các miền Đông-Á, qui hợp cả Huỳnh-chủng làm đà sang Bạch-chủng Âu châu dìu-dẫn khắp thiên-hạ trên con đường Cộng-Đồng. Biểu tượng của nền Tân Tôn-giáo Cao-Đài này là Thờ Trời bằng THÁNH TƯỢNG THIÊN NHÃN: Thông thường các biểu tượng này là để tượng trưng cho Thượng Đế toàn năng, Người đã thấu rõ tất cả những

51 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI hành vi của con người. Biểu tượng này tìm thấy ở cả các nền văn minh phương Tây lẫn phương Đông. Việc Đạo-pháp ngày nay thấy rõ là một điều tối yếu, tối cần để cứu nhân-loại trong thời buổi này như chiếc thuyền đang cơn bão tố. Thiên hạ chịu quá nhiều thiên tai, địa ách, nào bão lụt, sóng thần, đất lỡ, cháy nhà, cháy rừng... rồi đến dịch bệnh, tai ương. Đúng như lời Đức Hộ-Pháp nói trong Thập Thủ liên hoàn năm (1967). THI Tai trời gieo họa chẳng riêng ai Thế giới Kỳ ba sắp trận bày. Đất Bắc Nga xuôi Hồ diệu võ Trời Nam Mỹ khiến Diệm dương oai Hoàng đồ buổi trước còn chung một. Lãnh thổ ngày nay bị đứt hai. Hỏa pháo đôi bên hờm nhả khói. Chia sông Bến-Hải quyết đua tài Đức Chí-Tôn phải chính mình Ngài đến để độ rỗi con cái của Ngài, không những độ toàn cả thế giới về hữu hình mà thôi, Ngài còn tận độ các vong linh nữa, nhưng làm sao để nhân loại nhận ra hình ảnh một người CHA của nhân loại? Ngài phải lấy biểu tượng là Con Mắt Trời mà tượng trưng cho một nền Đạo mới này. Có nghĩa là Ngài đã thấy tất cả, đã nghe tất cả, đã ghi chép tất cả Dieu voit tout, Dieu entend tout, Dieu écrit tout cũng như người Tây phương quan niệm về Đức Chúa Trời vậy. Nền Đạo Cao-Đài có đầy đủ Thể-pháp và Bí-pháp. Quan-trọng nhứt là Bí-pháp, vì vậy nên Thầy có giao cho 51

52 CHƯƠNG II ông Giáo Sư Thái Bính Thanh làm một Trái Càn Khôn để làm biểu tượng Tín ngưỡng của Đạo Cao-Đài. 3 NGUYÊN-NHÂN ĐẠO CAO-ĐÀI THỜ THÁNH TƯỢNG THIÊN-NHÃN Duyên khởi: Cuối năm 1917, thân mẫu của Ngài Ngô văn Chiêu lâm trọng bịnh, Ngài phải xuống đàn Cái Khế ở Cần Thơ để cầu xin thuốc cho Mẹ uống. Ơn Trên giáng cơ cho bài thuốc, Ngài đem về cho Mẹ uống thì Mẹ Ngài hết được chứng bịnh nan y, mạnh được vài năm. Sau đó thì Mẹ Ngài bị bịnh trở lại, Ngài Chiêu trở xuống đàn Cái Khế cầu xin thuốc cho Mẹ nữa, Ơn Trên chỉ giáng dạy đạo lý chớ không cho thuốc. Ngài vì quá thương Mẹ nên đến đàn cơ ở Thủ Dầu Một xin thuốc một lần nữa. Ông Trần Hiển Vinh chủ đàn Minh-Thiện ở Thủ Dầu-Một có thuật lại rằng: Bữa ấy, Ngài Ngô Văn Chiêu cùng ông Phủ Kim đến hầu đàn. Ông Kim quì ở trong, Ngài Chiêu quì ở góc ngoài. Khi Đức Quan-Thánh giáng cơ, liền gọi tên Ngài Ngô Văn Chiêu và cho 4 câu thi, đại ý nói vườn thuốc của Phật-Tổ đã bị trốc gốc. Qua bài thi nầy, Ngài Chiêu biết số mệnh của Mẹ Ngài không qua khỏi. Đến cuối năm 1919 thì Bà từ trần. Sau những lần Đức Thượng Đế giáng Cơ cho thuốc chữa lành bịnh thân mẫu của ông có hiện ra Thiên Nhãn và cảnh Bồng Lai để cho ông được chính mắt thấy để làm tin. Nhứt là các Đấng Thiêng liêng giáng Cơ cho nhiều toa thuốc trị bịnh vô cùng huyền diệu mà Ngài Ngô văn Chiêu (Môn đệ đầu tiên của Đức Thượng Đế) đã nhiều lần thỉnh cầu trị bịnh cho thân mẫu của Ngài, khiến cho Ngài tôn kính các Đấng vô hình đã hướng dẫn cho thuốc 52

53 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI để thân mẫu của Ngài uống hết chứng bịnh nan-y mà các bác sĩ đều lui chân thối bước, từ nan, không dám tiếp tục chữa trị; dù những toa thuốc của các Đấng cho tuy đơn giản mà kết quả như ý. Do sự huyền diệu của thiêng liêng đã chỉ dẫn thuốc thang để điều trị cho thân mẫu Ông Ngô văn Chiêu vượt qua căn bịnh ngặt nghèo nguy hiểm, chính là làm tăng thêm Đức tin của Ngài Chiêu được mãnh liệt như thế. Sau, Ngài cũng trở thành Đệ tử đầu tiên của Đức Thượng Đế. 4 HUYỀN-DIỆU LÀ ĐƯỢC THẤY HIỆN THIÊN NHÃN: Vào thời tiền khai Đại-Đạo: Ông Ngô văn Chiêu là người được Đức Chí-Tôn thâu nhận làm Đệ-Tử đầu tiên. Tuy Ngài chịu làm Đệ-Tử của Tiên-Ông chớ chưa lập ngôi thờ, vì không biết phải thờ làm sao! Một bữa kia Tiên Ông dạy Ngài phải tạo ra một cái dấu hiệu gì riêng để thờ. Ngài bèn chọn chữ Thập, Tiên-Ông nói chữ Thập cũng được, song đó là dấu hiệu riêng của một nền Đạo đã có sẵn rồi, đó là dấu Thập Tự Giá của Công-Giáo, phải suy nghĩ mà tầm cho ra một dấu hiệu khác hơn, có Tiên Ông giúp sức. Ngài xin huỡn lại để có ngày giờ suy ngẫm. Mãn tuần Ngài tầm cũng chưa ra. Thế rồi một hôm, vào ngày Tân Dậu (dl: ) lúc 08 giờ sáng, Ngài đang ngồi trên chiếc võng ở mái hiên sau Dinh Quận (Phú Quốc), suy nghĩ vẩn vơ, bỗng Ngài thấy xuất hiện một CON MẮT thật lớn, hào quang chiếu diệu, cách chỗ Ngài ngồi chừng vài ba thước. Ngài lấy làm sợ hãi hết sức, lấy hai tay đậy mắt lại không dám nhìn, nửa phút đồng hồ Ngài mở mắt ra thì cũng còn thấy Con Mắt ấy mà lại càng chói hơn, Ngài 53

54 CHƯƠNG II bèn chấp tay vái rằng: Bạch Tiên-Ông: Đệ Tử rõ biết cái huyền diệu của Tiên-Ông rồi, Đệ Tử xin Tiên-Ông đừng làm vậy Đệ tử sợ lắm. Như phải Tiên-Ông bảo thờ CON MẮT thì xin cho biến mất tức thì. Vái xong con mắt lu dần rồi biến mất. Như vậy mà Ngài cũng chưa thiệt tin, nên chưa tạo Thiên Nhãn mà thờ. Vào tháng giêng năm Giáp-Tý (1924) khi Ngài Ngô Văn Chiêu đứng tại Dinh Cậu ở Phú Quốc nhìn ra biển khơi lúc mặt trời sắp lặn, Ngài bỗng thấy Thiên Nhãn hiện ra rực rỡ hào quang sắp theo một sổ dọc thẳng đứng và mặt biển là một đường nằm ngang. Sau khi thấy Thiên Nhãn hiện lần hai, Ngài cầu Cơ hỏi cách thờ phượng thì Tiên Ông dạy vẽ CON MẮT theo như Ngài đã thấy mà thờ và dạy Ngài phải kêu Tiên Ông bằng THẦY mà thôi. Tức nhiên Đức Cao Đài Tiên Ông xưng danh Đức Ngài tại Quan Âm Tự là Cao Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát. Từ đó Ông Ngô văn Chiêu chánh thức là Đệ-Tử đầu tiên của Đức Cao Đài Tiên Ông. Đến ngày Giáp Tý (dl: ) Đốc Phủ Ngô Văn Chiêu được chánh quyền Pháp đổi về cho làm việc ở Sài Gòn, Ngài cũng đem Thiên-Nhãn về Sài Gòn để thờ nơi nhà Ngài cư ngụ. Nay, biểu tượng thờ Con Mắt Trời là Thánh Tượng Thiên Nhãn Thầy của nền Tân Tôn-Giáo, tức là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ cũng khởi nguyên từ đây. Mặt khác, vào giữa năm 1925, Đức Chí Tôn độ được nhóm công chức Xây bàn ở Sài Gòn gồm quí ông: Cao 54

55 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI Quỳnh Diêu, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang và kế đó độ thêm Ngài Lê Văn Trung; Đức Chí Tôn bảo quí vị nầy vẽ hình THIÊN NHÃN để thờ Đức Chí Tôn. Lúc đó là đầu năm Quí ông rất phân vân, không biết vẽ thế nào, vì biểu tượng Thiên Nhãn thật vô cùng mới lạ. Từ trước tới giờ, người Việt-Nam chỉ biết thờ tượng Phật, tượng Thánh, tượng Thần, chớ chưa hề biết thờ Thiên Nhãn! Đức Chí Tôn giáng Cơ dạy quí ông đến nhà của Đốc phủ Ngô Văn Chiêu để Ông Chiêu chỉ cho cách thờ và dặn mang Đại Ngọc Cơ theo để Chí Tôn giáng cơ dạy. Thế là do lịnh dạy của Đức Chí Tôn, quí ông tìm đến nhà Ông Ngô Văn Chiêu, được Ông Chiêu hướng dẫn cách thờ phượng Đức Chí-Tôn bằng biểu tượng Thiên Nhãn với đầy đủ chi tiết. Sau đó quí ông phò loan, cầu Đức Chí Tôn giáng dạy, quí ông hợp tác với Ông Ngô Văn Chiêu để chuẩn bị Khai Đạo, nhận ông Chiêu là Anh Cả. 1 Về hình thể: 5 Ý NGHĨA THỜ THIÊN NHÃN Tiên Nho thường nói: Hoàng Thiên hữu Nhãn hay trong dân gian cũng thường nói: Trời cao có mắt, để chỉ rằng Ông Trời tức là Đấng Thượng-Đế, nhìn thấy rõ tất cả những hành vi thiện ác của khắp chúng sanh, dầu bộc lộ ra ngoài hay còn kín đáo bên trong, Mắt Trời đều thấy rõ hết thảy, để khen thưởng hay xử phạt một cách công bình theo luật của Thiên điều phân định. Do đó, trong kinh Ngọc Hoàng có câu: 55

56 CHƯƠNG II Càn kiện cao minh. Vạn loại thiện ác tất kiến. Nghĩa là ngôi CÀN hay Kiền là ngôi Thượng- Đế thật mạnh mẽ cao vọi, sáng tỏ, ắt hẳn Trời đã thấy rõ điều thiện và điều ác của muôn loài vạn vật. Thờ Thánh Tượng Thiên-Nhãn với Con Mắt mở ra để chúng ta luôn nhớ rằng, bất cứ ta làm điều gì, Trời đều thấy rõ, không thể dấu diếm, cũng không điều gì ta có thể cải chối được. Đức Chí Tôn dạy: Tại sao Thầy lại biểu các con tạo hình Thiên Nhãn mà thờ, không dạy thờ hình tượng như các Tôn giáo khác? Thầy vốn là Hư vô chi khí, không giống cái chi hết. Các con chớ tạo hình Thầy mà thờ. Trời là lý, thì lý ấy rất thông-linh bao quát Càn Khôn Thế Giới. Thầy đâu phải có xác phàm như các con mà tạo hình thể như các con. Nên chi, thờ Thiên Nhãn là thờ Thầy. 2 Ý nghĩa về thiêng liêng: Thờ Thiên Nhãn bao gồm nhiều ý nghĩa siêu việt: Do lời Thánh giáo của Đức Chí Tôn từ buổi mới khai Đạo, thờ Thiên-Nhãn là chỉ nghĩa Nhứt điểm Linh Quang của Tạo Hoá. Bởi Thiên Nhãn thuộc về Thần, Thần cư tại Nhãn tức nhiên Thần trụ ở mắt, mắt chỉ về tâm, tâm thuộc hoả, hoả thuộc dương, dương ấy là mặt nhựt, mặt nhựt là thanh khí, thanh khí là Trời. Có câu Thanh thượng phù giả vi Thiên 青上浮者為天 (phần thanh nhẹ nổi lên làm Trời). Con người biết tôn sùng Trời thì phải biết kính trọng thần lương tâm. Bởi khi cái tâm tức là khi Trời, mà Trời thì không thể khi thị được. Có 56

57 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI câu khi kỳ tâm tất thị khi thiên, thiên bất khả khi hồ! 欺其心即是欺天, 天不可欺乎? Thiên Nhãn là hình tướng của Lương-Tâm. Nay, người Môn-Đệ của Đấng Cao-Đài, nhà nhà đều có thờ THIÊN NHÃN THẦY để sùng bái hằng ngày và cũng để Xét mình. Thiên Nhãn là hình tướng của Lương Tâm toàn thể làm nền móng cho Cao-Đài, nghĩa là Đền thờ cao trọng hay là Đức tin lớn của Đức Chí Tôn tại thế giới hữu hình này.. 3 Truy nguyên về nguồn cội trên thế giới biết về Thiên Nhãn: * Ở nước Ai Cập: Trong thần thoại cổ Ai Cập, Thiên Nhãn được gọi là Mắt của Thần Horus, Mắt của Mặt Trăng hay Mắt của Thần Ra. Horus là Thiên Thần của Ai-Cập cổ-đại hóa thân là chim ưng. Mắt phải chim ưng là Mắt của Thần Horus cũng được xem là tượng trưng cho mặt trời; Mắt trái tượng trưng cho mặt trăng và thần Tehuti. Người cổ đại tin rằng biểu tượng bất diệt này sẽ hỗ trợ việc tái kiếp, vì thế người ta đã tìm thấy biểu tượng này dưới lớp vải liệm thứ 12 của xác ướp vua Tutankhamun. * Ở nước Đức: Biểu tượng Thiên Nhãn cũng được tìm thấy ở nhà thờ Aachen, miền Tây nước Đức. Nhà thờ này đã được UNESCO xếp vào di sản thế giới. Đây là một nhà thờ Công Giáo La-Mã cổ xưa nhất ở Bắc Âu. Từ năm 936 đến năm 1531, nhà thờ là nơi làm lễ đăng quang cho 30 vị Vua và 12 Hoàng-hậu nước Đức. Đây cũng là nơi còn giữ những di vật thiêng liêng của Mẹ Đồng Trinh Marie. Chúa Jésus và Thánh John the Baptist. * Ở nước Mỹ: tại nước Mỹ (Hoa-Kỳ) vào năm 1776 Đức 57

58 CHƯƠNG II Thượng Đế đã khai khiếu cho ba vị lãnh đạo nước Mỹ là Ông Thomas Jefferson, ông Benjamin Franklin và Ông John Adams được chỉ định để soạn thảo tờ giấy bạc 1 Dola. Sau 6 năm nghiên cứu với sự cố gắng tột bực của Ông Williams Barton và Ông Charles Thompson mới hoàn thành phía lưng của giấy bạc một đồng Dola, trình lên Quốc Hội ngày thông qua một Nghị Quyết chấp thuận thiết kế cuối cùng phía lưng của tờ giấy bạc một Dola có hình Kim-Tự tháp, Con Mắt, một cái cân và một cái chìa khoá. Bên phía lưng của tờ giấy bạc một Dola: con Mắt trực tiếp bên trên Kim-Tự-Tháp là Con Mắt của Thượng Đế. Các tiền nhân sáng lập nước Hoa-Kỳ (Mỹ) có nguồn gốc tôn thờ Đức Thượng đế từ năm 1782 và sự tiến triển của nước Mỹ luôn luôn phải được sự phù hộ của Đức Thượng-Đế. 58 Cái Cân tượng trưng cho Công lý. Chìa khoá lược trình cho quyền uy của Quốc gia Thiết nghĩ, nước Hoa-Kỳ đã lập quốc 225 năm rồi

59 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI (1776). Còn Đạo Cao-Đài mới được khai sáng tại nước Việt-Nam vào năm 1926, tức là mới có 85 năm (2010) nhưng sự thờ phượng Thiên Nhãn của Cao Đài, tức Ngọc Hoàng Thượng-Đế và Cân Công bình cùng chìa khoá mở cửa Bạch-Ngọc-Kinh của Tôn giáo Cao-Đài không thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên với Con Mắt (Thượng-Đế), Cân công lý và Chìa khoá của bên lưng giấy bạc Một Dola của Mỹ mà người Tín hữu Cao-Đài có thể hiểu rằng Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Cao-Đài đã mặc khải cho dân tộc Mỹ biết trước về CON MẮT để thờ Thượng-Đế, cũng như Ngài Ngô văn Chiêu được Đức Thượng-Đế mặc khải cho thấy Con Mắt tại Đảo Phú-quốc vào năm 1925 để thể hiện thờ THIÊN NHÃN là thờ Thầy vậy. Như thế đã rõ biết Đức Chí-Tôn đã chỉ định cho Đức Khổng-Tử và Lão-Tử đến khai sáng nền Đạo tại Trung-Quốc trước kia. Còn ở Mỹ-Quốc thì Đức Chí-Tôn mặc khải cho dân tộc Hoa-Kỳ tôn kính thờ Thượng-Đế từ năm 1776 rồi. Đức Hộ-Pháp nhắc lại sau cuộc Đức Chí-Tôn hành pháp tại Kim-Biên. Đức Chí Tôn nói với Bần Đạo rằng: Một ngày kia: Trung Hoa sẽ thờ phụng Đạo đáo để, còn nước Mỹ sẽ lãnh trách nhiệm đi truyền giáo toàn cầu. Còn như chọn nước Việt-Nam để khai sáng nền Đạo Cao-Đài là Đức Thượng-Đế đã thông cảm lòng trung hiếu thờ phượng ông bà cha mẹ của dân tộc Việt-Nam mãi mãi lưu truyền, cũng như đức tin tôn kính thờ phượng Trời Phật của dân tộc Việt-Nam hết sức tốt đẹp, bất luận Tôn giáo nào du nhập vào Việt-Nam đều được dân tộc Việt Nam tôn kính phụng thờ. Vì thế, Đức Thượng Đế xót thương đệ tử, mới đến hoằng khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ 59

60 CHƯƠNG II Độ trên đất nước Việt-Nam vào năm 1926 còn bị lệ thuộc Pháp mà Đức Ngài đã đến với lời hứa vô cùng sâu sắc: Thầy sẽ dùng Huyền diệu Thiêng liêng vô tận vô biên để giải ách nô lệ cho dân tộc Việt-Nam. Một vinh diệu lớn lao cho dân tộc Việt-Nam là được nắm chủ quyền Tôn giáo Cao-Đài để thực hiện sự Thương yêu và Công bình cho toàn cả nhân loại. Năm 1782, THIÊN-NHÃN được chọn là một phần trong biểu tượng khắc trên Quốc Ấn (con dấu quốc gia) của Hiệp-Chủng-Quốc Hoa-Kỳ. Người ta cho rằng Thiên Nhãn là đề nghị của Pierre Eugene du Simitiere, nhà tư vấn nghệ thuật cho các Tiểu bang thiết kế Quốc Ấn. Trên Quốc Ấn, THIÊN NHÃN được vẽ phía trên một Kim Tự Tháp có 13 bậc, tượng trưng cho 13 Tiểu bang đầu tiên của Mỹ. Toàn bộ biểu tượng ngụ ý Thiên nhãn hay Thượng Đế ban ân huệ cho một nước Mỹ thịnh vượng. Thiên Nhãn trên Một Đô-La Mỹ Ngoài ra THIÊN NHÃN còn được nhìn thấy khắc trên con dấu của Tiểu Bang Colorado. Đặc biệt là trên mặt sau của tờ giấy bạc 1 Đôla của Mỹ có các biểu tượng này. Chính sự việc làm cho nhiều người biết Thiên Nhãn bởi vì Một đồng Đô La của Mỹ rất phổ biến trên thế giới. Đại Ấn của Hiệp Chúng Quốc trên giấy một đồng Mỹ Kim là con dấu duy nhất có hai mặt. Nó là kết quả của sự cố gắng tỉ-mỉ của nhiều nhân vật từ năm 1776 đến năm 1782 trong đó có Benjamin Franklin, Tổng Thống Thomas Jefferson và John Adams. Bề mặt của con dấu cho thấy có con Ó trọc đầu 60

61 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI ngậm trong miệng một biểu ngữ có hàng chữ La-Tinh EPLURIBUS UNUM có nghĩa là Từ cái nhiều ra cái duy nhứt. Trùng hợp thay! Một trong những nguyên lý căn bản của Đạo Cao-Đài là Vạn thù qui nhứt bổn cũng cùng một nghĩa như trên. Điều này chứng tỏ sự đồng nhất vạn vật. Chúng ta tuy thấy nhiều nhưng chung qui có Một. Con Ó được chọn lựa là vì con Ó là một trong những huy hiệu của Ai-Cập. Vì Ai-Cập xưa kia là nước dẫn đầu về huy hiệu. Con Ó tượng trưng cho sức mạnh 61

62 CHƯƠNG II tối cao của Quốc gia. Trên đầu con Ó có một vầng hào quang biểu thị rằng: Phần tâm linh ở trên phần vật chất. Trong vầng hào quang có 13 ngôi sao tượng trưng 13 Tiểu bang đầu tiên của Hoa-Kỳ: Đầu con Ó tượng trưng cho cơ quan Hành pháp. Trước ngực con Ó là một cái khiên (cái mộc) với 13 đường sọc, phần trên cái khiên màu xanh tượng trưng cho cơ quan Lập pháp. 9 cái lông đuôi là cơ quan Tư-pháp. Cái sọc trắng và đỏ của cái khiên là ý nghĩa đầu tiên của một Hiệp-Chủng-Quốc. Theo phong tục Trung Đông nhành ô-liu với 13 lá (13 Tiểu bang) và các hạt trong chân mặt của con Ó tượng trưng cho Hoà-bình. Bên chân trái là 13 mũi tên tượng trưng cho chiến tranh lấy từ phong tục của người Mỹ bổn xứ (người da đỏ). Đầu Ó ngó qua nhành ô-liu bên phải gợi sự mong muốn Hoà bình. Bên trái của con dấu có Kim-Tự-Tháp không đỉnh và Thiên Nhãn. Kim-Tự-Tháp đã được chọn để nhớ lại nền văn minh cực thịnh trong lịch sử Ai-Cập. Kim-Tự Tháp không đỉnh nói lên sức mạnh vật chất của một Quốc gia luôn luôn xây dựng và tiến triển không ngừng. THIÊN NHÃN trên Kim-Tự-Tháp tượng trưng cho Đấng Thượng Đế soi sáng cả muôn vật và cũng chỉ sức mạnh tâm linh luôn luôn ở trên sức mạnh vật chất. Ý nghĩa hàng chữ trên: ANNUIT COEPTIS có nghĩa Ơn Trên phò hộ chúng ta. 62

63 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI NOVUS ORDO SECLORUM (hàng dưới) có nghĩa là Một kỷ nguyên mới trong nghìn năm. Bắt đầu từ năm Dưới chân của Kim-Tự-Tháp số 1776 được viết bằng số La-Mã MSCCLXXVI. Sự trùng hợp của biểu tượng và tư tưởng trên thấy rằng muôn vật trên thế gian này dù muôn phần khác biệt nhưng lúc nào cũng có nhiều điểm giống nhau hay nói cách khác là Vạn thù qui nhứt bổn (Trích Tập san Đại Đạo phổ thông). Kim tự Tháp là Tháp hình chữ Kim 金 63

64 CHƯƠNG II 4 Thiên Nhãn trong thời gian gần đây: Trong khoảng thời gian gần đây, người ta cũng đã sử dụng Thiên Nhãn trong nhiều lãnh vực, ví dụ như văn học, khoa học, thiên văn học, điện ảnh, tài chính. (Mặt trước Một Đồng Dola) * Biểu tượng trong Đạo Cao Đài: Hiện nay Đạo Cao Đài dùng Thiên Nhãn làm biểu tượng chính, thay cho hình ảnh Thượng-Đế tại trần gian. Tuy nhiên trong Đạo Cao Đài, Thiên Nhãn có nhiều ý nghĩa đặc trưng về Tôn giáo: Mắt là chủ tâm thức và ý thức, hai ánh sáng có quyền tối cao, ánh sáng là Thần, Thần là Trời, Trời là TA. * Biểu tượng của trí huệ: Theo Đạo Cao Đài, Thiên Nhãn không thể hiểu đơn giản theo nghĩa đen là Mắt Trời, bởi vì Thượng Đế không có hình thể vật chất. Theo nguyên lý Thể Pháp và Bí Pháp của Đạo Cao Đài, có thể suy ra hai cách để hiểu biểu tượng Thiên Nhãn: 64

65 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI Thứ nhất là hiểu bằng kiến thức: Hiểu bằng kiến thức nghĩa là nhìn sự vật (hình ảnh hoặc văn tự ) rồi so sánh với kho dữ liệu của bộ não để phân tích, chọn lọc hoặc phê phán. Hay nói nôm-na là nhìn bằng hai mắt. Nghĩa là khi nhìn sự vật, luôn luôn dựa vào tối thiểu là hai yếu tố: đúng hoặc sai; có hoặc không. Đây là cách hiểu thông thường của con người từ thời nguyên thủy. Cách hiểu này giúp phát triển văn minh vật chất rất nhanh chóng và đã đem lại cho nhân loại nền văn minh vật chất siêu việt như ngày nay. Tuy nhiên, hiểu sự vật không thông qua kho chứa các kinh nghiệm lâu đời không giải quyết được các vấn đề tâm thức. Ngoài ra, cách này lại tùy thuộc vào trình độ văn hóa hoặc số lượng kinh nghiệm thu thập được của bản thân mỗi người. Những bộ óc siêu việt uyên bác sẽ hiểu biết khác với những người bình thường. Hậu quả dẫn đến sự phân hóa trong nhân loại. Chính vì thế, loài người dù tiến bộ rất cao trong lãnh vực vật chất, nhưng văn minh tinh thần vẫn chưa tiến bộ bao nhiêu. Sự tàn ác, nhẫn tâm, tranh giành, thù hận vẫn có mức độ như mấy ngàn năm trước, thậm chí tinh vi khó nhận ra hơn. Cho đến ngàynay, con người vẫn chưa tạo được một thế giới thanh bình, thịnh vượng và đầy tình thương yêu. Cách thứ hai là hiểu Thiên Nhãn bằng trí huệ: Hiểu bằng trí huệ là một hành vi cực kỳ khó khăn, bởi vì hành vi này không cần sự hiện diện của kiến thức bất kể loại nào. Trí huệ đưa tâm trí trực tiếp vào giữa sự vật không thông qua quá trình phân tích, chọn lọc và phê phán. Nói một cách hình tượng là nhìn bằng một mắt. 65

66 CHƯƠNG II Nghĩa là khi quan sát thì người quan sát cùng vật bị quan sát là một. Vì thế khi nhìn bằng trí huệ, con người mới hiểu được biểu tượng Thiên Nhãn toàn diện. Đây là cánh cổng mở vào một thế giới khác, một thế giới thanh bình thực sự mà người ta vẫn gọi là Thiên Đàng (Paradise) hay Cực Lạc Thế Giới (Nirvana). 66 * Biểu tượng của Đại Đồng: Ngoài ra THIÊN NHÃN còn là biểu tượng của Đại Đồng. Trên thế giới ngày nay, quốc gia nào sống cô lập thì sẽ phải đối mặt với nguy cơ lạc hậu. Càng ngày càng có nhiều quốc gia muốn bắt tay nhau hợp tác trong mọi lãnh vực và như thế những va chạm về văn hóa, phong tục, tư tưởng cũng tăng lên. Phải có cách giải quyết để các quan hệ hợp tác không biến thành đối đầu. Trong hoàn cảnh như thế thì biểu tượng THIÊN-NHÃN của Đạo Cao Đài chính là một đề nghị có ích. Biểu tượng Thiên Nhãn ngụ một ý nghĩa là thống nhất. Nhưng không phải dùng mọi cách áp đặt quan điểm thống nhất lên người khác, bởi như thế là thống trị, làm mất đi tự do của người khác rồi! Nếu trong tất cả các mối quan hệ, ai cũng có quan niệm: Mọi Tôn giáo là một, mọi dân tộc là một, mọi hệ tư tưởng là một thì sẽ tránh được ngộ nhận, hiềm khích và thế giới sẽ trở thành một nơi tốt đẹp hơn nhiều. Bởi Chủ-nghĩa và Giáo-lý của Đạo Cao-Đài là ĐẠI ĐỒNG: Qui Nguyên Tam-Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi, thâu-thập tất cả những bài học của các Tôn-giáo đã ra đời từ trước đến giờ gom về một mối trở lại nguồn gốc, nhất là thờ Đấng Chúa-tể Càn-Khôn vũ-trụ tức là chủ-trương của Đấng Cha lành đã hóa sanh muôn loài vạn-vật và tônkính tất cả các vị Giáo-chủ đã lãnh lịnh Đức Chí-Tôn và

67 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI Ngọc Hư-Cung giáng trần dạy Đạo, ngang hàng nhau như những vị Tôn sư đến làm Thầy của nhân loại. Chủ-nghĩa của Cao-Đài là ĐẠI-ĐỒNG đi từ: Đại Đồng nhân-chủng. Đại-Đồng Tôn-giáo. Đại-đồng xã hội. Như Đức Chí-Tôn đã hứa Que l humanité soit une: une comme race, une comme religion, une comme pensée. Kinh Thuyết pháp có câu: Muốn cho thiên hạđại-đồng, Lấy câu cứu khổ dụ lòng thương sanh 5 Phương pháp tu tập của Tín đồ Cao Đài: Đạo Cao Đài là một Tôn giáo nên không đề ra những biện pháp dựa trên sức mạnh vật chất. Đức Cao Đài Thượng Đế dạy rằng muốn tạo ra một thế giới Đại Đồng, phải bắt đầu bằng tu sửa bản thân và thuyết phục, giúp mọi người xung quanh cùng làm như thế. Tuy nhiên, kết quả sẽ không hoàn toàn phụ thuộc vào con người. Theo nguyên tắc Hiệp Thiên của Cao Đài (con người hiệp với Thượng Đế), con người cứ làm điều Thiện vô điều kiện, kết quả còn lại sẽ do Thượng Đế quyết định. Biểu tượng THIÊN NHÃN THẦY còn ngụ ý một phương pháp tu tập của tín đồ Cao Đài. Con người được cho là tổng hợp của ba thành phần có tác động hỗ tương: thể xác, trí não và linh hồn. Ý chí con người chỉ có thể hoạt động trong phạm vi tinh thần. Từ khu vực này mỗi cá nhân sẽ thông qua ý thức để tác động vào các hành vi của thể xác. Ý thức con người luôn luôn phân hai (đúng hoặc sai) và đó vừa là phương tiện sinh tồn vừa là thảm kịch của nhân loại. Nếu điều chỉnh cho ý thức đạt được trạng thái không phân hai nữa mà hiệp lại làm một, thì 67

68 CHƯƠNG II mọi hành vi của thể xác sẽ phù hợp những nguyên tắc đạo đức của Thượng Đế và ba thành phần: thể xác, trí não và linh hồn sẽ hợp nhất. Đây là trạng thái mà các Tín đồ Cao Đài gọi là Hiệp Thiên (hợp Nhất với Thượng Đế) hay Thầy là các con, các con là Thầy cũng là hiệp Tam bửu: Tinh- Khí -Thần. Trong trạng thái này con người không nhìn sự vật bằng Nhục Nhãn, mà nhìn bằng Thiên Nhãn. Tóm lại, Thiên Nhãn vừa là phương tiện cũng vừa là cứu cánh của người Tu theo Đạo Cao Đài. Diễn văn của Đức Hộ-Pháp đọc tại Đền Thánh, ngày Quí Dậu (1933):... Ta thử so ta cùng điểu thú thì thấy điều ấy rõ ràng. Vạn vật cũng có tánh linh nhưng mà ít hơn vì điểm linh quang rất nhỏ hơn mình, cơ tạo lại dụng phép Linh nầy đặng định phân hạng phẩm của chúng sanh. Cả những chất linh ấy tổng hiệp lại gọi là Vạn linh sanh chúng. Nhờ tánh linh ấy mà chơn linh mới soi đặng tận nơi tối tăm, thấy đặng sự mắt phàm không thể thấy. 6 Thiên Nhãn: Là tượng trưng của nền Đạo mà cả Tín đồ lấy đó để thờ phượng nơi tư gia hay là trong những Thánh Thất. Tại sao Đạo Cao Đài lấy Thiên Nhãn làm tiêu biểu? Chính Đức Chí Tôn có dạy: Nhãn thị chủ tâm, lưỡng quang chủ tể, quang thị Thần, Thần thị Thiên, Thiên giả ngã dã. Con mắt ấy là chủ linh tâm, hai điển-quang của Con Mắt là chủ tể: Thể trên trời là Nhật Nguyệt, thể nơi người là Lưỡng Mục. Điển quang ấy thuộc Thần, Thần 68

69 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI thuộc Trời, Trời ấy là TA vậy. Mặt khác, Thiên Nhãn tượng trưng sự công bình thiêng liêng và cũng tiêu biểu mầm móng cho sự Đại Đồng nhơn loại. Thánh nhơn có câu: Thiên thị tự ngã dân thị, thiên thính tự ngã dân thính : 天視自我民視天聽自我民聽 Nghĩa: Trời xem tức dân ta xem, trời nghe tức dân ta nghe Hơn nữa thời xưa trong Tam giáo thì các vị Giáo chủ giáng trần lập Đạo mang hình hài xác thịt: Nếu phương Tây thì lấy hình thể người Âu, phương Đông thì lấy hình thể ngườiá... Nguơn hội này Đức Chí-Tôn giáng Cơ khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ dạy thờ Thiên Nhãn tất nhiên Ngài muốn con cái của Ngài cọng yêu hoà ái, hiệp tâm với nhau để đi đến chỗ Đại Đồng Thế giới. Thờ Thiên Nhãn Thầy bởi nhiều cớ: Thờ Thiên Nhãn mỗi ngày ra vô đều thấy, bụng tính điều chi sai quấy, dường như có Thiên Nhãn ấy ngó chừng mà dặn rằng: Thầy hằng ở bên con mà để mắt dòm con, con chớ toan điều quấy. Ấy là một chước rất hay để cho mình giồi lòng, trau hạnh. Thượng Đế là một khối linh quang vô cùng vô tận bao trùm cả Càn Khôn Thế Giái, nơi đâu cũng có Ngài, mà nhứt là trong tâm ta, mà Nhãn lại chủ tâm, cho nên thờ Con Mắt là thờ Ngài vậy. Từ khi Đạo bế, tu vẫn hữu công mà không đắc quả. Nhiều người có công luyện Đạo, chỉ biết luyện Tinh hóa Khí mà thôi, còn đem Khí hiệp Thần thì không làm đặng. Vì Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm, mà Thần thì cư tại Nhãn, cho nên thờ Thiên Nhãn là đem Thần hiệp cùng Tinh Khí cho đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm 69

70 CHƯƠNG II «siêu Phàm nhập Thánh. 7 Hiện tượng Thiên Nhãn xuất hiện trong vũ trụ LTS Vào trung tuần tháng , một sinh viên Hoa Kỳ nghiên cứu về Tôn giáo Cao Đài đã thông báo cho chúng tôi biết là Thiên Nhãn của quý Tôn giáo đã được chứng minh qua khoa học không gian. Sinh viên này đã chỉ dẫn chúng tôi vào một trang nhà trên internet... Chụp được ảnh Con mắt Chúa trong vũ trụ Các nhà khoa học nghiên cứu lĩnh vực thiên văn đã chụp được bức ảnh Con mắt Chúa đang nhìn chúng ta từ khoảng cách 700 năm ánh sáng h55 (GMT+7)(VTC News) Bức ảnh Con mắt Chúa dưới đây: 70

71 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI Thực ra, đây chính là hình ảnh mà các nhà thiên văn học đã chụp được từ vụ nổ của một ngôi sao có tính chất giống mặt trời, từ một trong những điểm quan sát vũ trụ được bố trí trên các ngọn núi ở Chile. Các nhà khoa học đã đặt tên cho bức ảnh hiếm hoi này là CON MẮT CHÚA (Eye of God), sau khi họ nhận ra rằng những vầng sáng của bụi và khí bắn ra từ hành tinh này trông giống như hình một con mắt. Điều đặc biệt là CON MẮT CHÚA cũng có phần con ngươi màu xanh nhạt, màu trắng và hồng của mí mắt. Chòm tinh vân tuyệt đẹp. Con mắt Chúa có tên khoa học là Helix. Những nhà quan sát nghiệp dư cũng theo dõi hiện tượng này cho biết, họ chỉ nhìn thấy hiện tượng này mờ mờ, qua những thiết bị quan sát bầu trời không hiện đại như của những nhà khoa học chuyên nghiệp. Các nhà khoa học cho biết, vầng sáng toả ra từ vụ nổ này chiếm diện tích khá rộng khoảng ¼ kích thước mặt trăng. Những chuyên gia này cũng phỏng đoán rằng mặt trời của chúng ta cũng sẽ tự phân ra như hành tinh này sau ít nhất 5 tỉ năm nữa. Bình Nguyên (Theo Daily Mail) CON MẮT CỦA THƯỢNG ĐẾ. *Đây là trích Đặc san thứ bảy, ra ngày , có bài Tin đó đây thế giới nói về CON MẮT CỦA THƯỢNG ĐẾ. Có Tôn giáo đã từng vẽ CON MẮT để làm biểu tượng cho Thượng Đế. Và điều đó đã được khoa học xác minh bằng một bức ảnh của viễn vọng kính Hubble chụp được vào ngày Trong ảnh này, hình Con mắt hiện ra rõ-ràng như ban ngày dù cho ngoan cố thế mấy cũng không thể cải 71

72 CHƯƠNG II được. Chẳng biết đây là sự ngẫu nhiên trùng hợp hay đã được trong hoàn cảnh nào, chi tiết nào? Chuyện này xin nhường lại cho các bậc cao minh phân xử. (Đây là hình Thiên Nhãn trên khung cửa sổ Đền Thánh làm biểu tượng cho 16 tia hào quang: 9 trên, 7 dưới) 8 Lời Dạy Của Ngọc Chánh Phối Sư Về Vẽ Thiên Nhãn Cửu Trùng Đài Ngọc Chánh Phối Sư ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỒ ĐỘ (Tứ Thập Lục Niên) 72

73 B- Tìm Hiểu THIÊN NHÃN THẦY Là Tìm Hiểu Về BÁT QUÁI Số: 68-NCPS/VT Tòa-Thánh- Tây-Ninh NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ Gởi cho Hiền Hữu Đầu Phòng-văn Võ Văn Tịnh. Chiếu vi bằng số: 03/VB/BT phiên hợp bất thường Hội Thánh Cửu-Trùng-Đài Nam-Nữ tại Hậu Điện Đền Thánh ngày 14 tháng 4 năm Tân-Hợi (dl: ) nơi khoản 1 phần nghị sự phái Ngọc toàn Hội chấp thuận kiểu mẫu Thánh Tượng Thiên Nhãn thờ nơi Thánh Thất địa phương do Hiền Hữu vẽ. Chơn mày phải vẽ y như Thiên Nhãn trên Quả Càn Khôn Đền Thánh, màu hồng lợt lại một chút và hào quang hiện ra phải trên 9 tia, dưới 7 tia. Vậy Hiền Hữu hãy vẽ lại cho châu đáo và vẽ trước 100 bức để trấn thần chung một lần. Thi hành xong đệ trình lên Hội Thánh, để trả lại tiền tổn phí. Nay Kính. Tòa Thánh, ngày 21 tháng 4 năm Tân Hợi (dl: 15/5/1971) Kính Tường: NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ (Ấn Ký) NGỌC NHƯỢN THANH Hiến Pháp CQ. BPC Khai Đạo TQ. PT Đầu Sư CQ. CTĐ Nam Phái Thái Chánh Phối Sư Qu. Thượng Chánh Phối Sư 73

74 CHƯƠNG II 74 Qu. Thượng Thống Lại Viện Hồ Sơ lưu C- PHẦN LUẬN ĐẠO 1 THIÊN NHÃN: THẦN THIÊN LƯƠNG CỦA NHƠN LOẠI THIÊN NHÃN là biểu tượng của Đạo Cao Đài nơi Tòa Thánh Tây Ninh: tượng hình một QUẢ CÀN KHÔN đặt giữa Tòa Bát Quái. Trên quả Càn Khôn có ngôi Bắc Đẩu, trên đó vẽ một Con Mắt trái để cho nhơn sanh sùng bái với ý nghĩa thờ Trời cũng là thờ Người. Đây là nguyên lý độc nhứt vô nhị của Đạo Cao Đài ngày nay khởi khai tại Việt Nam, là được làm chủ mối Đạo nhà. Bởi Đức Chí Tôn đến lập Đạo Kỳ ba, muốn bảo tồn triết lý Nhơn sanh trong Đạo pháp nên dạy thờ THIÊN NHÃN là thờ Thần Thiên lương của nhơn loại phân làm tam đẳng: Nguyên nhân, Hóa nhân và Quỉ nhân, nên trong đời ta thấy có những người tánh khí khác phàm: nào là cử chỉ, nào là sở hành, khó cho thường nhơn học đòi bắt chước được. Ấy là nhờ công tu luyện trước kia đã nhiều kiếp mà những người ấy tự có ngôi vị: Thần, Thánh, Tiên, Phật lâu rồi, nay vì tiền duyên phải đến thế đặng trả vay, hoặc vì thâm ân nay đến đặng đắp bồi, hoặc vì mạng lịnh Trời nay phải đến trần đặng dìu chúng, cho nên các bậc ấy tuy cũng mang phàm thể như ta, song điểm linh vẫn còn giữ y nguyên sự minh-mẫn của Thần, Thánh, Tiên, Phật từ bé chí trưởng, trí não người vẫn thông minh: học một biết mười, ngó vào đâu đều hiểu đó, xa nghe rộng thấy hơn người. Như thế là do luật công bình thiêng liêng của Chí Tôn, mà cũng bởi đó nên trong tuồng đời:

75 C- Phần Luận Đạo Kẻ dở khó trộn lộn với người hay, Kẻ tà không phương giành người chánh, Kẻ ngu khó lấn lướt người trí, Kẻ hèn rất phân biệt người trọng, Kẻ thiểu căn khó sánh bậc cao siêu. Nếu chẳng có sự công bình thiêng liêng của Chí-Tôn ta thử nghĩ đời đâu có trật tự; mà tóm tắt lại cái trật tự về phẩm cách thiêng liêng cũng do nơi sự thông minh của HUỆ NHÃN mà biến tướng gọi là phong quang, mà rồi cũng tự nơi Nhãn-huệ hữu trần ấy nên phải nhiều hàng nguyên nhân hễ để mắt dòm đến đâu đều biệt phân được hư thiệt đến đó. Vì vậy nên Chí-Tôn có nói rằng: Cơ lập Ðạo là nhiệm mầu vô giá: biết Ðạo, biết ta, biết người, biết thế, biếtthời, biết dinh hư, biết tồn vong ưu liệt rồi mới có biết hổ mặt thẹn lòng, biết sự thế là trò chơi, biết tuồng đời là bể khổ, biết thân nô lệ dẫn kiếp sống thừa, biết nhục vinh mà day trở trên con đường tấn thối. Có đâu đường đời còn lắm giành xé, hại lẫn nhau, mong chi đặng tầm Tiên noi Phật. Vậy thì rõ sự BIẾT ấy đều do nơi sự lịch lãm tuồng đời mới mong đọat Đạo. Nếu ai là người BIẾT TU đã đọat đắc Nhãn huệ quang minh rồi thì tự nhiên có con mắt tinh đời ấy, hễ ta có con mắt tinh thông rồi, ta để ý dòm quanh bên ta, tức nhiên ta hẳn thấy có lắm bậc Phật, Tiên, Thánh, Thần lẫn lộn theo ta mà dìu dẫn dạy dỗ ta. Các bậc ấy vẫn có một tia sáng suốt trong tướng đi tướng đứng, làm cho phong thể người nhẹ nhàng, lộ bày vẻ thông minh, thậm chí cho đến lời phê giọng nói của người cũng có vẻ thanh tao êm dịu nữa. Cho nên hễ ta trông đến người thì ta để ý kỉnh nhường, ta nghe 75

76 CHƯƠNG II đặng người thì ta sanh lòng yêu mến là như thế. Đời không biết trạng thái sự quang minh ấy ra thế nào, lại ra vẻ vị Phật hay vị Tiên Thánh chi, thì điểm thí một vòng vàng vòng bao quanh cái đầu Tây gọi là Chara, Thích gọi là vòng Kim quang, còn Đấng Chí-Tôn lại gọi là vòng vô-vi hay là vòng Minh châu, để trạng thái rằng não căn của bậc ấy đầy dẫy Đạo Đời là như thế. Tóm tắt lại các Hiền xưa đã đọat đắc ngôi vị Thần, Thánh, Tiên, Phật đều do điểm linh của người đã dày công trau luyện cho ra quang minh mà đắc Đạo. Nếu ta muốn noi bước theo thì để chí tâm học đòi theo gương của các Đấng Phật, Tiên, Thánh, Thần của Chí-Tôn đã nêu nơi Bát-Quái-Đài mà dõi bước. Cần nhứt là tìm bắt sự hành tàng của các Đấng ấy trong buổi đương còn tại thế mà đồ theo tức là khỏi sai đường lạc nẻo. Nhưng đó là cơ hành pháp, vì buổi sau còn cơ luyện Đạo là luyện cho Nhãn-huệ quang minh là trước nhứt. Ấy là phương mầu của Đạo Lão như: 76 Luyện Tinh hóa Khí, Luyện Khí hiệp Thần, Luyện Thần huờn Hư Nghĩa là ta muốn tu tâm dưỡng tánh thì trước hết phải gìn giữ thân thể cho tinh khiết. Hễ thân thể được vững vàng thì trí não đắc an. Hễ trí não đắc an thì tâm trung mẫn đạt, tức là hiệp Thần. Thần đủ lương năng rồi thì Thần có thể xông pha ngàn dặm trong nháy mắt, dầu cho việc lớn lao của Càn Khôn cũng tìm biết được gọi là định Thần huờn Hư, chẳng khác nào các nhà Thiên văn, họ duy có ngồi suy nghiệm trong tịnh phòng mà tìm biết nào là sự

77 C- Phần Luận Đạo vận chuyển của Nhựt, Nguyệt, Tinh tú; nào là thời tiết thay đổi của máy Càn Khôn, ấy là sơ luận mật cơ hành pháp của nhà Thiên văn mà thôi. Đạo Trời vẫn họat bát bao la, cơ mầu nhiệm vốn còn ngàn muôn phương pháp khác nữa. ĐẠO PHÁP: Sơ luận về sự luyện TAM BỬU TINH- KHÍ-THẦN hay là Thể Phách hồn. Theo Đạo giáo, nếu ta muốn tu tâm dưỡng tánh thì trước hết ta phải thường lo giữ gìn thân thể cho được tinh khiết. Ăn uống không nên quá độ, hoặc chẳng nên dùng đồ phẩm vật nào có hại cho thân thể như rượu mạnh, nha phiến hay là những món có chất cay nồng nóng nảy. Rèn tập được như vậy thường ngày thì thân thể ta tránh khỏi sự mỏi mê mệt nhọc, lần hồi sẽ trở nên khỏe khoắn, thơ thới. Hễ thân thể ta được thơ thới thì tánh ta được vững vàng tức là Phách được ôn-tồn. Ấy gọi là Luyên TINH hóa KHÍ. Khi ta luyện tập được nhuần tánh ấy là Khí phách ta được vững vàng. Hễ khí phách ta được vững vàng thì Ngũ quan ta dễ tiếp xúc với Ý. Hằng ngày ta luyện trau được như vậy thì tâm ta lần hồi nảy nở, trở nên thông minh: học thấy, biết, nghe hiểu mau lẹ. Ấy gọi là luyện KHÍ hiệp THẦN. Do theo phép tu luyện của Chí-Tôn dạy trong bài Thi: Có Thần nuôi nấng Thần càng mạnh, Luyện Khí thông thương Khí mới tường. Nhập thất lòng trong gìn tịnh mẫn, 77

78 CHƯƠNG II Đường Tiên nẻo Phật mới nhằm phương. Theo Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ thì lại gọi là Vận Ngũ Khí triều nguơn. Xưa lại kêu là chuyển Lục thông tức cũng là một ý-nghĩa ấy (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân tiếp xúc mau lẹ với Ý). Hễ ta luyện đặng Ngũ Khí triều nguơn rồi, chừng có cớ sự chi sâu xa để tầm kiếm ta mới có thể Thiền định đặng tìm ra cớ sự ấy ra đáo để được. Ấy là đắc Pháp. Thiền định vốn để tìm hiểu sự sâu xa mầu nhiệm gọi là Định Thần huờn hư. ĐỨC CHÍ-TÔN dạy về trạng thái TAM BỬU Ta nên để ý xem xét trong phẩm vật để hiến lễ cho Chí-Tôn. Đấng Chí-Tôn đã dạy ta về sự hành lễ, ta chỉ dùng có ba phẩm vật để cung hiến cho Ngài hằng buổi là Thánh-ý muốn cho ta thường thấy ba món ấy trước mắt cho đặng thấm vào não cân, hầu tìm thấy sự trạng ấy có ẩn vi lẽ nhiệm mầu đặng ta suy nghiệm lần hồi cho đến khi hiểu rõ sự thật của Đạo. Ba phẩm vật ấy gọi là TAM BỬU: TINH biểu tượng bằng HOA KHÍ biểu tượng bằng RƯỢU THẦN biểu tượng bằng TRÀ Có ý nghĩa là trong thế cuộc duy có Hoa là có vẻ tốt đẹp của người đời. Đã gọi Hoa có vẻ tốt đẹp tức là thuyên về hình thức. Màu Hoa lại có năm sắc tức là thể về ngũ Sắc thể hình của nhơn sanh. Vậy thì hoa đã dùng đặng trạng thái ra TINH, thì Tinh tức là hình thể của nhơn vật. 78

79 C- Phần Luận Đạo RƯỢU là nước có chất mạnh (Degré) dùng để trạng thái ra Khí, thì quả nhiên Chí-Tôn muốn mượn ý đó để cho ta tìm hiểu rằng: Thân thể ta phải nuôi dưỡng cho khỏe mạnh hầu có năng lực trong Ngũ Quan. TRÀ dùng đặng trạng thái ra THẦN là Thánh ý muốn gợi nhắc cho ta nhớ rằng: Trong đời người duy có dùng Trà để định Thần. Trong lúc uống Trà, chúng ta có đủ trí não minh mẫn đặng suy nghiệm điều hay lẽ phải Luận về TAM HỒN: chơn Thần, thức thần, lương thần Lương-thần cũng gọi là nguơn linh. Trong lòai người ai cũng có thất tình: Hỉ, Ái, Lạc, Dục, Ai, Ố, Nộ là do nơi Thất phách. Ấy là sơ luận về cơ huyền bí của đạo Trời, còn Đạo đời vẫn có muôn ngàn phương pháp. Người đời cũng cần phải gìn giữ thể phách cho tinh khiết hầu giồi trau Nhãn huệ cho quang minh là trước nhứt rồi mới toan đến sự học hỏi trau luyện phương pháp của ta tùy sự thích hợp mà chọn lựa Nơi trần thế này bất luận là phương pháp nào, dầu Văn, dầu Pháp (Arts): Y-khoa, Luật khoa, Triết học, Đạo đức, Bác vật cũng được thậm chí cho đến các nghiệp nghề thường tình, đều tinh dùng cả thảy, nếu ai thích hợp môn nào thì tìm học môn ấy. Nhưng cần nhứt cũng phải giồi trau Nhãn huệ quang minh trước hết, rồi mong mỏi đến sự luyện trau phương học của ta đắc pháp. Huống chi trong sự học hỏi: dầu Đạo, dầu Pháp cần yếu hơn nữa, là ta phải trạch chọn cho được Minh sư mà chỉ dẫn mới mong đến Đạo Pháp đắc thành, là lời cặn kẽ của Chí-Tôn đã dạy. 79

80 CHƯƠNG II Kết cuộc lại: Những đạo pháp của người đời đã học biết luyện hay đào tạo ra nơi thế này, giúp cho Đời trong cơ tấn hóa đều gọi là món đỉnh chung. Về mặt thiêng liêng ta duy có giữ gìn cái chơn hồn hiền ngu cao hạ mà đắc thành ngôi vị thôi. Vì đó nên có mấy vần thi dạy Đạo của Bát Nương Hớn Liên Bạch, là một Đấng trong Cửu Vị Nữ Phật nơi Diêu-Trì-Cung đã chỉ giáo trong một bài thuyên về LUẬT TẠO HÓA rằng: Chốn đày đọa chớ nên để hận, Lực sanh sanh làm phấn dồi mình. Kiếp phù sinh vẽ kiếp xuân xanh, Kiếp đọa lạc gây thành kiếp hiển. Nào tên tuổi nghiệp nghể hiển hiện, Đã thành hình ra miếng đỉnh chung Ấy đều nhờ phép qúi Hóa công, Tạo bằng cấp tài năng dục học. 80 Học đặng hay lừa lọc thân danh Học đặng biết hưởng mùi khó nhọc, Học cho thông phép thưởng luật hành, Học cho hiểu tài tình xác tục, Học đặng sửa nên trong hết đục, Nước non kia nhờ học mà xinh, Học cho hay làm CHỦ lấy minh, Học quá giỏi đặng binh kẻ dở. Ấy cũng là lẽ thâm-u mầu nhiệm trong sự chúng ta kỉnh thờ trân trọng THIÊN NHÃN tức là Tôn chỉ của ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ mà cũng là bí-pháp của sự tu tạo từ buổi Khai thiên vậy. Xin cô bác anh chị cùng

81 C- Phần Luận Đạo chư Đạo hữu nam nữ lưỡng phái lưu ý. Làm tại Thảo Xá Hiền Cung Tây Ninh Hiệp Thiên Đài: Bảo Văn Pháp Quân (Ký tên) 2 CHƠN PHÁP CỦA ĐỨC CHÍ TÔN Dạy phải đốt trong lòng Quả Càn Khôn một ngọn đèn dầu, thay cho ngọn huệ đăng chiếu rực Tam Thập Lục Thiên: Ở người là tâm, thuộc Hoả làm điểm Dương của lý Thái Cực để vận hành Tiểu Thiên Địa. Nguyên lý này đã áp dụng trong mọi hình thức tổ chức của Đạo Cao-Đài. Qua đồ hình cho thấy hình ảnh: Tam giáo là Dương đỉnh quay lên. Tam Trấn xem như là cơ Âm, đỉnh quay xuống dưới. Âm Dương tương đắc hay nói khác đi đó là 81

82 CHƯƠNG II lý Tam Âm, Tam Dương luôn hòa quyện vào nhau. Từ Thái Cực, Lưỡng Nghi gác tréo sanh Tứ Tượng không tính số toàn là Dương. Chừng biến thêm Tứ âm thành ra Bát Quái là cơ biến hoá thành đại Vũ-trụ, thờ Quả Càn Khôn có đủ lý Âm Dương. Bên trong Quả Càn Khôn làm ba mươi sáu nẹp sườn nằm theo chiều dọc, thể hiện cho Tam Thập Lục Thiên (4x9=36). Nếu cộng 3+6= 9 là con số Cửu của Trời; Mặt ngoài có Thất Thập Nhị Địa (8x9=72) cọng 7+2=9, là con số Cửu của đất. Bề kính tâm 3 thước 3 tấc; 3 nhân với 3 lại là 9, là số Cửu của người, thành ra ba hào Dương của cung Càn là Trời. 3 lần 9 là 27 cũng từ 9 mà ra, là con số định vị cho CÀN KHÔN. Từ đó sinh ra các con số khác. Áp dụng vào con số thuộc Đền Thánh: Chiều cao của lầu chuông (Bạch Ngọc Chung Đài) và lầu trống (Lôi Âm Cổ Đài) đều có chiều cao là 36m 82

83 C- Phần Luận Đạo Chiều ngang của Đền Thánh là 27m. Ngoài ra con số này cũng là qui định cho các Chức sắc Cửu Trùng Đài, Đức Chí-Tôn chọn: Nhứt Phật (ngôi Phật là ngôi Giáo-Tông, chỉ 1) Tam Tiên: 3 phẩm Chưởng Pháp (Dương) 3 phẩm Đầu sư (Âm) Tam thập lục Thánh (36 vị Thánh là hàng Phối sư) Thất thập Nhị Hiền (72 vị Hiền là Giáo sư) Tam thiên Đồ Đệ (3.000 vị Đồ đệ là Giáo Hữu) Nếu lấy số chín mà cộng với «Tam» (9+3=12) của Tam Thiên Thế Giái là con số mười hai. Vốn số Thập Nhị Địa Chi của Phật Mẫu: Từ con số của Đức Chí Tôn: 3 là con số khởi thỉ cộng 9 là con số định vị, tức thị con số Thập Nhị Khai Thiên(12). Vì lẽ đó mà cả chúng sanh phải vận hành theo qui luật tạo đoan giữa không gian và thời gian của một chu kỳ. Chẳng vật thể gì ở ngoài pháp CAN CHI của trời đất biến dịch cả: Chi là hệ ngang, Can là hệ dọc. Như pháp Tứ Tượng ở nơi Tiểu-Vũ-Trụ của người: Trí là hệ thống Âm, Tâm là hệ thống Dương. Người có đủ cả hai không thể thiếu, nếu thiếu chiều dọc là con người quên hẳn nguồn gốc Thiên lương, thảng họ được chiều ngang thì giỏi phần tấn hóa, dầu có tài trí, nhưng tánh ý không hiền. lành. Vậy: 9 là cơ vận-chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy 3 ngôi hiệp 83

84 CHƯƠNG II vào cơ vận-chuyển tức là cơ qui nhứt, nắm cả các Pháp trong tay, mà người nắm Pháp ấy là chủ-tể Càn Khôn vũ trụ, nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy. Nếu cộng lại là 1+2 = 3 tức là ba ngôi đầu tiên. Nếu tính theo hàng là 1 và 2 tức là lý Thái cực đứng trước luật Âm Dương thì thấy rõ quyền năng Chưởng quản trong đó. Vì thế Thầy nói chi chi cũng có luật định, không vật chi ngoài quyền sở định của Tạo hóa hết. Đại Đạo là một triết lý nhân sanh ư Dần. Muốn thấu triệt phải tầm gốc ở nhơn sanh chỗ tình người, bởi nhơn sanh là một phần tối linh của Thượng Đế: Con người đứng phẩm tối linh, Nửa người, nửa Phật nơi mình anh-nhi Không thể theo duy Thiên hay duy Địa mà bỏ Nhân được. Vậy mọi sự sống nhất tịnh nhất động với hệ thống có qui luật nhịp nhàng do máy hành tàng, gọi là «Các hữu Thái Cực» (Mỗi mỗi đều là Thái cực) Nay là buổi NHÂN SANH Ư DẦN 人生於寅 Thầy sanh ra loài người, nhằm ngày Dần, gọi Nhân sanh ư Dần tức là vào Tý thời (1) ngày mùng Một (1) tháng Giêng (1) năm Bính-Dần, Thầy khởi khai nguồn Đại-Đạo, lấy hiệu là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ. Còn Ngài thì tá danh là Cao Đài Tiên Ông Đại-Bồ-Tát Ma Ha Tát rồi Ngài giải rõ trong danh hiệu của Ngài gồm đủ Tam giáo: Nho-Đạo-Thích. Thế nên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ khai nhằm giờ Tý, ngày mùng 1 tháng 1 năm Bính Dần là do nơi đó. Đạo Cao Đài lấy giờ 1, ngày 1, tháng 1, năm Bính 84

85 C- Phần Luận Đạo Dần (dl: ) làm Kỷ nguyên Đạo lịch của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Như thế năm Bính-Dần là năm Đạo lịch thứ nhứt. Đã hiệp đủ ba con số một nhứt, là Thiên đắc nhứt linh, Địa đắc nhứt ninh, Nhơn đắc nhứt thành. Hơn nữa năm Dần là năm thứ 3 (1. Tý- 2. Sửu- 3. Dần) là một sự tròn đầy. Nếu số 1 là số Trời Thái Dương thì số 3 là số của người Thiếu Dương ; Thiên Nhơn tương hợp, nên nói một mà ba, mà ba cũng là một. Số 3 tượng là CÀN Tam Dương khai Thái là hình tam giác đều, tượng Tam giáo. Ngày giờ này Đức Chí Tôn khởi lập Đại Đạo, Tôn chỉ Qui Tam giáo thì Thầy đứng chủ trung Qui Nguyên Hiệp Nhứt. Thế thì số 0 là giao điểm của ba cạnh là ngôi Thượng Đế, nhìn ra ba cạnh là Tam giáo, như vậy trước mắt Thầy Tam giáo vẫn đồng quyền, đồng đẳng, không hơn không kém... 85

86 CHƯƠNG II Nay, trong cửa Đạo, Đức Chí-Tôn đã chọn và cho xuống trước ba vị: Cao Quỳnh Cư Phạm Công Tắc Cao Hoài Sang. Thầy hỏi rằng: Thầy muốn dùng các con mà khai Đạo, các con có dám lãnh trọng-nhậm ấy chăng?. Ba ông bạch rằng: Trong các con từ bé chí trưởng, chẳng thông Đạo-lý chi, duy nhờ Đức Chí-Tôn dạy bảo bấy lâu, thì sự biết chưa đặng trong muôn một, e cho chẳng xứng đáng mà lãnh trách-nhậm lớn-lao ấy. Đức Ngài nói rằng: Chi chi có Thầy gần bên các con, miễn là các con khứng chịu, gắng để trọn tấc lòng, thì chẳng hề chi. Khấn vái xong rồi thì vào nhà phò loan, Đức Chí Tôn giáng dạy như vầy: Thầy cho các con hiểu rằng: Buổi tạo Thiên lập Địa, Thầy sanh loài người ra, nhằm ngày Dần Nhân sanh ư Dần. Vậy từ đây, Thầy dùng các con, làm tay chơn, mà gầy dựng nền Chánh-giáo. Lại cũng kể ngày nay là ngày phát khởi nguồn Đại-Đạo, lấy hiệu Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, còn Thầy thì Tá-danh Cao-Đài Tiên-Ông Đại Bồ-Tát Ma Ha-Tát. Đấng ấy đã thật sự đến dạy Đạo tại phương Nam. Đức Hộ-Pháp có nói rằng: Thầy Dùng Lương-sanh để cứu vớt quần-sanh. Những ngày đầu Đấng AĂÂ gọi ba vị này là Tam vị Đạo-Hữu, một từ thân-mật là các Ông: Cao-Quỳnh-Cư, sau đắc phong là THƯỢNG-PHẨM, tuổi Mậu-Tý (1888) (số 1) Cao-Hoài-Sang, sau đắc phong là THƯỢNG-SANH, 86

87 C- Phần Luận Đạo tuổi Tân-Sửu (1901) (số 2) Phạm-Công-Tắc, sau đắc phong là HỘ-PHÁP, tuổi Canh Dần (1890) (số 3) Đức Chí-Tôn lập Đạo trong buổi Hạ-nguơn này thể hiện cơ Thiên địa tuần-huờn châu nhi phục thỉ, Tôn-chỉ là Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt để đưa nhân-loại đến Đại-Đồng. Lấy theo nguyên-lý của vũ trụ: Thiên khai ư Tý Địa tịch ư Sửu Nhơn sanh ư Dần Trời khai vào hội Tý Đất thành hình ở hội Sửu Nhơn-loại sanh vào hội Dần. Thế nên ba Ngài có ba tuổi ứng hợp với nguyên lý của vũ trụ thì không phải là tự nhiên, Thầy cũng cho biết trước: Khai Đạo muôn năm trước định giờ rồi! Nay là buổi Nhơn sanh ư Dần, đây là phần hành của Đức DI-LẠC. Do vậy mà hình ảnh Ngài ngự ở mặt tiền Đền-Thánh, cỡi CỌP để làm biểu tượng là năm Dần. Phần của Chí Linh ở trong Vạn Linh: Giữa Vạn linh có Chí linh, cũng như trong Dương có Âm và trong Âm có Dương. Đạo Cao Đài đã thể hình hai chữ Thiên Thượng và Thiên Hạ cũng là triết lý Trời Người đồng trị: người trị xác, Trời trị hồn. Nhơn sinh nhìn vào bản thể là một Tiểu Vũ Trụ, phải kết tụ cái pháp thân bằng Thần của Vạn linh. Nhờ vật loại cộng sinh vào đó để làm hình ảnh thiên-lương của Chí linh tức là Trời. Muốn hiệp được cùng Trời thì tâm tu không xa rời bổn thiện, về phần nội tại thì Đại Đạo là cơ qui nhứt của Đức Chí Tôn để đến NHỨT NGUYÊN thì sự luận giải về triết lý Vũ Trụ phải gắn liền với triết lý nhơn sinh ở mặt 87

88 CHƯƠNG II tâm linh. Về Thể pháp: Nơi Bát-Quái-Đài Tòa Thánh Tây Ninh: Hình ảnh trên đây là cái bàn hình Bát-giác, là nơi đặt cái trụ cốt của Quả Càn Khôn. Cái diềm bàn chung quanh được chạm 8 chữ Quốc ngữ TAM GIÁO QUI NGUYÊN NGŨ CHI PHỤC NHỨT, ứng với tám quẻ là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Khi nhân sanh lễ bái thì lạy vào chữ NHỨT NGUYÊN (Lưu ý các quẻ đều hướng vào tâm). Càn (Kiền) khởi ở Tây Nam: KIỀN là quẻ thuần Dương tức là ba hào đều là thể Dương cả, Dương tượng sự mạnh-mẽ, thông sáng là thực, nên 3 hào thể Dương liền nhau ắt có sự mạnh-mẽ vô cùng, vì lẽ ấy mới lấy quẻ Kiền tượng là Trời hay là tượng cái thật là mạnh-mẽ của thiên-hạ. Là khí sanh-quang huy 88

89 C- Phần Luận Đạo động trong trời đất. Kiền là kiện tức là tráng kiện, mạnhmẽ là tính của thể Dương. Đó là biểu tượng đức hạnh và quyền năng của Thượng Đế siêu việt. Một gạch liền của hào Dương là ám chỉ sự toàn (đầy đủ), còn gạch đứt của hào Âm cũng vẫn là hào Dương nhưng bị phân chia nên chưa toàn, chưa đầy đủ vậy thôi. Cũng như trong đời chỉ có thiện, còn ác chẳng qua là chưa toàn thiện chứ cũng chưa phải là nghịch hẳn với thiện, nên mới nói toàn tức là chưa phân chia. Tất cả lý lẽ của vạn vật đều do quẻ KIỀN mà ra! KHÔN cũng do quẻ Kiền mà bị chia hai, chớ không phải ngoài quẻ Kiền có quẻ Khôn. Các quẻ còn lại Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn cũng do từ Kiền mà biến sanh ra khác nhau, chứ không phải ngoài quẻ Kiền mà có được 6 quẻ ấy, cả thảy đều do sự tấn-hoá của Kiền. Do vậy mà Thánh-Kinh của Thiên-Chúa-giáo với huyền thoại Adam nguyên thuỷ (Adam primordial) nói lúc Chúa Trời tạo lập vườn Eden bên hướng Đông có đủ thứ hoa quả và thời tiết ấm-áp của một mùa Xuân vĩnh cữu. Đây là tượng trưng thời hoàng kim Adam Nguyên-thuỷ là người sống trong tâm Thái cực. Đó là hình thức mượn vật Tổ để giải lý Dịch cấu tạo nên Càn Khôn Vũ-trụ loài người. Tất cả đều khởi từ Kiền nguyên hay Nhứt nguyên, triết lý nhơn sanh trong buổi Nhơn sanh ư Dần nên dạy thờ Thiên Nhãn tức là thờ thần Thiên lương của nhơn lọai. Thầy đến lập Đạo Kỳ ba là muốn bảo tồn Vạn linh... Quả Càn Khôn bề kính tâm 3 thước 3 tấc (3x3=9) Lấy 3 hào Dương của cung Càn là Trời nhân lên với 9 là 27 cũng từ 9, là con số định vị cho Càn Khôn: 89

90 CHƯƠNG II Nó cũng có nghĩa là 3x3 hay 3 bình phương là cấp bực tam ngôi biến hóa, vận-hành suốt thông trời đất. Đến số 9 là đến chỗ tột cùng vận-động để hiệp về cơ qui nhứt. Phép toán học thử đến 9 rồi trở về 0 là vậy. Cùng cực cái động tức trở về trạng-thái tịnh nguyên-thủy. Số 9 là cơ vận-chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy 3 ngôi hiệp vào cơ vận-chuyển tức là CƠ QUI NHỨT. Nay Thầy cho THẦN hiệp cùng TINH KHÍ là cơ mầu-nhiệm cho chúng sanh đắc Đạo. Ai biết noi theo chơn truyền Luật Pháp đến ngày công viên quả mãn đặng thọ truyền bửu pháp, chơn Thần siêu thăng. Trong buổi Hạ-nguơn chuyển thế Đức Chí-Tôn khai Đạo dạy thờ THIÊN-NHÃN là thờ Chơn-thần của Chí Linh cho hiệp cùng Vạn-linh tức là thờ ngôi Thái Cực, là thờ THẦY vậy. Do lời Thánh Giáo của Đức Chí Tôn từ buổi khai Đạo dạy thờ THIÊN-NHÃN là chỉ nghĩa Nhứt điểm linh quang của Tạo-hóa. Mọi nhà thờ Thiên-Nhãn sùng bái hằng ngày đặng xét mình, kiểm điểm các điều tội lỗi. Thoảng như trong tâm giục khởi làm việc chi bất bình thì sợ có quyền năng của Trời răn phạt, nên thờ Thiên-Nhãn là phương mầu nhiệm cho mọi người biết tùng thiên lý: Kỳ Hạ-nguơn này Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy Đạo không có chơn-linh giáng sanh nguyên hình như các vị Giáo-chủ trước nữa. Nếu sự thờ phượng riêng một vị Giáo-chủ như buổi trước thì không đủ thống nhất đặng tín ngưỡng của nhơn-sanh trong hoàn-cầu thế-giới. Cho nên thờ THIÊN NHÃN là cơ-quan hiệp cả Chơn-thần của toàn vạn linh và hiệp Tam Bửu: Tinh-Khí-Thần vi nhứt. Ấy là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh. Từ khi các Tôn giáo bị bế: 90

91 C- Phần Luận Đạo Âm thạnh Dương suy, nên THẦN chẳng hiệp cùng TINH KHÍ được, vậy nên người tu hữu công mà không đắc quả. Nay Đức Chí-Tôn khai ĐẠI-ĐẠO đem Chơn Thần huờn nguyên. Bởi THIÊN-NHÃN thuộc về chơn Thần Thần Cư Tại Nhãn... Tâm thuộc Hỏa, Hỏa thuộc Dương, Dương là mặt nhựt. 3 CHỮ NHÃN 眼 TRONG THIÊN NHÃN 1 Tại sao cũng mắt mà khi gọi Mục 目 khi gọi Nhãn 眼? * Mục 目 là con mắt ngó ra ngoài để nhìn mọi sự vật, khoa học gọi đó là cơ quan thị giác. Mắt có hai mới thấy rõ sự vật (gọi là Lưỡng Mục) * Nhãn 眼 là mắt nhìn vào trong. Thường nói là con mắt thứ ba. Trước hết chữ Nhãn kết hợp bởi Mục 目 và Cấn 艮 (là núi). Hình ảnh của Mắt khi nhìn ra bị núi chắn lại nên phải nhìn vào bên trong, tức là sự sáng bằng tâm linh còn gọi là con mắt thấu thị. Muốn được con mắt thứ ba phải luyện, tức là hình thức CÚNG TỨ THỜI đó là luyện Tinh Khí Thần; trước nhứt là luyện Thiên Nhãn. Nhờ cúng kiếng thường nên được phát huệ đó là cách thức luyện đơn của các Tiên gia qua hình ảnh sau: Ngồi Cúng đôi mắt hướng về Thiên Nhãn: Mắt trái gọi là nhựt 日 Mắt phải gọi là nguyệt 月 Mắt nhìn tâm động, nhận thức mọi vật nơi tâm, gọi là minh tâm 明心 tức là hai ánh sáng qui về một điểm do sự hồi quang, rồi sẽ phản chiếu lại, luyện dần sẽ được điểm sáng mới: nhựt 日 hợp với nguyệt 月 thành ra chữ minh 明 là sáng. 91

92 CHƯƠNG II Chữ Minh vẫn còn hai phần tức là Nhựt bên trái, Nguyệt bên phải, nên gọi là nhứt nguyên lưỡng cực (tuy một chữ nhưng họp bởi hai bộ. Chỉ thế giới nhị nguyên của người đang sống thật vô cùng phồn tạp). Nhưng chính vì đó mà người phải tu. Bà Đòan có dạy: Cây trăm thước bắc qua bến khổ, Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp nhơ! * Khi điểm sáng tích tụ lại gọi là kết đơn 丹 (đơn là điểm sáng màu trắng trong cũng gọi là Huệ nhãn, Tâm nhãn, Thần nhãn, Thánh nhãn ) tùy theo trình độ tu tập. Chữ Đơn là do chữ Nhựt và Nguyệt đặt chồng lên nhau, đó là con mắt thứ ba chính là Nhãn 眼. Đây là điểm Đơn nhứt Thái-cực. Điểm Thái-Cực này ở giữa hai chơn mày, do vậy mà người Ấn-Độ hay đính một hột sáng hoặc điểm chấm đỏ làm con mắt thứ ba. 92

93 C- Phần Luận Đạo Khi người tu đạt được sự minh tâm kiến tánh hay là hồi quang phản chiếu là đạt Đạo. Phương-ngôn Tây có câu: Dieu voit tout, Dieu existe partout et à tout moment nghĩa là Trời thấy cùng hết, ở đâu và giờ nào cũng có Trời tất cả. Hình ảnh trên cho thấy hai đường thẳng đặt lên nhau tạo thành chữ Thập, giao điểm bằng 0, tức nhiên đạt được chân lý, vì đã hiệp cùng Thái cực. Hay nói khác đi Lưỡng nghi hiệp thành Tứ Tượng, thì điểm giữa này chính là Ngũ trung là nắm được lý Ngũ Hành, từ đó biến hóa. * Thật ra có ba giai đoạn luyện Thiên Nhãn: Luyện Tinh hoá Khí là hình ảnh hai chữ Nhựt 日 và nguyệt 月 đặt liền bên nhau thành ra chữ Minh 明 (TINH) Luyện Khí hoá Thần là giai đoạn giữa của hai thời kỳ trên, tức là giai đoạn chuyển hoá: Chữ nhựt 日 đặt trên chữ nguyệt 月 thành ra chữ Dịch 易 là biến. Sự biến cũng qua hai vấn đề thuận nghịch, tức là tuỳ theo pháp tu có tiến bộ, có năng nỗ hay không, do ở hành giả (KHÍ) Luyện Thần huờn Hư, tức nhiên chữ nhựt 日 và chữ nguyệt 月 đặt chồng lên nhau, thành ra chữ Đơn (Đan) 丹 Đó gọi Đơn nhứt Thái cực, ấy là (THẦN). Lâu nay: Vì Ngũ Tạng hoạt động mà Ngũ Khí phải hao mòn, suy kém. Nay gặp Tam Kỳ Phổ Độ nhờ Đức Chí Tôn chỉ phép hồi quang phản chiếu cho Ngũ Khí triều tụ nơi khiếu Huyền Quang mà siêu phàm nhập Thánh. Đó là phép Ngũ Khí triều nguyên hay là triều nguơn. Từ nguyên lý này làm chuẩn thằng cho tất cả vạn sự vạn vật trong trời đất đều phải tuân theo, nên nó là công thức sống như lời trong Thánh Ngôn: 93

94 CHƯƠNG II Thầy đã nói với các con rằng: khi chưa có chi trong Càn Khôn Thế giới thì Khí Hư-vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái cực. Thầy phân Thái cực ra Lưỡng nghi, Lưỡng nghi phân ra Tứ tượng, Tứ tượng biến Bát-Quái, Bát Quái biến hoá vô cùng mới lập ra Càn Khôn Thế giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, gọi là chúng sanh. Xét về chữ Minh: Minh là sự sáng, tức nhiên do hai chữ Nhật 日 và Nguyệt 月 hiệp lại gọi mà thành Nhựt Nguyệt hiệp đồng Minh. Nhựt Nguyệt đây là Tâm và Thận. Người xưa gọi Tâm là Ly, là hống. Thận là Khảm, là diên. Khảm Ly cũng là Huyền Tẩn tổng trì môn. Nếu hai thể được dung hòa, ký hiệp thì trí huệ tự khai. Con người khi Khảm (Thận) Ly (tâm) giao-hòa thì sống, phân tán thì chết Khảm Ly giao tắc sanh, phân tắc tử. Còn Huyền Tẩn ở đây là chỉ Âm Dương, Nhật Nguyệt (huyền là Dương, Tẩn là Âm), mà Nhựt Nguyệt có hợp thì mới gọi là Minh. Muốn đắc Minh phải dùng tụ quang khai Thiên Nhãn. Khi hai con mắt duy nhất chú vào một điểm Thần quang thì chơn khí không còn phóng tán. Khi Thần được yên thì vọng thức khó sanh. Phép tụ quang là bước đầu của sơ cơ để hồi quang phản chiếu vào trung huỳnh đặt Nhãn tạng vào đấy thì hai khí: Tâm Thận triều viên, Khảm Ly giao hội, Thủy Hỏa Ký tế, Long Hổ qui triều. Khi mà Nhựt Nguyệt hiệp thành Minh thì khí Trung hòa huân kết thành ĐƠN. Đơn ở đây là thể hỗn nhất hồn dung không còn thấy được hình dáng của Nhựt Nguyệt, đó là Minh đức, Minh linh, đạt đắc diệu lý vậy. Chữ MINH ở đây là một bí quyết tối thượng, là chìa khóa mầu nhiệm mở cửa bí mật cho nguyên căn, sớm đặng nhập 94

95 C- Phần Luận Đạo Thánh siêu phàm, tạo Tiên tác Phật (Trích Trung Thiên Dịch Trần Cao Vân- Trang 374) Thế nên khi gọi là NHÃN 眼 thì chỉ có một. Do vậy mà Đạo Cao-Đài chỉ thờ một Con Mắt trái mà thôi. Mắt trái là Dương. Dương là chỉ ánh sáng tuyệt đối là Lương tri của con người vậy. Đây chính là điểm Thái Cực ở giữa hai chơn mày. Như thế hai con mắt đã biểu tượng bằng hai chữ nhựt 日 và nguyệt 月. Khi cúng có ba trường hợp xảy ra: 1 Thứ nhứt: nhựt nguyệt đặt liền nhau thành ra chữ Minh 明, minh là sáng. Đây là luyện Tinh hoá Khí. 2 Thứ hai: chữ nhựt đặt lên chữ nguyệt thành ra chữ Dịch 易 là biến đổi. Giai đoạn này luyện Khí hoá Thần 3 Thứ ba: là Nhựt nguyệt đặt chồng vào nhau sẽ thành chữ Đơn 丹 tức là Đơn nhứt thái cực. Là luyện Thần huờn hư. Nếu cứ mãi nhìn ra thì hoá ra vọng niệm. Nhưng đối với người tu thì chỉ hướng vào bên trong tâm mình mà thực hiện câu Kinh Nhựt tụng: Làm người rõ thấu lý sâu, Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh Thử hỏi cái lý sâu đó nó nằm nơi nào mà mong sửa lòng trong sạch? Tức nhiên ta phải biết quí trọng những gì mà Thượng-Đế ban cho, nghĩa là phải phát triển điểm chơn linh hay là điểm linh quang cho sáng suốt. Có thế, tức là không dám khinh thường cái Tâm, bởi khinh thường cái Tâm là tất nhiên khinh thường Trời. Nhưng Trời thì chẳng ai dám khinh hết. Bởi quyền năng của Trời 95

96 CHƯƠNG II là ban sự sống cho muôn loài, mà muôn loài luôn hướng về Trời để nhận sự sống ấy, là không khí; mà không khí tức là Đạo. Tức nhiên dù người hay vạn vật lúc nào cũng tìm đến Đạo. Thầy dạy Làm người thì phải biết đạo, không biết Đạo không phải là người. Việc cúng kiến hằng ngày với mục đích là làm cho sáng đức tin, tức là sáng tỏ Thiên lương của chính mình. Khi sáng tỏ được thì tâm linh khoát nhiên đại ngộ. 2 Thiên lương là gì? Ở nơi nào? Thiên-lương ấy mới thiệt là Ta, nó đã do nơi khối Chí-linh của Trời mà sản xuất thì nó là con của Trời, tức nhiên nó là Trời. Nếu do nó mà để Tín-ngưỡng thì mình do Trời mà Tín-ngưỡng. Mình thờ nó tức thờ TRời, ngoài nó ra chẳng ai biết TRời, ngoài Trời không ai biết nó!. Cái sự thông công giữa Thiên lương và Chí-Tôn là phép mầu đoạt Đạo. Vì cớ cho nên Đạo Cao-Đài thờ Thiên Nhãn, nghĩa là thờ cái khối thiên lương của toàn nhân loại. Ấy vậy, Thiên lương mới thiệt là chủ của sự Tín ngưỡng. Nhưng tại sao nói Hoàng Thiên hữu nhãn, nó có liên hệ gì đến con người không? Ba Đấng: Thái Thượng Nguơn Thỉ Hộ Pháp: Lẽ tất nhiên Thầy sanh cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Đức Mẹ Chơn thần của chư Tiên Phật và chúng sanh do bởi Phật, Tiên. Nguyên thỉ có 3 vị do pháp tánh, Đức Chí Tôn bao trùm ba ngôi cũng từ ngôi Thái Cực mới biến suất là: 1- Thái Thượng 2- Nguơn Thỉ 3- Hộ Pháp. 96

97 C- Phần Luận Đạo Thủy là Chơn Âm của Đức Phật Mẫu. Hỏa là Chơn Dương của Đức Chí Tôn. Đạo Tiên nói: Đạo sanh nhứt, nhứt sanh nhị, nhị sanh Tam, Tam sanh vạn vật nghĩa là khi tạo Càn Khôn, Đức Chí Tôn biến ra ba nguơn khí tượng lý. Bắt đầu khởi thỉ nếu luận theo cổ giáo Bà La Môn thì ba ngôi đó tức là Tam Thế Chí Tôn đặt trên đỉnh của Bát-Quái-Đài tượng cơ sáng tạo, hay là Tam Hồn của Đức Chí Tôn. Ngài là Đấng chủ tể Càn Khôn thế giái nắm quyền chưởng quản, hóa dục quần sanh: Lý phản phục do Thái Thượng, Pháp thu liễm do Nguơn Thỉ, Cơ định vị do Hộ Pháp. 4 DÂNG TAM BỬU LÊN ĐỨC CHÍ-TÔN: Người Tín hữu sùng thượng Đức Thượng-Đế bằng cách dâng Tam-Bửu cho Người, đó là dùng các vật làm biểu tượng: Bông tượng trưng cho xác thân, ấy là TINH Rượu tượng trưng cho Trí não, ấy là KHÍ Trà tượng trưng cho linh hồn, ấy là THẦN. TINH KHÍ THẦN gọi là Tam bửu, tức là ba món quí báu nhứt của con người. Còn ở thời Tiền khai Đại-Đạo thì Đức Chí-Tôn chọn lương sanh để cứu vớt quần sanh ấy là ba vị: CƯ, TẮC, SANG tiêu biểu cho Tý Sửu Dần ấy cũng là Tam ngôi nhứt thể là Tam bửu đó vậy. 97

98 CHƯƠNG II Đức Hộ-Pháp nói: Trọng giá của TAM-BỬU mà CHÍ TÔN ưa chuộng để dâng Đại Lễ cho Ngài là nguyên nhân chấm dứt cái hoạ tranh thù đã gây nên trường oan nghiệt cho toàn thế giới. Ngày hôm nay Đức Chí-Tôn đến, Ngài biểu chúng ta dâng cho Ngài ba món gọi là Tam bửu là: Tinh Khí Thần. Ngài thể nó là BÔNG, là RƯỢU, là TRÀ. Bên cạnh chung Trà còn có chung nước Trắng tượng Nhị Khí Âm Dương. RƯỢU là Khí phải đủ ba ly. Ba ly rượu cùng một nguyên lý giữa con người với trời đất thể hiện cơ định vị là ba Nguơn Khí của Thiên Địa Nhơn. Do vậy, mà thời Tiền khai Đại-Đạo, Chí-Tôn cho Thất Nương đến trước nhất Thất nương khêu đuốc đạo đầu, Tiên Nương đến để mở đường xuất Thánh, nên Tiên Nương mới giả danh là Đoàn Ngọc Quế. Sau nhờ thi văn nối liền tiên tục, Tiên Nương mới xưng đích danh là VƯƠNG THỊ LỄ, xong kết tình huynh muội, xem như một đại gia đình thì mới hiện rõ Thánh-Ý của Chí-Tôn là Ngài đến ban cho Việt Nam một nền Vương-đạo lấy LỄ làm đầu, thể hiện rõ ở ba vị Nam tượng Dương quẻ Càn bây giờ thêm Tứ muội, tượng nét sổ xuyên qua quẻ Càn thành ra chữ VƯƠNG 王. Nền Tân giáo này là Vương đạo. 5 VƯƠNG ĐẠO LÀ GÌ? Vương Đạo để trị nước là áp dụng chính sách nhân trị, nghĩa là dùng đức nhân mà trị dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, đó là sự nghiệp của bậc Vương giả, chính 98

99 C- Phần Luận Đạo là người có đạo đức hoàn toàn, lấy điều công chính nhân nghĩa mà trị thiên hạ. Mạnh Tử đã định nghĩa nghiệp Vương Bá, là: Người dùng sức mạnh mà mượn tiếng làm điều nhân, là Bá; người làm Bá tất phải có nước lớn. Người lấy đức làm điều nhân là Vương; người làm Vương không đợi có nước lớn. Dĩ lực giả nhân giả Bá; Bá tất hữu đại quốc. Dĩ đức hành nhân giả Vương; Vương bất đãi đại 以力假仁者霸, 霸必有大國, 以德行仁者王, 王不待大. Nay THẦY đến ban cho một nền VƯƠNG ĐẠO lấy LỄ làm đầu. Tại sao phải mở Đạo ở Toà-Thánh Tây-Ninh? Thầy dạy: Nơi nào Thầy ngự, thì nơi ấy là Thánh-Địa Chi chi cũng tại Tây-Ninh đây mà thôi. Trong buổi tiền khai Đại-Đạo: Lần đầu tiên Thất Nương Diêu-Trì-Cung đến với ba ông: Cư, Tắc, Sang, tức là ba người Môn Đệ trước nhất của Đức Chí-Tôn mà chính Đấng Thượng Đế gọi là Tam vị Đạo-Hữu. Lúc ấy Thất Nương đến để giao duyên kết tình huynh muội, hầu giáo hoá cho ba ông vào con đường đạo-đức cũng là mục đích của Đức Chí-Tôn mở nền VƯƠNG ĐẠO lấy LỄ làm đầu. Tên thật của Thất Nương là VƯƠNG-THỊ-Lễ. Sau đó Bà có cho bài thi, lấy tên LỄ đặt ở đầu câu, là: LỄ bái thường hành tâm Đạo khởi 禮拜常行心道起 Thất Nương Diêu-Trì-Cung đã giáng đàn, cho thi 99

100 CHƯƠNG II dùng làm bài Thài trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung: LỄ bái thường hành tâm Đạo khởi Nhân từ tái thế tử vô ưu. Ngày xuân gọi thế hảo cừu, Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên Tiên Nương VƯƠNG-THỊ-LỄ kính trọng ba Ngài kết làm tình huynh muội. Ba vị sau đắc phong vào cửa Hiệp Thiên Đài là: Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư là Đại Ca Hộ Pháp Phạm Công Tắc là Nhị Ca Thượng Sanh Cao Hoài Sang là Tam Ca Nếu tính theo Dịch lý; thì ba vị là Nam, tượng trưng cho ba điểm Dương, thuộc quẻ CÀN mà Càn là Trời. Còn Tiên Nương làm Tứ muội, là Nữ, là Âm, tức thêm nét sổ nữa vào quẻ CÀN kết hợp thành ra chữ VƯƠNG 王 mà danh tánh bà là VƯƠNG THỊ LỄ 王氏禮 Phải chăng Bà đến để báo trước rằng Đấng Thượng Đế sắp ban cho Việt-Nam một nền Vương-Đạo lấy Lễ làm đầu? Hơn nữa Thất Nương Vương-Thị-Lễ là Nữ, tượng quẻ Đoài. Trên Kiền, dưới Đoài làm nên quẻ Thiên Trạch Lý. Lý giả Lễ dã là vậy. Lễ bái thường hành ở nền Đại-Đạo đó là Cúng Tứ Thời, giá trị Cúng Tứ Thời là hình thức Thiền của Phật. Đức Chí-Tôn đến trước tiên xưng là AĂÂ là Thần Diêu Trì Cung đến mở đường xúât Thánh là Khí 100

101 C- Phần Luận Đạo Ba vị Hộ-Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, là Tinh Lễ dâng Rượu phải đúng Tý và Ngọ, bởi hai thời đó là nguơn Khí của trời đất hưng vượng. Trà dâng phải thời Mẹo và thời Dậu, bởi hai thời đó là nguơn Thần của trời đất hưng vượng. Như vậy Trời Đất cũng có đủ Tinh Khí Thần. Ba nguơn khí của Phật Pháp -Tăng ở ba ngôi: nhứt là Thái Cực, nhì Lưỡng Nghi, tam là Tam Tài. RƯỢU cúng 3 ly, mỗi ly 3 phân, cộng lại cũng là 9. Trừ khi Lễ điện 9 phân vì có một ly. Ba ly rượu tượng ba cõi: Hạ giới, Trung giới, Thượng giới. Mỗi ly rót đủ ba phân, là người có ba phẩm: Nguyên nhân, Hóa nhân, Quỉ nhân. Ba phẩm cấp nhơn sanh phải tu tiến lần lên các cõi để đến nơi tuyệt đỉnh mà Phật giáo gọi là Niết Bàn. TRÀ cúng mỗi chung 8 phân, tượng thể con số Bát Quái hai ngôi ở lý âm dương lưỡng hiệp tức là Thần. Hay nói rõ hơn Đạo Cao-Đài ngày nay Đức Chí-Tôn ban cho hai Bát Quái nữa là mở ra con đường Thiên Đạo, tức là đường về Trời, là con đường Thiêng Liêng hằng Sống. Ấy: Bát Quái Đồ Thiên (Thể pháp Thiên Đạo) Bát Quái Hư vô (Bí pháp Thiên Đạo). Bởi Chí Tôn có Bát Quái, Phật Mẫu có Bát Cảnh Cung. Người tùng theo Đại Đạo thực hành Bát Chánh Đạo. Phần HOA tiêu biểu cho nguơn Tinh, tức hình thể của phẩm tối linh, phải tốt đẹp thơm tho mới đem ra hiến lễ cho hai Đấng Tạo-đoan. Vì con người ảnh hưởng 101

102 CHƯƠNG II pháp giới tạo đoan trong thể Tiểu thiên địa cũng giống như đại thể, do Ngũ khí biến Ngũ hành, cõi đất sanh Ngũ sắc, dầu nơi mặt thế, người hay vật cũng chia ra có 5 màu, nên sự hiến lễ thể hiện phần nguơn Tinh của chúng sinh đối với đạo. Thế nên bài thài Dâng hoa có câu Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ là vậy. Ngũ quả cũng như thế, ấy là tượng cho Tiên Thiên Ngũ Khí và Hậu Thiên Ngũ hành. Từ đó Diêu-Trì-Cung lần lượt đến giáo hóa là: Lục Nương Thất Nương Bát Nương. Nếu xếp ra các số là hình ảnh ba ly rượu trên Thiên bàn, tượng Khí. Ba con số này nếu cộng lại sẽ là 21 chia đều cho 3 là 7, cũng chỉ vào Thất Nương DTC. Như vậy số 7 là chánh trung, nên Thất Nương đến trước nhất để Khêu đuốc Đạo đầu. Số 7 hợp với lý Thái cực sẽ thành 8 là hình ảnh của Bát Nương thật Đấng Chí linh đó vậy. Hai Tiên Nương này đều ở Đông phương. Bây giờ thêm Lục Nương phất phướn truy hồn. Bởi Lục Nương gốc là người nước Pháp, là Tây phương, là Thánh Nữ Janne d Arc; đến trong nguơn hội này là thể hiện Đông Tây hoà hiệp trong tinh thần Tôn giáo Đại-Đồng. Loài người là phẩm tối linh để đại diện cho chúng sanh, nên trong giờ hiến lễ, coi như nguơn Khí của Vạn linh được hiệp cùng Đấng Chí linh. Đạo Cao Đài rất chú trọng lễ Dâng Tam Bửu. Dâng Tam Bửu mỗi bửu 3 lạy, mỗi lạy 4 gật cộng thành 12 cho mỗi lần lạy, như vậy tính chung ba lần là 36 (12x3=36), tổng hai chữ số là 9 (3+6=9), để làm con số định vị của ngôi Dương. Từ khởi thỉ đến chung kết phải giữ đúng lý số của cơ huyền nhiệm, nên sự hành lễ của 102

103 C- Phần Luận Đạo Tôn Giáo Cao Đài biểu tượng pháp-giới tạo đoan có liên quan cùng pháp giới chúng sanh trong Tứ thời hành lễ. 6 KHI CÚNG TỨ THỜI: Về niệm danh Đức Cao Đài trong bốn bài: Niệm hương, Ngọc Hoàng Kinh, Dâng một Bửu, Ngũ nguyện. Mỗi bài lạy ba lạy, mỗi lạy 4 gật, tổng số là: 4 (bài) (4 x 3 (lạy) x 4 (gật) = 48 (4+8=12) tổng hai chữ số là 12, con số Khai Thiên. Như vậy, khởi thỉ bằng bài Niệm hương 3 lạy, 4 gật (12), chung kết cũng con số 12 thì mới đúng pháp. Danh Thầy có 12 chữ, mỗi lạy 4 gật thành 48 chữ, tổng hai chữ số (4+8=12) cũng 12. Vả lại: Bài Niệm hương khởi đầu của Kinh cúng Tứ thời có 10 câu, tượng Thập Thiên can; Bài Khai kinh 12 câu tượng cho Thập Nhị Địa chi. Vậy hai bài Kinh này như cánh cửa để vào tòa lâu đài Đại Đạo. Kinh Phật Mẫu: Thập Thiên can bao hàm vạn tượng, Tùng Địa Chi hóa trưởng Càn Khôn Các Lễ Đại đàn khi dâng sớ đều có câu: Ngưỡng nguyện: Vô Trung Từ Phụ, vậy có nghĩa là gì? (Vô Trung là vượt lên mức trung, tức là Đại, Từ phụ là Đấng Cha lành) Là chỉ Đấng Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, tức nhiên là Đại-Từ-Phụ đó vậy. 103

104 CHƯƠNG II Suy ra: Ngài là Đấng Chúa Tể Càn Khôn: Từ quẻ Càn có thể thay bằng ba dấu chấm từ đó kéo thẳng xuống thành số (một) tượng Thái cực. Quẻ Khôn thay vào bằng 6 chấm ta vẽ thành vòng tròn tượng Vô cực. Dịch nói Vô cực nhi Thái cực. Hiệp cả hai lại thành ra chữ Trung Viết lâu dần thành ra 中. Đó là sự thành hình của hai quẻ Càn Khôn. Hơn nữa: Danh xưng của Đấng Từ Phụ là Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn (10 chữ = Thập Thiên Can) Nhân sanh niệm danh Ngài Nam-Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma-Ha-Tát (12 chữ= Thập Nhị Địa Chi) Chơn truyền buổi Ðức Chí Tôn tạo Càn Khôn Thế Giái, Ngài nắm Thập Thiên Can, Thập Nhị Ðịa Chi trong tay, để định Pháp Chánh Càn khôn Vũ trụ. Trong thời buổi định Pháp Chánh ấn định vào khoảng từ ngày 23 đến 30 sáng mồng 1, họp tại Ngọc-Hư-Cung đặng định luật giới hạn vi diệu cho trái địa cầu, chạy theo khuôn khổ hữu định trong năm cho chí Tân niên là 12 giờ đêm 30, khởi điểm 1 giờ sáng ngày 1 tháng Giêng năm sau. Về Lễ Cúng Đại Đàn niệm danh Thầy trong 7 lần như: 1 Niệm hương, 1 Bài Ngọc Hoàng Kinh, 3 bài Dâng Tam Bửu, 1 Thượng sớ, 1 bài Ngũ nguyện. Mỗi lần lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật, tổng số là: 7 (lần) x 3 (lạy) x 4 (gật) = 84, tổng hai chữ số vẫn là 12, đó là con số Nhứt bổn tán vạn thù, Vạn thù qui nhứt bổn, mới là lý số của đạo pháp biến dịch, chớ dâng đủ Tam Bửu mà mỗi Bửu có 4 lạy (kể cả lạy và gật) thì mất hết 24 lạy chỉ còn có 60 lạy, tức nhiên con số chung kết không trở lại chỗ khởi thỉ là số

105 C- Phần Luận Đạo 7 LUẬN VỀ TRIẾT: Ta phải có cái nhìn quán triệt hai chiều. Triết có nghĩa là triệt cùng một vấn đề nếu triệt thượng luận về vũ trụ, còn triệt hạ thì diễn tả ở sự vật. Nhưng cũng đồng nhất cái lý tạo đoan chỗ khởi thỉ. Khí Hư vô còn trong thời hỗn độn mới biến ra ngôi Thái Cực, nên phần tượng lý Âm trước Dương, có nghĩa là Đạo sanh nhứt, Nhứt sanh nhị, Nhị sanh tam là Âm sanh Dương, đó là khối sanh khí của nguơn vô thỉ, chừng khởi thỉ tạo Càn Khôn Thế Giới rồi do cơ định vị của tạo đoan biến ra pháp-giới chúng sanh mới định danh thì Thiên trước Địa. Bởi Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch là nguơn Tinh, nên buổi Tam Kỳ Đức Lý Đại-Tiên kiêm nhiệm Giáo Tông, cầm quyền chuyển thế vừa sửa trị, vừa định vị cho Thánh Thể của Đức Chí Tôn. Trong nguơn bảo tồn dầu ở chơn trời gốc bể cũng có Bàn-Trị-sự là Hội Thánh Em thay hình thể cơ tận độ của Thầy. Đạo tượng Lý Thái cực do cung Càn biến suất dưới một vạch ngang hai vạch chỏi lên thành hình tam giác mọi vật thể cực lớn từ hữu hình lẫn vô hình chẳng lọt ra ngoài, còn cực nhỏ ví như hạt nguyên tử cũng khó ẩn được bên trong. Với cái không không là Vô cực, giữa Thái cực và vô cực Đức Thái Thượng và Đức Hộ Pháp là đầu mối trung hòa lưỡng cực, nhờ đó mà tạo thành khối điển lực sanh quang cho Càn Khôn Thế Giới, vì thế mà Tôn giáo vẫn quí ba ngôi báu của trời đất là vậy: Người tu Phật niệm Phật Pháp Tăng: Tâm biết thọ giáo là qui y Phật,. Tánh biết giữ giới trì trai là qui y Pháp. 105

106 CHƯƠNG II Thân biết hành thiện là qui y Tăng. 106

107 C- Phần Luận Đạo CHƯƠNG III: Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh Nay, thời kỳ thứ ba, Đức Chí-Tôn mở Đại-Đạo duy chỉ lấy biểu tượng THIÊN NHÃN THẦY để làm Tín ngưỡng. Ngoài Thiên Nhãn đặt trên Quả Càn Khôn còn nhiều dạng Thiên-Nhãn các nơi và chung quanh Đền Thánh cũng là diệu pháp của nền Tân Tôn giáo Cao-Đài. Chung quanh các cửa sổ Đền-Thánh có tất cả 23 khuôn bông sen có hình Thiên Nhãn phần trang-trí này 2 mặt nên có đến (23 x 2) 46 Thiên Nhãn. 46 Thiên-Nhãn Thầy hiệp với: 1 Thiên-Nhãn nơi Quả Càn Khôn. 1 Thiên Nhãn nơi Cung Đạo. 1 Thiên Nhãn trên Phi Tưởng Đài trước Đền. 1 Thiên-Nhãn ở phía trong của Thông-Thiên-Đài Cộng là 50 Thiên Nhãn A. Ý-NGHĨA 50 Thiên Nhãn Thầy có trong Đền Đền Thánh tượng hình LONG MÃ, nhưng lý số và phương vị định theo Bát Quái Đồ Thiên tức là Bát-Quái của ông Thầy Trời (còn gọi là Trung Thiên Bát Quái hay Trung-Thiên-Đồ) tức là do theo số trung bình cộng của tổng số Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái của bốn vị Thánh ngày xưa làm ra là Phục-Hy, Văn Vương, Châu Công, Khổng Tử) ấy là Âm Dương chi số. 107

108 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh * Tiên Thiên Bát Quái có 10 số: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, Số Dương: 1, 3, 5, 7, 9 (là số Cơ hay là số lẻ) 5 Số Âm: 2, 4, 6, 8, 10 (là số Ngẫu hay là số chẵn) Nếu cộng lại cả thảy sẽ là: = 25 (Tổng số Dương) = 30 (Tổng số Âm) Lấy tổng cộng bằng: 55 (Số của Tiên Thiên) * Hậu Thiên Bát Quái dùng 9 con số: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 Cộng 5 số Dương là: = 25 (Tổng số Dương) Cộng 4 số Âm là: = 20 (Tổng số Âm) Tổng cộng các số là: 45 (Số của Hậu Thiên) Bấy giờ hiệp các Tổng số của Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái sẽ có thành số là 100 (55+45) Nếu lấy số trung bình của 100 chia cho 2 sẽ là: 50 (100: 2) (Vậy 50 là số của Trung Thiên đồ tức là số của Bát-Quái Đồ Thiên mà chỉ riêng Đạo Cao-Đài dùng đến. Xưa Trần Cao-Vân được mặc khải Bát quái này). Phải chăng con số 100 này đã được huyền thoại bằng câu chuyện của thủy tổ loài người là Lạc Long Quân phối hợp với bà Âu Cơ sinh ra trăm trứng nở trăm con. Hai ông bà vì nghĩ rằng Rồng Tiên không thể sống chung được, nên mới chia 50 con theo cha xuống biển, 50 con theo mẹ 108

109 C- Phần Luận Đạo lên non. Giờ đây Đạo Cao Đài đã chứng kiến cho cuộc chia đôi ấy. Cũng như Đạo Cao Đài đã quan niệm rằng mẹ Diêu Trì đã cho 100 ức nguyên nhân xuống trần. Vậy phải chăng số 100 ức không ngoài cách lý giải trên? Số 50 này ở đâu để chứng tỏ Bát Quái Cao-Đài? Chính là 50 Thiên Nhãn trong toàn thể Đền Thánh Do lời Thánh giáo của Đức Chí-Tôn từ buổi khai Đạo: thờ Thiên Nhãn là chỉ nghĩa Nhứt điểm linh quang của tạo hoá. Bởi Thiên Nhãn thuộc về chơn Thần: Thần cư tại Nhãn 神居在眼 Thế nên: toàn bộ 50 Thiên Nhãn Thầy đặt trong Đền Thánh Toà-Thánh Tây Ninh là tượng lý số Ngũ của khung Hồng phạm Ngũ hành bao quanh Cửu trù mà ngôi Đền Thánh đã thể hiện qua hình con LONG MÃ phục. 50 là lấy theo số của Trời 5, thì số của đất là 10. Nghĩa là cái số tột cùng của trời đất. Trời tượng bằng số 5, đất tượng bằng số 10 là tượng cái khí thái hoà của Âm Dương giao hoà nhau; hoà nhau một Dương 1 và một Âm 0, cho nên mới có sự yên vui tịch lạc. Vì lẽ đó đến cái mức của một cõi thì có sự nghỉ ngơi nên có sự đại diễn số lấy tượng hoà 5 trời với 10 đất tức là số 50. Nhắc lại vì sao lại nói: Hoà nhau một Dương 1 và một Âm 0? Ấy là nói về hai con số Chúa tể tức Càn Khôn phối hợp lại: Càn thành số 1, quẻ Khôn số 0. Số 0 là Vô cực, số 1 là Thái cực. Ấy vô cực cũng là Thái cực, do câu Vô cực nhi Thái cực 109

110 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh Chung quanh Đền Thánh cho đến tất cả các phần chính yếu bên trong là Quả Càn Khôn nơi Bát Quái Đài đi nữa, các biểu tượng đều có Thiên Nhãn, nhưng trang trí dưới năm dạng thức khác nhau: 1 Một dạng thức là QUẢ CÀN KHÔN trên ấy vẽ đủ 3072 ngôi sao, Thiên-Nhãn đặt nơi ngôi Bắc Đẩu. Thiên Nhãn là tượng ngôi Thái-cực nên không có tia hào quang nào cả. Quả Càn Khôn này đặt trên Bát-Quái Đài. (Thiên) 2 Dạng thức thứ nhì là Thiên Nhãn trên Cung Đạo có cả thảy 36 tia hào-quang sáng chói và nhiều hình thức để thông công với các Đấng vô hình từ xưa đến giờ. Đó là biểu tượng hai quẻ Càn 3 nét, Khôn. 6 nét. (Nhân) 3 Dạng thức thứ ba là Thiên-Nhãn đặt ở mặt tiền Đền-Thánh, nơi Phi-Tưởng-Đài, Thiên Nhãn này có 35 tia hào-quang, tượng trưng Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt, ấy là Tôn chỉ của Đại-Đạo. (Địa) 110 Ấy là đủ Tam Tài: Thiên Nhân Địa 4 Dạng thức thứ tư là một Thiên Nhãn đặt trên bàn thờ, phía bên trong Thông Thiên Đài, nơi đây Đức Giáo Tông đến thông công cùng các Đấng Thiêng-liêng, có 16 tia hào quang, tượng Bát Quái Cao Đài. (Âm) 5 Dạng thức thứ năm là Thiên-Nhãn có 16 tia hào quang đặt trên các khung cửa sổ chung quanh Đền-Thánh, có cả hai mặt: trong và ngoài. Mỗi bên như vậy là 23 Thiên Nhãn. Hai lần là (23x2)= 46. Cộng với 4 Thiên Nhãn vừa kể trên là 50 Thiên Nhãn. Số 50 là tượng trưng Bát-Quái Đồ Thiên hay Trung Thiên Đồ. (Dương) Năm Thiên Nhãn này là tượng trưng Đại-Đồng Tôn

111 1 Thiên Nhãn Nơi Phi Tưởng Đài: Trấn Thần Trước Nhất giáo Cao Đài sẽ truyền bá khắp Ngũ Châu. Năm dạng Thiên Nhãn cũng chia Tam tài và nhị Khí. Lễ trấn Thần Thiên Nhãn 1 THIÊN NHÃN NƠI PHI TƯỞNG ĐÀI: TRẤN THẦN TRƯỚC NHẤT Thiên Nhãn này (35 tia) được làm Lễ trấn Thần vào ngày 6 tháng giêng năm Đinh-Hợi. Đức Hộ-Pháp ra lịnh thiết lễ trấn Thần Đền Thánh. Ngài dạy bên Lễ-viện để nước Cúng giờ Mẹo nơi Báo-Ân-Từ làm phép trấn Thần. (vì Quả Càn Khôn lúc ấy còn để tạm nơi Báo-Ân-Từ). Đúng giờ Mẹo, ngày 6-Giêng-Đinh Hợi, Đức Hộ Pháp mặc Tiểu-phục, dạy Thừa-sử Huỳnh-Hữu-Lợi và Truyền Trạng Phạm-Ngọc-Trấn theo Đức Ngài qua Báo Ân-Từ, vào Bửu Điện, Đức Hộ-Pháp làm lễ xong, dùng 111

112 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh nước Âm Dương cúng giờ Mẹo nơi đây hành pháp, xin Cam-Lồ-Thuỷ và một nhành dương giao cho Huỳnh-Hữu Lợi. Đức Hộ Pháp lấy ba bó hương hành pháp xong thì giao cho Truyền-Trạng TRẤN cầm. Đức Hộ-Pháp đi thẳng ra Đền-Thánh là 9g 25ph. Ngài đứng trước Đền-Thánh và ngó ngay Thiên-Nhãn Thầy trước Phi-Tưởng-Đài rải Cam-Lồ-Thuỷ và cầm bó hương làm phép trấn Thần. Ngài giải thích ý-nghĩa là: Kể từ đây Đức Chí-Tôn hằng để mắt dìu-dắt con cái của Ngài và mong mỏi được vui thấy con cái của Ngài về chầu Ngài, sau khi làm nhiệm vụ Thiêng liêng của Ngài phú thác. (Thánh Tượng nơi đây Trấn Thần trước nhất). Hiệp-Thiên-Đài có 36 Cổ-pháp. Đáng lẽ Thiên Nhãn phía trước ngó ra ngoài có 36 tia hào-quang, nhưng Đức Hộ-Pháp dạy đắp 35 tia, tượng trưng ý-nghĩa Tam thập ngũ môn sanh Thiên căn để làm chứng cho 36 chữ lời thề trong lời Minh thệ của người Tín hữu Cao-Đài. Lời Minh thệ dành cho người mới nhập môn là: Họ gì? Tên gì? Thề rằng: Từ đây biết một Đạo Cao-Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn Đệ gìn luật lệ Cao-Đài, như sau có lòng hai thì Thiên Tru địa Lục (36 chữ) Về Thể-pháp: Thánh Tượng Thiên Nhãn Thầy ở Phi-Tưởng-Đài, tức ở mặt tiền Đền Thánh có cả thảy 35 tia hào quang, tượng trưng Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt (Số 3 chỉ Tam giáo, số 5 là tượng Ngũ chi) Nay là thời kỳ Đại-Ân-Xá của Đức Chí-Tôn, đóng cửa Phong-Đô do quyền năng của Hộ-Pháp vì Ngài đã: 112

113 1 Thiên Nhãn Nơi Phi Tưởng Đài: Trấn Thần Trước Nhất Ném thử Giáng Ma đóng Cửu Tuyền. Thánh tượng Thầy ở Phi Tưởng Đài có 35 tia hào quang Hoặc Kinh Đại Tường cũng đã có lời quyết định: «Khai Cơ tận độ Cửu Tuyền diệt vong». Lời Kinh đó cũng đủ chứng tỏ rằng Cơ Đại Ân Xá của Đức Chí-Tôn quả thật là trọng đại, còn chứng tích nơi đây. Như thế là biết mình đang hưởng tràn đầy hạnh phúc của kiếp làm người trong buổi Hạ nguơn mạt pháp này. Chúng ta trở lại phía trước để chuẩn bị đi vào Tòa Thánh theo lối cửa chánh để quan sát bên trong Tòa Thánh. Lại nữa với ba con số: 3, 10, 5 (Tam, thập, ngũ) là những con số sanh ra trời đất. Số 10 thuộc về Hư vô chi khí. Khí này mới sinh ra Tứ tượng, nhưng duy chỉ có hai 113

114 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh thể là Trời 3 và Đất 5 thì chưa đủ. Phải có người là thể thứ ba mới hợp thành tam tài. 114 Tôn chỉ Đạo Cao Đài là Tam giáo qui nguyên Ngũ chi phục nhứt Về mặt Bí-pháp: Đức Hộ-Pháp nói: Từ ngày Đại-Từ-Phụ và Đại Từ-Mẫu đến khai mở chơn-truyền giao phó ngọn cờ cứu khổ hầu dạy-dỗ con cái của hai Đấng vào con đường chí chơn, chí chánh. Cái khó khăn cho sứ mạng thiêng-liêng là Đại-Từ-Phụ và Đại-Từ Mẫu buộc ta phải: Lấy căn-bản của nền văn-minh tối cổ của Tổ-phụ ta lưu lại trong triết-lý: Tam-giáo qui nguyên ngũ chi phục nhứt. Nếu ta cạn xét ta ngó thấy với một Đạo-giáo mà bảo-thủ chơn-truyền rất khó-khăn quá sức của ta tưởng nghĩ. Huống chi cả triết-lý của các nền Đạo-giáo đương nhiên hiện hữu tại mặt thế này thì nó đã đành quá sức với trí khôn-ngoan tưởng-tượng; song ta phải xét đoán, nếu không như thế thì có phương chi khác mà tạo dựng ĐẠI ĐỒNG THIÊN-HẠ và THỐNG NHẤT các tín-ngưỡng chơn-lý lại làm một cho đặng, ấy là mục-phiêu trọng-yếu của hai Đấng Phụ Mẫu tạo-đoan muốn cho đoạt đến. Còn nếu ta xu-hướng theo một triết-lý Đạo-giáo nào làm căn bản thì nó sẽ trái hẳn với nghĩa-lý tận-độ của Đạo. Cái khó-khăn của ta thi-hành sứ-mạng là do lẽ ấy: Sứ-mạng cao-trọng là phải DUNG HOÀ các tư tưởng Đạo-giáo. THỐNG NHẤT các triết-lý tinh-thần làm một là một điều chưa hề có trí khôn-ngoan nào làm đặng. Nó là một ảo-vọng mà từ trước tới giờ chưa có một nhà triết-học

115 1 Thiên Nhãn Nơi Phi Tưởng Đài: Trấn Thần Trước Nhất nào nghĩ đến. Chính nơi yếu-điểm này Bần-Đạo vẫn ngồi xem quyền Chí-Tôn vô-đối của Đại-Từ-phụ thiệt hiện nơi mặt thế này; vì thầm hiểu rằng chỉ có tay quyền-năng vô đối của Đức Chí-Tôn mới làm đặng mà thôi. Tương-lai của Đạo Cao-Đài sẽ vạch rõ cho toàn thể nhơn-sanh thấy đặng điều ấy Đức Thượng-Phẩm dạy tiếp về cái Tôn chỉ cao siêu mà từ xưa đến giờ chưa một Tôn giáo nào thực hiện được: Nay hạ-nguơn hầu mãn nên Đức Chí-Tôn Ngọc Hoàng Thượng-đế dùng Huyền-diệu Cơ bút lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ với tôn-chỉ: Qui Nguyên Tam-Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi. Lấy Nho Tông chuyển thế, lấy sự thương yêu làm phương-pháp thực-hành chánh-đạo. Đức Chí-Tôn quyết cứu vớt những kẻ hữu-căn thoát vòng khổ hải, tránh đọa luân-hồi hầu vui hưởng một hạnh-phúc vĩnh-cữu. Ý nghĩa số Tam và số Ngũ Về Thiên Nhãn có 35 tia ở Phi Tưởng Đài Từ xưa đến giờ ai cũng biết: * Trời có Tam bửu Ngũ khí: Tam bửu là Nhựt, Nguyệt, Tinh. Ngũ khí là Thán-khí, Đạm-khí, khinh-khí, Dưỡng khí, Hạo-nhiên-khí. * Đất có Tam bửu Ngũ Hành: Tam bửu là Thủy, Hỏa, Phong. Ngũ-hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ * Người có Tam bửu Ngũ tạng: Tam bửu là Tinh, khí, Thần. 115

116 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh 116 Ngũ tạng là Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận. Đó là thể hiện: Thiên Địa Nhân tức là Tam-tài. Bởi lẽ ấy: Phật-giáo Đức Thích-Ca dạy: Tam qui Ngũ giới, Minh tâm kiến tánh, thật hành Bác-ái, Từ-bi. Tiên-giáo Đức Thái-Thượng dạy: Tam bửu- Ngũ hành, tu tâm luyện tánh, thủ cảm-ứng công-bình. Nho-giáo Đức Thánh dạy: Tam cang Ngũ thường, tồn tâm dưỡng tánh, giữ hai chữ Trung, Hiếu mà làm tiêu chuẩn cho cuộc hành-vi. Tóm lại: Phật có Tam qui Ngũ giới, Bát Chánh-đạo làm khuôn thước cho người tu. Tiên có Tam bửu Ngũ hành và Bát môn. Thánh có Tam cang Ngũ thường và Bát điều-mục. * Nay Cao-Đài thể hiện Tôn chỉ Qui Tam-Giáo Hiệp Ngũ Chi để độ Bát-phẩm chơn hồn. * Thực-hành Tam bửu Ngũ nguyện và Bát-Đạo nghị định. * Giữ Tam qui Ngũ giới và Bát chánh đạo. Thử hỏi ngày nay nhân-loại đã văn-minh đến cực thịnh như vầy mà Đạo Cao-Đài vẫn còn giữ khuôn sáo cũ Tam cang ngũ thường liệu có lỗi thời không? Thật sự thì nhân-loại vì văn-minh hóa-học đã cực thịnh mà nền phong-hóa lại suy-đồi đến cực kỳ, nên Đạo Cao-Đài phải lấy lại kỷ-cương làm giềng mối cho cái nhânluân chi đạo, thế nên tất cả phải biến đổi cho phù hợp.

117 1 Thiên Nhãn Nơi Phi Tưởng Đài: Trấn Thần Trước Nhất Đó là chương trình tiến hoá về văn minh tinh thần vậy Tôn chỉ Cao-Đài: Qui Tam giáo hiệp Ngũ Chi Nay, Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Chí-Tôn đến khai Đạo cứu đời dùng Nho-Tông chuyển thế: Lập Tam bửu Ngũ nguyện, là tinh-thần Hiến-dâng và Phụng-sự, tức là thể hiện hai chữ Nhân Nghĩa 仁義 Dựng lại Tam cang Ngũ thường là phục lại tinh thần đạo-đức, dựng lại mỹ tục thuần-phong, phát-huy tinh thần văn-hóa năm huy-hoàng, rực-rỡ; do đó mà Thầy đã sắp sẵn: Nghĩa, Lý, Tượng, Pháp, Nho, Y, Lý, Số đều nhất-quán, từ ngoại dung đến nội-dung. Từ Thểpháp đã hiện hình cả Bí-pháp. Tất cả cũng không ngoài con số TAM và số NGŨ. Bởi hai con số này nó có một tính cách rất quan trọng. Lý-do dễ nhận thấy là tổng hợp hai số lại là 8 (3+5=8). Đó là hình ảnh của Bát-Quái. Mà Đạo Cao-Đài nồng cốt là dựng lại tinh-thần Bát-Quái. Con số 35 có nghĩa là nêu lên Tôn chỉ của Đạo Cao-Đài là Qui Nguyên TAM Giáo Phục Nhứt NGŨ Chi Thầy dạy: Thầy muốn Qui Nguyên Phục Nhứt là độ rỗi cả Môn đệ Thầy và cả chúng sanh về nơi miền Cực Lạc, song le chúng sanh phần đông ham danh quí lợi, mê tửu đắm tình nơi chốn trầm luân, chơi vơi giữa dòng biển khổ. Than biết bấy nhiêu lần mà chúng nó có thấu đáo đâu? Chúng nó trở lại cắn rứt các con, hăm he giành xé các con. Thầy cũng buồn cho đó. [Năm Bính Dần (1926)] 117

118 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh PHÂN TÍCH VỀ SỐ 3 VÀ 5 Theo nguyên lý của Ngũ hành biến hoá, thì nói: Trời số 3 biến sanh Mộc, mà 8 hoá thành nó, Trời số 5 biến sanh Thổ, mà 10 hoá thành nó. Như vậy số 3 và số 5 là hai số Dương thuộc Thiên thể mà sự biến hoá của nó thành Mộc và Thổ. Mộc lấy để biểu dương nguyên hình về thiên thể mà nói, thì Thổ Mộc tượng của Ether và sinh linh khí, bắt đầu là cái gốc của một cái cây lớn ở trên trời mà ngành gốc của nó mọc trước hết tất cả, cái sinh linh khí đó nhuần thắm vào tất cả muôn loài mà từ cõi vô hình thành hữu hình là nhờ cái THỔ số 5 tức là sự biến số 5 là Thổ (đất). Xét cho kỹ bất cứ loài nào, vật nào, từ vàng bạc cho đến thịt xương, gỗ đá, đều cũng biến thành đất tất cả, cho nên số thứ 5 là số tượng hình của cái sinh khí là thiên thể trong cõi vô vi ở trên cõi hữu vi phải thành hình. Thế nên số 3 trên cõi vô vi biến thì cũng có sự biến ứng đối của số 5 trên cõi hữu vi này, sự biến hoá thì vô cùng nên mới nói là rối ren; mà thấy được sự biến hoá của muôn loài tức là cách vật thì mới trí tri, nghĩa là mới đến được chỗ biết, như thế mới toại lòng thấy sự thành tựu các văn vẻ của trời đất. Khi số đã biến hoá đến cùng cực thì trên trời có văn vẻ, dưới đất có cái lý của đất mà đến con số cùng tột thì toại lòng, định được cái tượng hình của thiên hạ. Hoá cho nên DỊCH-LÝ đã được uyên thâm ắt sự biết có thể bao gồm cả Thiên văn, địa-lý và những tượng hình đã xảy ra hay sắp xảy ra trong thiên hạ. 118

119 1 Thiên Nhãn Nơi Phi Tưởng Đài: Trấn Thần Trước Nhất Đây Thánh nhân muốn dạy ta hiểu biết cái công dụng của sự hợp số 3 và 5. Một khi am hiểu sự biến hoá của nó thì cái văn vẻ biến đổi của trời đất, cái tượng hình của vũ trụ nắm trong tay ta cả thảy vậy. Điều ấy mới rõ cái diệu dụng của Đạo DỊCH mà phải đến thời-kỳ này Đạo TRỜI mới soi rõ sự cao siêu, mầu nhiệm của Dịch. Hai con số này có giá trị nhiệm mầu lắm vậy! Nhất định những luật định về Đạo nhơn luân thì không thể bãi bỏ vì tinh thần đạo đức. Bỏ đi là loạn. Trai Tam Cang Ngũ thường. Gái Tam Tùng Tứ đức. Vì sao? Bởi đó là giềng mối của Đạo làm người, nó xuất phát từ trong Bát Quái (tức là từ ý nghĩa của 8 quẻ) mà ra. Nhắc lại những sự lập luận này có in trong Dịch lý Cao Đài I rồi: Bát Quái có tám Quẻ: Hai quẻ Càn Khôn chủ về cha mẹ. Sáu quẻ còn lại là tượng cho sáu con (Trai theo Cha. Gái theo Mẹ) Chấn là trai trưởng. Khảm là trai giữa. Cấn là trai út. Tốn là gái trưởng. Ly là gái giữa. Đoài là gái út Ba trai (Dương): Chấn Khảm Cấn Ba gái (Âm): Tốn Ly Đoài Nhìn kỹ mỗi quẻ có ba Hào. Hào là một vạch, có vạch liền là Dương. Vạch đứt là Âm. Trong một quẻ nếu quẻ nào có ít Dương hoặc ít Âm thì quẻ ấy là Chủ. Ví như: Ba quẻ Chấn, Khảm, Cấn, các quẻ này chỉ có một Dương 119

120 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh (mà có đến hai Âm) nên Dương làm Chủ, vậy nên tượng là Nam. Tính ra thì các quẻ nay có 3 hào nhưng đến 5 vạch. Ba quẻ Tốn, Ly, Đoài cũng tính tương tự như vậy. Nhưng mỗi quẻ có 3 hào mà mỗi quẻ 4 vạch. Từ đó mà Thánh nhân đặt ra Luật về nhơn Đạo: Trai giữ Tam cang Ngũ thường. Gái gìn Tam tùng Tứ đức Như vậy thì với dân Việt Nam nói riêng hay là những dân tộc nào trên thế giới muốn đồ theo kiểu mẫu của văn hoá Việt Nam đi nữa, nhứt định không bao giờ bỏ đi cái truyền thống tốt đẹp này dược. Tuy nhiên sự áp dụng phải uyển-chuyển tuỳ lúc, tuỳ thời mới mong khỏi lạc hậu. Vì trước đây luật gia đình của người Việt chúng ta quá khắc khe và thiếu Công bình, kéo theo sư kém Bác ái nữa. Nay Đức Chí-Tôn đến ban cho nhân loại một Hoà ước mới đó là BÁC ÁI CÔNG BÌNH thì chắc chắn rằng người Nữ phái phải tự vươn lên trong tinh thần Cao Đài. Thánh ngôn Thầy có dạy rõ: Trên Bạch Ngọc Kinh có đủ Nam và Nữ, các con chớ lầm tưởng là phân biệt. Có các Ðấng Nữ Tiên, Nữ Phật 120

121 1 Thiên Nhãn Nơi Phi Tưởng Đài: Trấn Thần Trước Nhất còn lớn quyền thế hơn Nam nhiều. Phần các con truyền đạo kỳ Phổ Ðộ nầy cũng lắm nặng nề; bao nhiêu Nam tức bao nhiêu Nữ; Nam biết thành Tiên Phật chớ Nữ lại không sao? Thầy đã nói Bạch Ngọc Kinh có cả Nam và Nữ, mà phần nhiều Nữ lấn quyền thế hơn Nam nhiều. Ngày 8 tháng sáu Bính Dần (Samedi 17 Juillet 1926) Thầy dạy: Cho Nữ phái vô Thầy dạy. Chư Ái nữ, Thầy vì Tam Kỳ Phổ Ðộ chẳng phân cao thấp, sang hèn. Thầy chỉ khuyên một điều là đạo hạnh các con phải giữ hằng ngày cho nhằm phương pháp Nhơn Ðạo, tức là Tứ Ðức đó vậy. Các con hiểu à! Nền nhơn luân của con nhà Nam Việt chẳng lầm, mà tại các con hay nhiễm thường tình mà hư hoại, nên chi Thầy phải nhắc lại cho các con đừng lầm nữa, nghe các con! Nam phái vào. Các con nghe cho rõ, thường ngày các con trông thấy những điều trái tai gai mắt, các con có biết vì tại sao chăng? Như kẻ làm quan ỷ quyền hiếp bức dân lành, đứa ngu nghịch cha phản bạn, làm rối luân thường, các con có biết vì tại sao chăng?... Tại vô đạo...! Thầy ban ơn cho các con. (TNI/19-12-Bính Dần) Tân Luật: Điều thứ ba trong phần Thế luật ghi rõ: Phải giữ Tam Cang Ngũ Thường là nguồn cội của Nhơn Ðạo: Nam thì hiếu đễ, trung tín, lễ nghĩa, liêm sĩ. Nữ thì tùng phụ, tùng phu, tùng tử và công, dung, ngôn, hạnh. (Ấy là Tam Tùng Tứ đức đó vậy). 121

122 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh Lại nữa Nữ phái Việt Nam đã áp dụng khuôn thước này trong cách ăn mặc. Nhứt là Chiếc áo bà ba (số 3) nhưng có 4 nút (số 4) Ấy thể hiện Tam tùng Tứ đức đó. Cả đến áo dài cũng vậy. Thêm chiếc khăn đội đầu các Bà ngày xưa dùng khăn vuông (tượng Tứ đức) xếp hai góc chéo thành ra hình tam giác (Tượng Tam tùng). 122

123 2 Quả Càn Khôn Thờ Nơi Bát Quái Đài 2 QUẢ CÀN KHÔN THỜ NƠI BÁT QUÁI ĐÀI: Chính nơi Quả Càn Khôn, Thiên Nhãn không có tia hào quang nào cả, vì đây là ngôi Thái Cực Thánh Hoàng 123

124 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh nhưng trên ấy có đủ 3072 ngôi sao. Cộng các số này lại với nhau sẽ là 12= ( ). Số 12 là Số riêng của Thầy. Tôn-giáo Cao-Đài nay đứng về hai phương-diện: * Đạo có Thể-pháp và Bí-pháp của Đạo (Thiên Đạo) * Đời có Thể-pháp và Bí-pháp của Đời (Thế-Đạo). Quan-trọng nhứt là Bí-pháp, vì vậy nên khi Thầy giao cho ông Bính làm một Quả Càn Khôn để làm biểu tượng tín ngưỡng của Đạo Cao-Đài, Thầy có dạy rõ: Bính, Thầy giao cho con lo một Trái Càn Khôn; con hiểu nghĩa gì không? Cười! Chỉ có Đạo Cao Đài nơi Tòa Thánh Tây Ninh tượng hình một QUẢ CÀN KHÔN đặt giữa Bát Quái Đài. Trên Quả Càn Khôn sơn màu xanh da trời, Cung Bắc Đẩu và Tinh tú vẽ lên Càn Khôn ấy. Trên vì sao Bắc-Đẩu vẽ Con Mắt Thầy mà là con mắt trái, là Dương, để cho nhơn sanh sùng bái với ý nghĩa thờ Trời và cũng là thờ Người: Thiên Nhơn tương hợp. Đây là nguyên lý độc nhứt vô nhị, các Tôn giáo từ xưa đến giờ chưa từng có. Trong Đạo Cao Đài thờ QUẢ CÀN KHÔN tượng trưng lý Thái-Cực, mà DỊCH cũng khởi thủy từ Càn Khôn. Thế nên cả hai cùng một gốc. Đứng về Thể pháp, về nghi thức thờ phượng của Đạo Cao Đài đều khởi nguồn từ KINH DỊCH. Về mặt khác, thờ Thiên Nhãn là thờ Đấng duy nhứt, là số 1. Dịch viết Nhất vạn hóa chi căn (số 1 là số căn bản của vạn vật từ đó biến hóa ra). SỐ 1: Là số đầu tiên sau số 0, tức là cái nguồn sanh hoạt trước nhất để biến vi hữu tướng. Tánh-chất đặc-biệt của con số 1: Số 1 chỉ về Thái cực tức 124

125 2 Quả Càn Khôn Thờ Nơi Bát Quái Đài Dương, người hay vật mang số này thì có tánh chuyên nhất và ưa cầm quyền vi chủ. Tánh tình cứng-cỏi, ít chịu thua kém ai, hễ muốn làm là làm cho được nhưng hay nóng-nảy, ít chịu đầu phục nên đôi khi hơi quá mức. Số 1 chỉ cơ động nên dễ thành-công và cũng hay thất-bại, khó điều-hòa. Hay thái-quá nhưng thường là người có danh-giá được đời tônkính. Phép toán đến số 1 là chỉ gặp điều lành nhưng không may-mắn lắm, mà chỉ một tánh chất gì có giá-trị dài lâu. Số 1 là số động, nó vốn là lý Thái-cực suy ra nên nó huyền-diệu, nhiệm-mầu, hiện biến. Nên Đạo-gia nói Thiên đắc nhứt linh, địa đắc nhứt ninh, nhơn đắc nhứt thành. Ngôi số 1 thuộc về ngôi Phật, chủ quyền cai-trị và giáo-hóa vạn-linh. Số 1 thuộc bản thể Hư linh sản xuất nên có quyền thống-trị cả càn-khôn. Bất cứ ở đâu cũng vậy có một vi-chủ là quyền ấy toàn vẹn, còn nhiều chủ thì sanh phân tán, nên số 1 chỉ một uy-quyền tuyệt đối. Người mang số 1 là người có đầyđủ đặc tính can-đảm, ý chí siêu-việt, ảnh hưởng của ngôi Thái-cực hóa-sanh. Thế nên Đạo Cao Đài là Nhất nguyên luận (dưới Thiên bàn nơi Bát Quái Đài ghi chữ NHẤT NGUYÊN Thầy Mạnh Tử dạy Đạo chỉ có MỘT mà thôi. Sách Chân kinh cũng nói rằng Nếu không có Thánh nhân lấy ai làm giềng mối trong thiên hạ, nếu không có Tiên Phật lấy ai trông giữ cơ trời, nếu không có Thiên Chúa lấy ai quản được các việc quần sanh 125

126 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh 3 CÁC THIÊN NHÃN CHUNG QUANH ĐỀN: (Thiên nhãn Thầy trên các khung cửa sổ Đền) Đức Hộ-Pháp đã trấn Thần và có giải thích về các Thiên Nhãn chung quanh Đền Thánh như vầy: Thiên-Nhãn ngó ra ngoài Đền thì để cho Thiện Nam Tín nữ quì ở ngoài sân lạy vào, còn Thiên Nhãn ngó vào Đền vì người Đạo quì ngang sợ ô-uế, không thể coi sóc cho tinh khiết được. Và từ đây dù ở chân trời góc bể nào mà nhân sanh biết hướng về Toà Thánh Cầu nguyện cũng sẽ được hồng ân của Đức Chí Tôn chiếu giám. Thật vậy: Cơ giải-thóat chúng sanh lần này là cuối 126

127 3 Các Thiên Nhãn chung quanh Đền cùng, Đức Chí-Tôn phải ra công dạy-dỗ cho toàn thể tín đồ biết hồi tâm hướng thiện, quay về đường chánh-giáo lo tu tâm dưỡng tánh, lập công bồi đức hầu ngày chung qui được hội-hiệp với Người nơi cõi thiêng-liêng hằng sống. Mở rộng trường công-quả, Đức Chí-Tôn quyết lòng chỉ bảo cho các Môn-đệ có thể lập vị cho mình và độ rỗi nhơnsanh còn sa ngã trong vòng tục lụy. 1- GIỚI THIỆU HÌNH ẢNH: Phương ngôn Tây có câu Con mắt là cửa sổ của linh hồn. Quả thật: phía trong hành lang là vách Đền Thánh, giữa mỗi căn có một khuôn cửa sổ lớn trang trí bông sen, giữa mỗi khung đều có Thánh Tượng. Tất cả là 23 khung cửa sổ, trang trí hai mặt trong ngoài thành ra có đến 46 Thiên Nhãn. Hai mặt trên và dưới khung là hai bụi Sen đối nhau, có đủ hoa, lá, bông, trái và ngó sen, sắp xếp thật mỹ thuật với các con số này nói lên đầy đủ ý nghĩa của đạo pháp. Chính giữa khung là Thiên Nhãn Thầy tức là Con Mắt Trời đặt trong một Tam giác đều. (1) Trong khung cửa sổ có hai bụi sen đối xứng nhau (2) Mỗi bụi sen có hai trái, hiệp lại thành 4 trái sen (4) Mỗi bụi bốn lá sen: tổng cộng trên dưới có 8 lá (8) Ngoài là khung chữ nhựt đứng, nhưng xén bốn góc thành hình bát giác. (8) Từ mỗi bụi sen có ba bông sen nở hồng tươi: trên 3 dưới 3 thành 6 bông. Hai bên sườn của khung mỗi bên có hai bông búp hiệp lại là 4 búp sen tươi. Vậy cả thảy có 127

128 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh 10 bông sen. (10) Toàn bộ có 12 ngó sen trắng quay về nhau. Từ Thiên Nhãn này toả ra 16 tia hào quang sáng chói: trên là 9 tia, dưới là 7 tia. (2 Bát Quái) 2 Ý NGHĨA CỦA SEN VÀ CÁC CON SỐ: *Sen có nhiều ý-nghĩa: Sen là hình ảnh của Phật đạo, chứng tỏ Cao-Đài còn gọi là Phật giáo chấn hưng. Sen là biểu hiệu sự thanh cao, tinh khiết. Sống trong bùn mà không nhiễm mùi bùn, cũng như người tu hành chân chính thì dù có sống trong trần thế mà không nhiễm bụi của thế trần tức là cư trần bất nhiễm. Toà sen chỉ nơi Niết Bàn mới có, ấy là cõi Phật. Các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật, trước kia cũng mang xác phàm ở nơi cõi trần như chúng ta, mà không nhiễm trần, lại tìm chân lý mà độ rỗi chúng sanh. Nhờ tu đắc vào Thiên vị và ngự nơi cảnh Thiêng Liêng Hằng sống.. * Thiên Nhãn là ngôi Thái Cực tức là Trời: Nhãn là chủ của Tâm, khi Tâm ta động thì Trời đã biết. Tâm ta tưởng Trời tức có Trời trước mặt dầu ở phương nào cũng vậy. Ấy Phật tức Tâm, Tâm tức Phật Đức Chúa cũng chỉ Tâm làm nguồn cội của con người. Từ trong Thiên Nhãn toả ra 16 tia hào quang sáng chói (16 tia là 16 đường bán kính của vòng tròn). Thật sự chỉ còn là 8 đường kính, tức là 8 con đường đoạt Đạo, dành cho 8 phẩm cấp chơn hồn. Ngày nay là cơ Đại Ân xá của Đức Chí-Tôn, nếu tu thì thành, dữ thì đoạ. Tính từ đường thẳng ngang đếm lên là 9 tia, tượng 128

129 3 Các Thiên Nhãn chung quanh Đền trưng 9 từng Trời, gọi là Cửu Thiên Khai hoá. Người tu nếu gặp duyên thì kết, không gặp thì tan. Phía dưới có 7 tia tượng trưng Thất tình, mà bất cứ con người nào trên trái đất này cũng có. Nếu không biết tu tâm dưỡng tánh để cho Thất tình dấy loạn thì người sẽ bị say đắm hồng trần, phải chịu trong vòng luân hồi sanh tử. Nay Đức Chí-Tôn mở Đạo là dạy người tu để biến Thất tình thành Thất bửu, hầu được siêu phàm nhập Thánh tránh khỏi đoạ luân hồi chuyển kiếp là vậy. Về Thất Tình ngụ một ý nghĩa là từ trước các Tôn giáo nào cũng diệt thất tình, nhưng Đạo Cao-Đài là chủ trương chế ngự Thất Tình. Bởi vậy con người phải nương theo Cửu Thiên Khai Hoá mà tu hành về hiệp với trời. Tóm lại: Thánh ngôn Thầy dạy sau đây là giải trọn vẹn những yếu lý về khung cửa trang trí Sen này: Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong Càn Khôn thế giới thì Khí Hư vô sanh ra có một Thầy và Ngôi của Thầy là Thái cực (Mắt trời) Thầy phân Thái cực ra Lưỡng nghi (hai bụi sen) Lưỡng nghi phân ra Tứ Tượng (4 trái sen) Tứ tượng biến ra Bát Quái (8 lá sen) Bát Quái biến hoá vô cùng mới lập ra Càn Khôn Thế giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, gọi là chúng sanh Thái cực sanh Lưỡng nghi là hai bụi sen: Vào thời kỳ chưa phân trời đất vẫn còn mờ mờ, khi Thái cực nổ mới có ánh sáng. Khí thanh bay lên làm Trời, khí trược chìm xuống làm đất. Ấy là Thái cực sanh Lưỡng 129

130 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh Nghi biểu tượng bằng hai bụi sen. Thầy dạy: Vạn-vật trong Càn-khôn vũ-trụ duy có một cái lý duy nhất gọi là Hư-Vô, Hư-vô mới chuyển biến phát sinh một phẩm tối linh nguyên-thủy là Thái-cực tức là Thầy. Thầy lại phân tánh ra hai lý đối nghịch lẫn nhau tương khắc, tương hòa, tương sanh, tương diệt Lý ấy là Âm với Dương theo danh-từ Nho-gia thường gọi. Nếu gọi theo nguyên-thủy của nó thì là lý Đơn nhất Thái-cực. Thái-cực là chủ tể tất cả vạn hữu thường tồn bất diệt. Thái-cực mới chiết tánh ra Pháp, tức Phật-Mẫu mà tạo cơ hữu tướng. Nhưng lý Thái-cực rất vô biên Huyền diệu nhiệm-mầu. Khi chưa tạo Càn-Khôn thì chẳng có chi tất cả. Thái-cực mới xoay lộn vòng tròn trong khí Hư-vô. Rồi vì cái xoay lộn ấy mà do một Huyền-vi mầu-nhiệm tối đại tối linh. Thái-cực mới cọ xát với khí thể bên ngoài, mới biến sanh nhứt thể là Pháp như Thầy đã nói. Cái lý này thật mầu-nhiệm vi diệu lắm, khó mong diễn tả. Lưỡng Nghi sanh tứ tượng ấy là 4 trái sen, mỗi bụi sen có hai trái hiệp lại mà thành. Cũng như khi có trời đất mới phân định 4 hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc. Tứ Tượng biến thành Bát Quái. tổng cộng trên dưới có 8 lá sen: mỗi bụi sen có bốn lá. Ấy là khi trời đất đã định bốn phương rồi mới sinh ra Tám hướng là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Số 10 là do 6 bông sen nở và 4 bông sen búp hiệp cả thảy có 10 bông sen, tượng cho Thập Thiên Can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí. Số mười cũng gọi là Thập Phương Chư Phật, vì nơi Niết Bàn mới 130

131 3 Các Thiên Nhãn chung quanh Đền có toà sen, ấy là cõi Phật. Các Đấng Thần, Tiên, trước kia họ cũng mang xác phàm ở nơi cõi trần mà không nhiễm trần, lại tìm chân lý mà độ rỗi chúng sanh. Họ đắc vào bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật. Ví như sen là vật dưới bùn mà không nhiễm bùn, lại có thanh danh là Liên hoa hay là toà sen nên cho là Cõi Phật. Số 12 ngó sen trắng tượng trưng thập Nhị Địa Chi: tức là 12 con giáp: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Thầy dạy: Thập Nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa của Càn Khôn Thế giới: nắm trọn Thập Nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy. Ý nghĩa Số 12: Số 12 là số đặc-biệt tức là 9+3, 9 là cơ-quan vận chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy ba ngôi hiệp vào cơ vận-chuyển tức là cơ qui nhứt, nắm cả các pháp trong tay, mà người nắm pháp ấy là Chủ-tể Càn-Khôn vũ-trụ. Nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy. Nếu cọng lại là 1+2=3 tức là ba ngôi đầu tiên. Nếu tính theo hàng là 1 và 2 tức là lý Thái-cực đứng trước luật Âm Dương thì thấy rõ quyền-năng Chưởng-quản trong đó. Vì thế nên Thầy nói chi chi cũng có luật-định, không một vật chi ngoài quyền sở-định của Tạo-hóa hết. Nhưng luật công-bình có hai phần: một Âm, một Dương biến động; dù ngay trong luật-định cũng có, ở đâu cũng có cái lý mâu thuẫn trong đó, hễ có mâu-thuẫn tương-quan là có biến sanh. Hết vòng biến đổi mới trở về trạng-thái đầu tiên là 1, rồi từ 1 trở lại trạng-thái Hư-vô cho nên người tu đắc nhứt qui cơ là thành Đạo nghĩa là hiệp cùng lý Thái cực để trở lại 131

132 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh trạng-thái tĩnh-lặng nhiệm-mầu. Trong là lý Hư-vô phát sanh một Thái-cực. Thái-cực biến-hóa 3 ngôi, mỗi 3 ngôi lại biến-hóa nữa thành ra Cửu chuyển. Tam giác tượng cho lý Tam tài: đây là khung hình Tam giác đều, tượng cho ba ngôi Thiên Địa Nhơn. Ba mà một, một cũng là ba Ấy là tam Âm tam Dương, là hình ảnh của quẻ Càn 3 hào và Khôn 3 hào. Chỉ có người đạo-đức mới đứng trong hàng Tam tài mà thôi. Bởi người có ba hạng: Nguyên nhân, Hoá nhân, Quỉ nhân. Nay là cơ Đại Ân Xá của Đức Chí-Tôn, nên Thầy cho về cùng một lượt. Kinh Phật Mẫu có câu: Trùng huờn phục vị Thiên Môn. Nguơn linh, Hoá chủng, Quỉ hồn nhứt thăng Đó là biểu tượng trong khung hình: trên có 3 bông sen dưới có 3 bông sen nở tươi nói lên lý Tam Tài vậy. Khác với buổi đầu là các hạng người này về tuần tự : Nguyên nhân rồi đến Hóa nhân, sau cùng là quỉ nhân,. Kinh rằng: Tuần huờn phục vị Thiên Môn, Nguơn linh, Hoá chủng, Quỉ hồn nhứt thăng Vì lẽ đó người Đạo sẽ không thắc mắc tại sao trong cửa Đại Đạo ngày nay có nhiều biến thái, kẻ phá, người xây, kẻ tu chân chính, người toan sửa đổi 132 Thầy có dặn dò: Thầy đã nói: Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con; nó hằng thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con. Thầy lại khuyên các con gìn giữ bộ thiết giáp ấy cho đến ngày hội hiệp cùng Thầy. Ấy vậy Đạo là vật rất hữu ích như giáp hữu ích cho thân các con,

133 3 Các Thiên Nhãn chung quanh Đền nếu các con bỏ giáp thì thân các con ra trần lổ; còn bỏ Đạo thì các con ở dưới phép Tà Thần (TNI/35) Thử hỏi hổ lang là ai.? Xưa nay thường có ý nghĩ rằng bọn hổ lang là những kẻ lòng lang dạ sói chuyên làm khổ cho mọi người. Trên không kỉnh Trời, dưới không kỉnh đất, vì: Thầy chẳng dùng sự chi mà thế gian gọi là Tà quái dị đoan, mà nếu xảy ra có một ít dị đoan trong Đạo đã dùng lỡ ấy là tại nơi tâm của vài Môn đệ đó, nếu chẳng giữ theo lẽ chánh mà hành Đạo và bày biện nhiều sự vô lối thì trong ít năm sau đây, sẽ trở nên một mối Tả Đạo, mà các con đã từng thấy (TĐII /42) Quẻ Càn 3 nét sẽ tạo nên hình Tam giác đều là chỉ Tam Giáo: Phật Tiên Thánh. Dù Tôn giáo nào cũng do nơi Trời mà có, Tôn giáo nào cũng có qui củ chuẩn thằng ấy là luật (tức là sự mực thước). Thầy giáng Cơ dạy: (Thánh-ngôn II trang 62). Các con đủ hiểu rằng: Chi chi hữu-sanh cũng do bởi Chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận. Cái sống của cả chúng sanh Thầy phân phát khắp Cànkhôn thế-giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hóa ra thêm; nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến-hóa. Mỗi mạng sống đều hữu căn, hữu kiếp, dầu nguyên sanh hay hóa-sanh cũng vậy, đến thế này lâu mau đều định 133

134 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh trước, nếu ai giết mạng sống đều chịu quả báo không sai; biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đọa luân-hồi mà ra đến đỗi ấy. Như vậy chỉ có 23 Thiên Nhãn Thầy được trấn Thần thôi, còn 23 Thiên Nhãn bên trong không được Trấn Thần, Thầy cũng bày tỏ lý do. Tại sao phải là con số 23 mà không là số khác? Đây cũng là số Dịch chỉ Càn Khôn Thiên Địa. Bất cứ nơi nào cũng có một quyền hành tối thượng của Đức Chí-Tôn đặt để vào đó. Cầm cả quyền hành vô lượng nơi tay, Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu diệt nó đặng, nhưng mà phép Công bình Thiêng liêng chẳng phải nên vậy; Ấy là cơ mầu nhiệm cho các con có thế lập công quả (TNI/47) Quẻ Càn 3 nét (là 3 hào Dương) Quẻ Khôn 3 nét (là 3 hào Âm, tức nhiên quẻ Khôn cũng ba hào nhưng đến 6 vạch. Vậy quẻ Khôn nhiều gấp 2 lần quẻ Càn). Thế nên nói theo một hình thức khác là Càn 3 Khôn 2. Ngụ một ý nghĩa là Tham Thiên Lưỡng địa. Danh từ này trong Thuyết quái truyện Kinh Dịch giải rằng: Có thể lìa nhau được là Tam, không thể lìa nhau được là Tham. Có thể lìa nhau được là Nhị, không thể lìa nhau được là Lưỡng. Ý nói đến căn cơ sự biến hoá sinh thành của vũ trụ. THIÊN NHÃN TRÊN KHUNG CỬA CÓ 16 TIA HÀO QUANG 134

135 3 Các Thiên Nhãn chung quanh Đền Tại sao phải diễn là 8 đường kính của vòng tròn? Với Đại Đạo ngày nay thì: Phép học âý tức là đi thẳng ngang đường kính của hình tròn chớ không phải đi quanh-quẩn theo vòng chu-vi. Nhưng nếu chỉ đi tắt thì chỉ biết phớt qua chớ không thật thấu hiểu. Vì vậy mà dù cho những Chơn-linh cao trọng cũng phải giáng thế ở các cõi địa-cầu để học hỏi từng phần vi-diệu mới mong đoạt lý cao thâm. Bài học của họ nhanh chóng hơn những Chơn linh thường nên cũng mắc-mỏ hơn nhiều. 135

136 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh 4 THIÊN NHÃN ĐẶT BÊN TRONG THÔNG THIÊN ĐÀI (Bàn thờ Thánh Tượng Thầy bên trong Thông Thiên Đài) Bài học này cũng lý giải cho Thiên Nhãn đặt bên trong Thông Thiên Đài (số 5), làm nơi Giáo Tông đến đây cầu hỏi thiêng liêng, thông công cùng các Đấng vô hình để hỏi về đạo pháp. (nếu Thiên Nhãn ở khung cửa sổ của Đền là Dương, thì Thiên Nhãn nơi đây là Âm), 136

137 4 Thiên Nhãn đặt bên trong Thông Thiên Đài họp thành cặp âm- dương nhị khí, đối với 3 Thiên Nhãn trên kia là Tam tài thêm vào Nhị khí là NGŨ HÀNH. Tại sao trong Toán học từ xưa đến giờ lấy Tâm vòng tròn là 0? Số O là số vô-vi nó có tánh-chất trung tính, nhiệm yếu, hiền-hòa, sáng-suốt. Vật mang số 0 là vật trung dung, nhậm lẹ, không khuynh-đảo nhưng chưa tiến-hóa. Người mang số 0 là người lưỡng tính, phần tấn-hóa chưa nhiều.. Số 0 chỉ năng-lực tiềm-ẩn nhưng chưa phát-triển đúng mức. Nhưng khi nào một vật chi được thử về 0 ấy về lẽ Đạo, nhưng qui cơ tịnh lặng hoàn-toàn được gặp nhiều chân phúc quí báu. Không không ấy thiệt lý trường sinh Phép bói-toán tính đến số 0 là rốt-ráo vẹn toàn, viênmãn. Số 0 biến dịch vòng quanh thành nhiều bản thể. Số 0 sẽ là cơ khởi đầu cũng như là cơ chót hết, nó tiếp nối giữa hai đường tấn-hóa và qui-nguyên. Hai đầu tấnhóa, qui nguyên, nó ở giữa làm mấu chốt. Qua các luận giải trên có thể diễn tả bằng đồ hình như trên đó gọi là Sự tiến hoá của Bát hồn. Tám đường thẳng xuyên qua tâm chính là tám đường kính của vòng tròn. Tám vòng cung là tượng-trưng cho Bát-phẩm chơn hồn do Phật-Mẫu sản-xuất nơi Kim Bàn, vì cơ-quan sản xuất vạn-linh thuộc PHÁP. Kinh Phật Mẫu rằng: Thiên Cung xuất Vạn linh tùng Pháp, Hiệp Âm Dương hữu hạp biến sanh Tám đường thẳng xuyên tâm âý tượng-trưng cơ đoạt Đạo. Chúng sanh tu-luyện phải do nơi Pháp mới 137

138 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh thành. Như vậy Bát phẩm Chơn hồn đi theo chu kỳ này. Khởi từ: Cơ tấn hoá Cơ phục nguyên Số 1 là Vật chất hồn Số 2 là Thảo Mộc hồn. Số 3 là Thú cầm hồn Số 4 là Nhơn Hồn Số 5 là Thần hồn Số 6 là Thánh Hồn Số 7 là Tiên hồn Số 8 là Phật hồn Mỗi hồn đều có tánh chất riêng: Từ vật-chất đến nhơn hồn là cơ tấn-hóa, nên có hình chữ VẠ N số (1), là chỉ cơ đi xuống trần để tạo nghiệp trần-duyên. Tạo cho đầy-đủ quả nghiệp thành khối gia-sản rồi bắt đầu đi lên để học điều mầu nhiệm, nên Cơ phục nguyên ở chữ VẠN số (2). Chữ VẠN ấy là chỉ cơ biến-hóa vô cùng đó vậy, nên vạn-vật bất kỳ là vật chi có TU cũng ắt có thành Tám đường thẳng ấy phát xuất từ đâu? Qua đồ hình thấy rõ trục thẳng đứng: Chấn Đòai là trục tung. Trục ngang là hoành: Khảm Ly. Hai đường này giao nhau tại tâm của vòng tròn tạo thành góc 90 o đó là tâm 0. Nhưng trên đồ hình này: hai đường thẳng giao nhau thành Tứ tượng, nên tâm của vòng tròn là 5 tức thuộc Ngũ trung vẫn không sai. Tám đường thẳng 138

139 4 Thiên Nhãn đặt bên trong Thông Thiên Đài này phát xuất từ 8 đỉnh của hai tứ giác (hai hình vuông) và hai giao điểm của hai Tam giác. Ấy là thể hiện phương tu tắt của Đạo Cao-Đài đó, Tức nhiên là thi hành Tam Lập: Lập Đức, Lập Công, Lập Ngôn, cũng là thực hành Đạo NHÂN NGHĨA như một lịnh truyền đặt trước Đền Thánh đó. Nếu người tu làm được như Chúa Cứu Thế ngày xưa là được hiệp với Trời. Ngay xưa Chúa Jésus: Ðấng ấy vô tận vô biên, thấy nạn của nhơn loại đã dẫy-đầy, Ngài chỉ xuống tại mặt thế nầy làm con tế vật đặng chuộc tội tình cho nhơn loại, mà lại còn đem quyền của Chí-Tôn để nơi tay của nhơn loại, bàn tay đó đã ký đệ nhị Hòa-ước cho nhơn loại, nó làm cho Ngài thế nào? Do tay Ngài ký tờ Hòa ước với Chí Tôn, nên hai tay của Ngài bị đóng đinh trên cây Thập tự giá. Hai chân của Ðấng ấy đã đi trước nhơn loại dìu đường hằng sống cho họ, rồi hai chân của Ðấng ấy cũng bị đóng đinh trên cây Thánh-Giá, còn trái tim yêu ái nhơn sanh vô hạn ấy bị một mũi kiếm vô tình đâm ngay cạnh hông của Ngài, lấy giọt máu cuối cùng đó đặng cứu nhơn loại, một tình ái vô biên ấy để lại cho loài người một tôn chỉ yêu ái. Tôn chỉ nhìn nhơn loại là anh em cốt nhục và khuyên nhủ nhơn loại coi nhau như đồng chủng. Ðức Chúa Jésus Christ đã lấy máu thịt đặng chuộc tội cho loài người. Giờ phút nầy là giờ hiển Thánh của Ngài dùng quyền hành yêu ái vô biên của Ðức Chí Tôn mà tha tội cho nhơn loại đó vậy. Thế nên hai đường thẳng này đặt lên nhau tạo nên hình chữ Thập chính đó là Thập Tự Giá là biểu tượng 139

140 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh của Thánh giáo Da-Tô đó vậy. Đây cũng thể hiện hai lẽ Âm Dương không xa lìa nhau mà còn tượng trưng cho: Không gian biểu hiện là nét sổ dọc là Dương 140 Thời gian biểu hiện là nét ngang là Âm Chính vì lẽ ấy Dịch mới nói lên lý biến đổi của vũ trụ qua hình Long Mã phụ Hà Đồ cũng chỉ là một cách diễn dịch, một cách nói mà thôi. Chung qui thì nguyên lý vẫn một... Dù luận thế nào cũng không ngoài định luật Âm Dương của vũ trụ. Thượng Đế ngày nay đến với nhân loại xưng là Thầy gọi chúng sanh là môn đệ. Thế nên Thầy ban quyền làm Thánh Thể cho hai vị làm đầu hai cơ quan: Hiệp-Thiên-Đài là Hộ-Pháp, Cửu Trùng Đài là Giáo Tông. Khi hai ông chủ này hiệp Một là Quyền Chí-Tôn tại thế. I. CƠ-QUAN QUẢN-TRỊ CÀN-KHÔN VŨ-TRỤ Qua hình ảnh trên có hai hình tam giác gát chồng lên nhau là 1 sanh 3, ba sanh vạn-vật, thuộc về cơ Chưởngquản, chỉ Âm Dương hiệp nhứt. Quyền Chí-linh đối phẩm với quyền Vạn-linh. Chí-linh là cơ qui nhứt, vạn-linh là cơ tấn-hóa, nên Chí-linh đầu nhọn quay lên mà Vạn-linh đầu nhọn quay về phía dưới. Chí-linh và Vạn-linh vốn đồng quyền nhau. Thầy dạy: Thầy là các con, các con là Thầy. Vì vậy về phương diện đối phẩm thì Thầy cho một quyền rộng rãi. Bắt đầu từ A đếm chung quanh có cả thảy 12 hình tam giác đều nhau xoay quanh một vòng tròn 0 lớn. Đó là cơ thống-nhất vạn-loại mà Thầy là vi-chủ nên nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy. Thầy ở giữa nắm pháp qui cơ,

141 4 Thiên Nhãn đặt bên trong Thông Thiên Đài vòng tròn tượng trưng cho càn-khôn vũ-trụ, cả Vạn-linh đều chung chịu trong định luật đó. Sáu hình vòng cung nhỏ tượng-trưng 6 nẻo luânhồi: Tức là AB, B C, CA, A B, BC, C A. Các đường AO, BO, CO chỉ rằng cơ đoạt Đạo hiệp nhứt Chí-linh. Nếu hết vòng A B mà không biết qui cơ hiệp nhứt là phải vòng vòng luân luân chuyển chuyển mãi tức là còn trong vòng trần-tục, không thế gì hiệp một cùng Thầy, nên Thầy mới phân ra Tam giáo là 3 con đường lớn rộng để cho Vạn-linh do theo đường ấy trở về vị cũ, tức là được hiệp một cùng Thầy. Ba cạnh AC, BC, BA, tượng-trưng Tam giáo, chỉ nghĩa rằng trước mặt Thầy, Tam giáo vốn cũng như nhau và cũng đều cùng chung một gốc sanh ra. Gốc ấy tượng trưng tâm O của vòng tròn. Chẳng khác nào Thầy nắm chốt xoay chuyển, hễ tâm O dời là tất cả vạn-linh đều đổi. Ba đường AO, BO, CO là Luật-định của Càn-khôn vũ-trụ, chúng-sanh nếu biết đi đúng theo luật-định ấy mới mong hiệp một cùng Thầy. Thế nên phương tu phải có Luật, có Pháp định-vị là vậy. Khí khinh-thanh bay lên làm trời, khí trọng trược ngưng xuống làm đất, không hề có một vật nào đi sái luậtđó cho được. Tỷ như đất không thể bay bổng lên từng không-khí, quả bóng không thể chìm xuống đáy nước là vậy. Đời thường cho những vật ấy là vô-tri vô-giác theo đúng nghĩa của nó. Vạn-vật thảy có tánh linh và đều cùng một điểm linh-quang như nhau, có chăng vật này được phát triển, vật kia linhtánh vẫn ẩn-tàng nên trước mặt Thầy các con vốn cũng 141

142 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh như nhau, không có ai trọng cũng chẳng ai khinh, dầu cho phẩm-vật tối linh hay thấp kém cũng vậy. Thầy tạm dùng danh-từ trần-tục mà giải, chứ thật ra chẳng vật nào thấp kém hơn vật nào theo nguyên-lý thiên-nhiên. Xem kỹ trong mỗi hình: Thấy có 6 hình thoi, trong mỗi hình ấy có hai đường thẳng góc nhau, ấy chỉ cơ vận hành Âm Dương, trong mỗi bậc luân-hồi của vạn-linh đó. Lại có 4 hình chữ-nhựt bằng nhau, tượng-trưng Tứ tượng biến-hóa nhưng ẩn-tàng ở trong mỗi vật thể, nếu kéo đường thẳng song song với một cạnh qua O và đường chéo của hình chữ-nhật kia, thì hai đường này thẳng góc nhau, chỉ rằng vật thể nếu gặp duyên thì kết, không gặp thì ở trong trạng-thái tiềm-ẩn, ví như đất nắng thì khôkhan mà mưa xuống thì cây cỏ mọc đầy. Đây chỉ rằng kẻ tu hành nếu không gặp cơ qui nhứt thì cũng có thể tăng cao tấn-hóa mà thoát khỏi vị-trí tầm-thường mình đang ở để tiến đến vị-trí cao hơn. Tỷ như người có tu tiến dầu chưa được trở về cùng Thầy, chớ cũng được lên những địa-cầu khác tấn-hóa cao thượng hơn. Sáu cánh ngôi sao chỉ sáu đường luân-hồi phóng sẵn từ ngôi Thái-cực mà ra. Luật luân-hồi là cơ tấn-hóa, nhân sanh lầm cho kiếp sanh là khổ. Kiếp sanh chưa phải là thật khổ đâu, nếu quả khổ mà không ích chi thì Thầy đã bãi bỏ luật-định Luân-hồi, khổ ấy để tăng-tiến mãi, đi đi mãi cho thấu-đáo nẻo huyền-vi của Tạo-vật. Đời lầm-lạc thường cho Luân-hồi sanh tử là cơ nhảm nhí, không có, ấy là muội lắm. Duy-vật, nó chỉ biết cái sống của con vật mà thôi, nó không hiểu chính cái con vật đó ở đâu mà có! Dầu cho kẻ ngang-ngạnh cho rằng con người ở đất nẻ chun lên, Thầy hỏi chớ đất ấy ai sanh? Không-khí ấy 142

143 4 Thiên Nhãn đặt bên trong Thông Thiên Đài do đâu mà có? Vạn-vật ấy do đâu có chết, có sống? Nếu nói tự-nhiên thì sao có sự luân-chuyển của mặt trăng, mặt trời, của sông, của núi, của sao, của mây gió? Nếu vạn-vật thiếu Đạo tức thiếu luật-định, thì chỉ trong một phút tương-khắc nhau, đụng lẫn nhau, tương-tàn như tro mạt mà chớ! Giữa khoảng cách quả đất với Thái-dương-hệ và khoảng cách giữa hạt nhân và hạt nguyên-tử nó có số tỷ-lệ giống nhau, Thầy hỏi: chớ sự ấy có ngẫu-nhiên chăng? Đời chẳng khác nào lũ mù rờ voi, rờ được cái nào thì cho rằng con voi là đó mà tự đại, tự cao. Khoa-học vật-chất cho là mình đã thắng lý thiên-nhiên thì ngu-muội không biết là dường nào! Chẳng khác chi con bọ ngựa giơ càng đấu với con voi rồi tự-hào rằng mình lớn mạnh. Thầy hỏi nếu Thầy rút khí khinh-thanh có trong vạnvật trong giây phút thì các con có còn sống nỗi chăng? Vạn-vật 143

144 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh có còn tồn-tại nỗi chăng? Nguyên-tử có còn hiệu lực của nó chăng? Quyền-năng của nguyên-tử-lực không bằng hột cát so với Càn-khôn là quyền-năng tối thượng của Chí-linh. Thầy hằng thấy sanh-chúng khinh-rẻ lý Đạo, tôn trọng quyền vậtdục chẳng khác nào kẻ đi trong thuyền chê thuyền đi chậm để phóng ra ngoài cho nhanh, rốt cuộc phải rớt xuống sông! Lẽ tử khứ sanh lai cho đến cả một chút tế-bào trong thân-thể đều phải chịu trong khuôn-luật ấy. Các con mới bước qua một nấc để đạt lý thiên-nhiên đã vội tự-hào thắng cả Càn-khôn! Khờ lắm thay! Dại lắm thay! Thương lắm thay! Đó là lý Đạo nhiệm-mầu bất tận vô biên Thầy chỉ tạm dùng những từ trần-tục mà giải-nghĩa.. II- CƠ SANH BIẾN VẠN-LINH Hình này tức là Lưỡng-nghi biến Tứ tượng, Tứ tượng biến Bát-quái, rồi Bát-quái sẽ biến-hóa vô cùng theo Đạo gia thường gọi. Thầy nói Lưỡng nghi là cơ Âm Dương phối hợp, thì bất cứ vật chi chi trong trời đất này cũng đều do âm dương mà sản-xuất, cũng còn gọi là lý Nhị nguyên đó vậy. Âm với Dương vốn là cơ động tĩnh, mâu thuẫn nhau, tương-khắc mà lại tương-hòa. Hai cái lý đối-nghịch nhau để hỗ-trợ lẫn nhau chớ không phải để tiêu-diệt nhau. Trời có sáng tối, người có Nữ Nam, vật có mềm cứng, đất có nắng mưa, vạn-loại có trống mái cho chí đến loài cỏ cây, sắt đá cũng có cái lý của Âm dương. Một cái cây mới nẩy chồi thì ra hai lá đầu tiên, ấy là hình tượng của âm dương đó. Âm dương vốn là cơ sản-xuất nhưng trong 144

145 4 Thiên Nhãn đặt bên trong Thông Thiên Đài Dương có Âm và trong Âm cũng có Dương. Nho-gia gọi Vạn-vật phụ âm nhi bão dương, trung chí dĩ nhi hòa là vậy, gọi là vạn-vật ôm-ấp âm dương, đến mực trung dung thì gọi là hòa. Cơ Hòa là cơ sanh-hóa. Trong phần dương lớn thì gọi là Thái-Dương, có phần âm nhỏ gọi là Thiếu-Âm. Trong phần âm lớn gọi là Thái-Âm, có phần dương nhỏ gọi là Thiếu-Dương. Hai cái lý ấy gát chồng lên nhau tạo thành hình Tứ tượng. Tứ tượng thành hình mới biến ra Bát-Quái là căn bản của nhân-loại và vạn-vật. Sao gọi là Bát-quái? Ấy là quái hào ở trong bản Hà-đồ của con Long-Mã mà vua Phục-Hi đã thấy thuở trước. Những hình tượng ấy ở trong con vật lạ-kỳ nên gọi là quái Tám hình ở trong con vật lạ kỳ nên gọi là BÁT QUÁI, kêu lâu thành quen không thể sửa, đáng lẽ phải gọi là Bát tượng hay Bát tướng mới đúng. Đến số 8 là đã biến thể: (8 x 8 = 64) rồi biến vi vô cùng. 145

146 CHƯƠNG III:Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh THỜ THÁNH TƯỢNG THẦY TẠI TƯ GIA Nay, nhân loại văn minh cực điểm, nhưng cũng là lúc cực loạn trên thế giới, nên cần phải lập lại trật tự điều hoà, nếu không có một nền Đạo chơn chính thì nhân loại sẽ đến cơ huỷ diệt. Vì lẽ đó nên Thượng Đế đến ban cho nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt, là để cứu vãng cho nhân loại buổi này. Biểu tượng cho tinh thần Đại-Đạo là sự thờ hình tượng THIÊN NHÃN THẦY. Đặc biệt nhứt là mỗi gia đình đều có lập vị Thượng Đế, tức là Thiên Bàn tại tư gia để mỗi người tự tu thân. Đức Chí-Tôn đã đem đến cho nhân-loại một nền 146

SBD HO TEN Ngày Sinh Sửa đổi DOAN THI AI DAO THI AN DO VAN AN DO XUAN AN LE

SBD HO TEN Ngày Sinh Sửa đổi DOAN THI AI DAO THI AN DO VAN AN DO XUAN AN LE 30001 DOAN THI AI 05.01.1993 30002 DAO THI AN 17.05.1995 30003 DO VAN AN 09.08.1995 30004 DO XUAN AN 20.09.1993 30005 LE HONG AN 29.07.1992 30006 LE XUAN AN 19.02.1994 30007 MA MY AN 25.08.2005 30008 MAC

More information

SBD HỌ TEN Ngày Sinh Sửa đổi NGUYEN VINH AI DO XUAN AN HOANG VAN AN LUU LE HONG AN

SBD HỌ TEN Ngày Sinh Sửa đổi NGUYEN VINH AI DO XUAN AN HOANG VAN AN LUU LE HONG AN 40001 NGUYEN VINH AI 26.10.1995 40002 DO XUAN AN 03.05.1998 40003 HOANG VAN AN 25.09.1994 40004 LUU LE HONG AN 19.03.2003 40005 NGO THI THUY AN 17.11.2000 40006 NGUYEN CONG AN 07.07.1997 40007 NGUYEN HUU

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

YLE Movers PM.xls

YLE Movers PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 18/11/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 BUI PHAM DANG NAM 11/06/2010 3 2 3 8 2 LE PHUC ANH 07/07/2009 2 4 2 8 3 VO GIA

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

YLE Starters PM.xls

YLE Starters PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 08/12/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Starters 1 WANG NAN SIANG 28/02/2010 3 5 5 13 2 CHEN HSUAN BANG 08/04/2012 5 5 5 15 3 HUANG

More information

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx277 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx111 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 3 DO DINH DAO 0943xxx000 03. TITANIUM STEPUP CREDIT

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NG

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NG DANH SÁCH KHÁCH HÀNG NHẬN 100 LẦN SOCIALBOOST PLUS THÁNG 8/2017 Họ và Tên LAI THUY DUONG NGUYEN THI THANH DUONG VU ANH NGUYEN THU HUYEN BUI HAI YEN NGUYEN THI NGOC HUYEN NGUYEN VAN DAN NGUYEN QUANGMINH

More information

SBD HO N5 TEN NGAY SINH BUI NGOC AN HOANG THI NHI AN HOANG THI UT AN NGUYEN BINH AN

SBD HO N5 TEN NGAY SINH BUI NGOC AN HOANG THI NHI AN HOANG THI UT AN NGUYEN BINH AN SBD HO TEN NGAY SINH 50001 BUI NGOC AN 16.08.1989 50002 HOANG THI NHI AN 19.08.1993 50003 HOANG THI UT AN 19.08.1993 50004 NGUYEN BINH AN 15.12.1995 50005 NGUYEN HUU AN 06.10.1993 50006 PHAM THI AN 05.04.1984

More information

DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM "SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN" DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY ,403 2 NGUYEN THI

DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY ,403 2 NGUYEN THI DANH SÁCH HOÀN TIỀN THÁNG 11 CTKM "SINH NHẬT VUI ƯU ĐÃI LỚN" DÀNH CHO KH MỚI STT Tên KH CMND Số tiền hoàn 1 LE ANH THUY 025355865 152,403 2 NGUYEN THI HUONG HUYEN 320635110 1,500,000 3 HA DUY THANH 023146891

More information

N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN LUU LE HONG AN NGUYEN CONG AN NGUYEN DINH NGAN AN

N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN LUU LE HONG AN NGUYEN CONG AN NGUYEN DINH NGAN AN N5 SBD HO TEN Ngày Sinh 0001 HOANG VAN AN 23.10.1996 0002 LUU LE HONG AN 19.03.2003 0003 NGUYEN CONG AN 07.07.1997 0004 NGUYEN DINH NGAN AN 13.01.2000 0005 NGUYEN HAI AN 05.12.1995 0006 NGUYEN QUOC AN

More information

Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/ /12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG G

Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/ /12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG G Danh Sách Trả Thưởng Chi Tiêu Đợt 1 (1/12/2018-31/12/2018) STT TEN_KH SO_THE GIẢI HOÀN TIỀN 1 NGUYEN THI SEN 422076XXXXXX0125 1,000,000 2 DOAN HUONG GIANG 457353XXXXXX8460 1,000,000 3 NGO VAN PHUC 422076XXXXXX7476

More information

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI

STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx TITANIUM STEPUP CREDI STT Tên KH Số điện thoại Hạng thẻ 1 NGUYEN THI HOANG YEN 0933xxx277 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 2 PHAM NGOC PHUONG 0945xxx111 03. TITANIUM STEPUP CREDIT 3 DO DINH DAO 0943xxx000 03. TITANIUM STEPUP CREDIT

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER 1 SCHOOL YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER 1 SCHOOL YEAR Class: Pre- Intermediate 1 1 Tran Phuc An 8.6 6.7 6.8 6.5 6.9 7.4 8.7 8.4 7.5 C 2 Nguyen Manh Dan 9.1 8.4 7.9 6.9 5.2 6.7 9.5 6.7 7.6 C 3 Huynh Tuan Dat 8.7 7.4 6.8 6.3 4.1 7.7 9.7 7.6 7.3 C 4 Lam The

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Pre- Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR Class: Pre- Intermediate 1 1 Tran Duc Anh 6.5 5.7 4.3 4.9 4.0 4.0 5.9 6.7 5.3 D 2 Tran Ngoc Van Anh 7.6 8.2 6.9 8.2 7.3 7.3 8.9 9.4 8.0 B 3 Pham Dai Duong 7.4 8.2 7.6 7.4 6.6 7.1 8.5 9.2 7.8 C 4 Le Xuan

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Intermediate 1   RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PR Class: Intermediate 1 1 Dang Quang Anh 8.0 6.0 6.1 7.9 6.8 7.3 7.3 7.7 7.1 C 2 Nguyen Thuy Quynh Anh 8.3 6.4 6.0 7.5 6.6 7.3 5.4 9.1 7.1 C 3 Nguyen Tran Ha Anh 8.8 6.4 8.5 8.7 9.0 7.1 9.9 8.5 8.4 B 4 Chang

More information

Mục lục 1.Chú ý an toàn 2.Danh sách các bộ phận 4~5 6 3.Chú ý trong thi công 7 4.Các bước thi công chính Chuẩn bị lắp đặt bồn tắm~lắp đặt bồn tắm (1)C

Mục lục 1.Chú ý an toàn 2.Danh sách các bộ phận 4~5 6 3.Chú ý trong thi công 7 4.Các bước thi công chính Chuẩn bị lắp đặt bồn tắm~lắp đặt bồn tắm (1)C NTE150 2013.10 HƯỚNG DẪN LẮP ĐẶT BỒN TẮM GANG TRÁNG MEN ĐẶT SÀN CÓ CHÂN FBY1756PWGE, FBY1756PWNE Để phát huy hết tính năng của sản phẩm, vui lòng lắp đặt đúng như bản hướng dẫn này. Sau khi lắp đặt, hãy

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM No. Class: Starter 1 Name RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM No. Class: Starter 1 Name RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR Class: Starter 1 1 Tran Nguyen Binh An 7.2 5.6 7.1 5.3 3.8 5.3 8.6 6.1 D 2 Phung Lam Ngoc An 7.8 8.2 8.6 7.6 4.3 7.1 9.3 7.6 C 3 Tu Pham Tieu Bang 7.5 8.3 9.2 7.4 4.4 7.9 9.6 7.8 C 4 Nguyen Thi Truong

More information

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09

STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/ PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/ LAO VAN DOAN 09 STT Tên Khách hàng Số điện thoại Ngày giao quà dự kiến 1 NGUYEN QUAN TUNG 0966xxx838 5/15/2018 2 PHAM NHUT MINH 0936xxx848 5/15/2018 3 LAO VAN DOAN 0966xxx669 5/15/2018 4 CHU THI BAO NGOC 0916xxx993 5/15/2018

More information

YLE Movers PM.xls

YLE Movers PM.xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 16/12/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 NGUYEN HUU XUAN KHANG 10/04/2009 4 4 5 13 2 TRAN LONG MINH DUY 01/10/2008 2 2

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1   RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Chemistry Mathematics 1 Dang Quang Anh 7.8 7.6 6.8 7.9 7.0 6.2 8.7 8.4 7.6 C 2 Nguyen Thuy Quynh Anh 7.6 8.7 6.7 7.3 6.5 6.1 6.8 7.3

More information

N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH DUONG QUOC AI CHU MINH AN NINH VAN AN PHAM THI THUY AN

N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH DUONG QUOC AI CHU MINH AN NINH VAN AN PHAM THI THUY AN N5 SBD HỌ TEN NGAY SINH 50001 DUONG QUOC AI 16.09.1993 50002 CHU MINH AN 14.08.1990 50003 NINH VAN AN 22.06.1994 50004 PHAM THI THUY AN 17.05.2000 50005 VUONG THI AN 03.09.1992 50006 BUI THI ANH 08.08.1997

More information

Movers PM.xlsx

Movers PM.xlsx BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN THIẾU NHI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE (YLE) Kỳ thi ngày: 24/03/2018 Buổi: Chiều Cấp độ: Movers 1 NGUYEN LINH CHI 31/12/2009 5 5 5 15 2 BUI HOANG QUAN 19/06/2008 5 4 5 14 3 BLINO

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLISH

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLISH Class: Movers 1.1 No. Name Speaking Listening Grammar Social Studies 1 NGUYEN CAO THIEN AN 7.7 9.3 9.8 8.8 9.7 8.9 8.9 9.6 9.1 High Distinction 2 LE PHUONG ANH 7.7 8.7 9.0 7.8 9.1 6.5 7.8 8.6 8.2 Distinction

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Elementary 1 RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROG

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Elementary 1   RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROG Class: Elementary 1 1 Tran Nguyen Binh An 7.6 6.0 6.1 6.9 6.8 5.9 7.1 6.6 C 2 Phung Lam Ngoc An 8.2 6.8 8.1 7.9 8.2 6.4 8.7 7.8 C 3 Tu Pham Tieu Bang 7.4 8.1 8.4 8.4 8.6 8.3 9.3 8.4 B 4 Nguyen Thi Truong

More information

KET for Schools_ August xls

KET for Schools_ August xls BẢNG KẾT QUẢ THI ANH VĂN CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAMBRIDGE Kỳ thi ngày: 11/08/2018 Cấp độ: KET 0001 CONG CHIEN NGUYEN Pass 128 0002 BA RIN PHAM Z 0003 THI MAI ANH DO Council of Europe Level A1 112 0004 KHOI

More information

Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20, xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20, xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000

Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20, xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20, xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000 Họ tên Quà tặng Điện thoại Ngày TRINH ANH VIET 20,000 090xxxx555 3/3/2017 9:00 NGUYEN CAM TU 20,000 093xxxx057 3/3/2017 9:00 DO THI HONG DIEP 500,000 098xxxx068 3/3/2017 9:00 DO TUAN ANH 20,000 012xxxx122

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Flyers 1 RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR 2015

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Flyers 1 RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR 2015 Class: Flyers 1 No. Name Speaking Listening Grammar 1 PHAN DIEN KY BOI 8.3 9.1 8.8 8.9 7.6 7.8 8.6 7 8.3 Distinction 2 LUC PHU HUNG 8.5 9 7.9 8 7.3 6.8 9.1 7 8 Distinction 3 LUU DUONG BAO KHANH 7.5 9.6

More information

Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC

Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC Danh Sách Trả Thưởng Thẻ Mở Mới Đợt 1 (01/12/2018 tới 31/12/2018) STT TEN_KH SĐT Giải Hoàn tiền 1 TRAN KHANH LINH 096xxxxx104 1,000,000 2 NGUYEN NGOC DIEM 093xxxxx779 1,000,000 3 NGUYEN TIEN DUNG 090xxxxx796

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Upper-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YE

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: Upper-Intermediate 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YE Class: Upper-Intermediate 1 History Economics Math Biology Physics Chemistry 1 Le Hai An 8.3 8.7 8.8 9.0 9.4 9.6 7.4 9.1 8.8 B 2 Hoang Truc Anh 7.1 5.5 7.2 7.4 8.0 7.7 6.0 6.9 7.0 C 3 Nguyen Phu Cuong

More information

NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do

NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do NO CIIOONG THUONG NIEN NAM 2017 DAI H(.M DONG COn Vietcombank ran HANiOf-JMCP DAI THlTONG VIET NAM C0NG HOA XA HOl CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tur do - Hanh phuc Dia< M3D1 16/12/201 ~.98 T*. Khai,HaN6i

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Date of issue: Ja

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   RESULTS FOR SEMESTER I SCHOOL YEAR INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Date of issue: Ja Class: Intermediate 1 Geograph Histor Econom ic Math Phsics Chenistr GPA 1 Vu Nhat Chuong 8.9 9.0 6.4 8.6 7.6 6.5 7.5 7.0 7.7 C 2 Nguen Tran Anh Du 9.0 8.9 6.7 8.3 8.7 8.4 7.6 8.2 8.2 B 3 Do Le Y Duen

More information

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name   Speaking Listening Grammar RESULTS FOR SEMESTER II SCHOOL Class: Pre-Intermediate 1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Chemistry Mathemati 1 Le Hai An 8.9 9.0 7.6 7.7 9.9 7.4 7.3 9.0 8.4 B 2 Le Minh Anh 7.1 5.6 6.6 5.4 7.3 7.7 7.7 5.3 6.6 C 3 Hoang Truc

More information

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers 2.1 Name Speaking RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR List

No. THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Movers 2.1 Name   Speaking RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR List No. Class: Movers 2.1 Name Speaking Listening Grammar Reading & Writing Social Studies Science Maths 1 NGUYEN HOANG ANH 8.8 9.7 8.6 9.7 9.8 9.9 9.8 9.2 9.4 High Distinction 2 DOAN NGOC TRUC GIANG 8.6 9.8

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: TOEFL Beginner 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR 2

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL   INTERNATIONAL ENGLISH PROGRAM Class: TOEFL Beginner 1 RESULTS FOR SEMESTER I ACADEMIC YEAR 2 Class: TOEFL Beginner 1 Speaking Listening Grammar Reading & Literature Geography History Economics Math Biology Physics Chemistry 1 Le Hai An 8.9 9.2 8.3 9.2 8.7 9.6 8.2 8.9 8.9 B 2 Hoang Truc Anh 8.7

More information

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Starters RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLIS

THE ASIAN INTERNATIONAL SCHOOL Class: Starters RESULTS FOR SEMESTER II THE ACADEMIC YEAR INTERNATIONAL ENGLIS Class: Starters 2.1 No. Name Speaking Listening Grammar Social Studies Science 1 PHAM HUYNH LOC AN 7.5 7.4 6.7 8.7 5.9 6.9 8.0 7.4 7.3 Pass with Merit 2 JI YOU BIN 7.8 10.0 10.0 9.5 9.0 7.5 9.3 9.3 9.1

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG H

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG H DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI TRI ÂN CTKM GỬI TIỀN TRÚNG TIỀN STT Tên Chi nhánh Tên Khách hàng Trị giá giải thưởng VND 1 Sở giao dịch NGUYEN QUANG HA 2,000,000 2 Sở giao dịch NGUYEN PHUOC MINH DUC 2,000,000

More information

Final Index of Viet Ad Person.xls

Final Index of Viet Ad Person.xls 11000-001 Truong Tan Sang 11000-002 Nguyen Thi Doan 12100-001 Nguyen Phu Trong 12220-001 Nguyen Phu Trong 12220-002 Truong Tan Sang 12220-003 Nguyen Tan Dung 12220-004 Nguyen Sinh Hung 12220-005 Phung

More information

THÔNG CÁO BÁO CHÍ

THÔNG CÁO BÁO CHÍ HỘI SỰ NGHIỆP TỪ THIỆN MINH ĐỨC Minh Duc Charitable Foundation (MDCF) 明德慈善事業基金會 Website: http://www.tuthienminhduc.com Địa chỉ: Chùa Trung Lâm, xã Tân Xã, Thạch Thất, Hà Nội Số 242A Minh Khai, Quận Hai

More information

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUC VA DAO TAO Doc lap - Ty do - Hanh phuc S6: /9 5 /GD&DT Khanh San, ngay 03 thdng 5 nam 017 V/v huong din danh gia, hoan thanh h6 so BDTX nam hoc 016-017 Thuc hien KS

More information

Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải

Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải 法輪大法義解 Pháp Luân Đại Pháp Nghĩa Giải 李洪志 Lý Hồng Chí Lời nói đầu Để làm tốt hơn nữa công tác phụ đạo Pháp Luân Đại Pháp, và theo yêu cầu của Hội Nghiên cứu và các trạm phụ đạo các nơi, [một số] giảng Pháp

More information

Bốn bài thi của Phó đại sĩ

Bốn  bài  thi  của  Phó  đại  sĩ 1 Bốn bài thi của Phó đại sĩ Tác giả : Văn Thận Độc Dịch giả : Dương Đình Hỷ Phó đại sĩ (497-569) là một cư sĩ đời Tề, Lương người huyện Nhĩa Ô nay thuộc tỉnh Triết Giang. Năm 16 tuổi lấy Lưu thị, sanh

More information

Tinh Tan Yeu Chi 3

Tinh Tan Yeu Chi 3 法輪大法 Pháp Luân Đại Pháp 精進要旨三 Tinh Tấn Yếu Chỉ 3 李洪志 Bản dịch tiếng Việt trên Internet http://phapluan.org http://vi.falundafa.org MỤC LỤC Lời chúc đến Pháp hội tại New York...1 Sư phụ chúc mừng năm mới...1

More information

GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM NHCT SAM SON HUA THANH PHONG NHCT CA

GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM NHCT SAM SON HUA THANH PHONG NHCT CA GIẢI TƯ Tên khách hàng Mã dự thưởng Chi nhánh NGUYEN THI HEN 1294090 NHCT CHI NHANH 9 LE DINH TAM 6327127 NHCT SAM SON HUA THANH PHONG 0737415 NHCT CA MAU NGUYEN THI CAI 6532757 NHCT QUANG NINH NGUYEN

More information

BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0CfflNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, n

BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0CfflNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, n BAN CHAP HANH TRUNG ITOOVG * BANG CONG SAN VIET NAM S6 42-CT/TW H** Noi, ngay 16 thdng 4 ndm 2010 CHI THI CUAB0ClNHTRI -\ T r ve tiep tuc doi moi, nang cao chat hrong, hieu qua boat dong cua Lien hiep

More information

UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIE

UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIE UBND TINH HA TINH S6 GIAO DUG VA DAG TAG So: /SGDDT-GDTrH V/v huong din cong tac pho bien, giao due phap luat quy 1/2015 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Xu- do - Hanh phiic Hd Tinh, ngdy/flf

More information

DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG HO THI MY QUYEN NGUYEN THANH VINH LAM QUA

DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG HO THI MY QUYEN NGUYEN THANH VINH LAM QUA DANH SÁCH 200 KHÁCH HÀNG TRÚNG GiẢI NHÌ STT ID KHÁCH HÀNG HỌ TÊN KHÁCH HÀNG 1 28342753 HO THI MY QUYEN 2 28259949 NGUYEN THANH VINH 3 28265356 LAM QUANG DAT 4 23156836 NGUYEN NGOC NHO 5 26231419 NGUYEN

More information

MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM)

MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM) MM CBTT/SGDHCM-06 (Ban hanh kern theo Quyit dinh so 07/2013/QD-SGDHCM ngay 24/07/2013 cua TGD SGDCK TPHCMvi Quy chi Cong bs thong tin tai SGDCK TPHCM) TAP DOAN HOA CHAT VIET NAM CONG TY CO PHAN BOT GIAT

More information

PHÁP LUÂN CÔNG 法輪功 Lý Hồng Chí 李洪志 MỤC LỤC Chương I Khái luận...1 I. Khởi nguồn của khí công...1 II. Khí và công...2 III. Công lực và công năng...3 1. Công lực là dựa vào tu tâm tính mà xuất lai...3 2.

More information

Giáo trình tư duy thơ hiện đại Việt Nam

Giáo trình tư duy thơ hiện đại Việt Nam G'.0000016852 A I H O C Q U O C G I A H A NGUYEN BA THANH g i A o t r i n h i n DUY TH0 HIEN DAI VIET NAM O K ] O D G Ha NQI NHA XUAT BAN DAI HOC QUOC GIA HA NO' GIAOTRiNH TITDUY THAT HIEN DAI VIET NAM

More information

UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi,

UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi, UBND THANH PHO CAN THO TRUING DAI HOC KYTHUAT -CONG NGHE CANTHO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc QUY DINH To chuc thi, kiem ta danh gia tong cac ky thi ket thuc hoc phan

More information

CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON XX

CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON XX CHƯƠNG TRÌNH DẤU ẤN KHOẢNH KHẮC VÀNG Danh sách Chủ thẻ được Hoàn tiền Giải Giờ vàng STT BRANCH_NAME Số thẻ Tên KH Số tiền được hoàn 1 CHO LON 457353XXXXXX8443 LE HONG THUY TIEN 230,000 2 HAI PHONG 478097XXXXXX3147

More information

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH "HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA" Giai đoạn 1: Từ 28/4/ /5/2016 STT GI

DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA Giai đoạn 1: Từ 28/4/ /5/2016 STT GI DANH SÁCH KHÁCH HÀNG TRÚNG THƯỞNG ĐỢT 1 CHƯƠNG TRÌNH "HÀNH TRÌNH TỚI BRAZIL 2016 CÙNG THẺ TECHCOMBANK VISA" Giai đoạn 1: Từ 28/4/2016-27/5/2016 1 GIAI 01: MAY ANH VO TIEN HUY AN DUONG 2 GIAI 01: MAY ANH

More information

TIEM LUC CAN BANG-BAOVE SINH THAI VA PHAT TRIEN NONG THON QUA XAY DUNG HE THONG CHAN NUOI GIA CAM DAC SAN TAI VIETNAM

TIEM LUC CAN BANG-BAOVE SINH THAI VA PHAT TRIEN NONG THON QUA XAY DUNG HE THONG CHAN NUOI GIA CAM DAC SAN TAI VIETNAM The role of Old Hungarian Poultry Breeds in development of poor regions with regards to agrarian environmental protection and gene conservation in Vietnam VAI TRO CAC GIONG GIA CAM CHAN THA HUNGARY TRONG

More information

TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ s

TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ s ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ TÒA THÁNH TÂY NINH TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Chú Giải TRẦN VĂN RẠNG 2010 TUYÊN NGÔN KHAI ĐẠO CỦA ĐỨC CAO ĐÀI Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info.

More information

KINH VÀO HỌC

KINH VÀO HỌC KINH VÀO HỌC (Giọng nam xuân) KINH VĂN Đại từ phụ xin thương khai khiếu, Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ, Gần điều nên, lánh lẽ hư, 4. Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn. Dò đường Thánh khó khăn chẳng

More information

So tay di cu an toan.indd

So tay di cu an toan.indd Bộ ấn phẩm: Sáng kiến phòng chống mua bán người và di cư không an toàn Sổ tay di cư an toàn World Vision International 2014 ISBN 978-0-918261-41-0 Tầm nhìn Thế giới (TNTG) là tổ chức nhân đạo Cơ đốc, thực

More information

CONG TY CP NHI/A BINH MINH CQNG HOA XA HQI CHU NGHIA VlfT NAM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DAI HQI CO DONG

CONG TY CP NHI/A BINH MINH CQNG HOA XA HQI CHU NGHIA VlfT NAM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DAI HQI CO DONG CONG TY CP NHI/ BINH MINH CQNG HO X HQI CHU NGHI VlfT NM Doc lap -T ir d o - Hanh phuc NGHIQUYET Tp. H6 Chi Mink, ngay 20/4/2018 DI HQI CO DONG THUONG NIEN NM 2018 - Can cu Luat Doanh nghiep so 68/2014/QH13

More information

Microsoft Word - VIETFAIR's EXHIBITION SCHEDULE 2018 (Vietnamese Version) - update 28.9

Microsoft Word - VIETFAIR's EXHIBITION SCHEDULE 2018 (Vietnamese Version) - update 28.9 KẾ HOẠCH HỘI CHỢ TRIỂN LÃM (CHỦ YẾU) NĂM 018 do Công ty VIETFAIR tổ chức thực hiện TẠI HÀ NỘI STT Tên Hội chợ, Triển lãm Thời gian Địa điểm tổ chức Nội dung, quy mô Đơn vị chủ trì, ủng hộ, phối hợp Ghi

More information

_x0001_ _x0001_

_x0001_	_x0001_ 1 BAO DO 2 HO NGUYEN 3 TAM PHAM 4 MY LINH TONG 5 THU DO 6 HONG NGUYEN 7 THOM NGUYEN 8 BINH VO 9 MY LE VO 10 HAI DUONG NGUYEN 11 DAO THI NGUYEN 12 LAN NGUYEN 13 ROMAI THI NGUYEN 14 TOAN NGUYEN 15 PHI VO

More information

* Tiểu kết chương CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ PHẬT GIÁO THỜI MINH MẠNG ( ) Đặc điểm Phật giáo thời Minh Mạng ( ).

* Tiểu kết chương CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ PHẬT GIÁO THỜI MINH MẠNG ( ) Đặc điểm Phật giáo thời Minh Mạng ( ). MỤC LỤC MỞ ĐẦU... 1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI... 1 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU... 2 3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU... 2 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU... 3 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN... 4 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN

More information

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG DỊCH VỤ SACOMBANK EBANKING Sacombank ebanking phiên bản Ngân hàng điện tử mới Ưu việt Thân thiện An toàn Hãy trải nghiệm các chức năng nổi trội của Sacombank - ebanking: Cá nhân hóa giao

More information

GU285_VNM_Cover.indd

GU285_VNM_Cover.indd GU285 Hướng dẫn Sử dụng www.lgmobile.com P/N : MMBB0353931 (1.0) ELECTRONICS INC. GU285 Hướng dẫn Sử dụng TIẾNG VIỆT 简体中文 ENGLISH Bluetooth QD ID B015843 Một số nội dung trong sách hướng dẫn này có thể

More information

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa 觀無量壽佛經 疏鈔演義 Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Tịnh Không Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Giảo chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang Quán Vô Lượng Thọ

More information

Microsoft Word - Duoc Su_ready for print.doc

Microsoft Word - Duoc Su_ready for print.doc Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Thiển Thích Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Lược Giảng 1 Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch Tuyên Hóa

More information

PwC 2

PwC 2 www.pwc.com/vn Sổ tay thuế Việt Nam 2016 PwC 1 PwC 2 Mục Lục Hệ Thống Thuế Tổng quan 5 Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp ( TNDN ) 7 Thuế suất Ưu đãi thuế TNDN Xác định thu nhập chịu thuế TNDN Các khoản chi không

More information

2 汉语和越南语形容词的体 Trí thông minh về vận động (bodily/kinesthetic): Những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua cách vận động và sử

2 汉语和越南语形容词的体 Trí thông minh về vận động (bodily/kinesthetic): Những người có trí thông minh này có thiên hướng học tập thông qua cách vận động và sử 1 汉语和越南语形容词的体 ỨNG DỤNG THUYẾT ĐA TRÍ TUỆ TRONG VIỆC GIẢNG DẠY TIẾNG TRUNG TẠI KHOA ĐÔNG PHƢƠNG ThS. Hoàng Thị Thu Thủy Bộ môn Trung Quốc học, khoa Đông phương học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

More information

Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD)

Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD) Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD) 大越 國總覽圖 Trần Việt Bắc (Tiếp theo) Như đã trình bày trong phần trước theo như Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn đã ghi: - Là bản-đồ nước ta do hai Đại-tướng nhà

More information

2. Quê quán 3. Tên họ 4. Chức tước 5. Lão tử với Khổng tử có gặp nhau không? Khổng tử có hỏi Lão tử về lễ không? 6. Lão tử có phải là Lão Lai tử không

2. Quê quán 3. Tên họ 4. Chức tước 5. Lão tử với Khổng tử có gặp nhau không? Khổng tử có hỏi Lão tử về lễ không? 6. Lão tử có phải là Lão Lai tử không Nguyễn Hiến Lê Lão Tử Đạo Đức Kinh MỤC LỤC Vài lời thưa trước Phần I: ĐỜI SỐNG và TÁC PHẨM Chương I: Đời sống 1. Sự tích Lão tử 1 Lão Tử - Đạo Đức Kinh Nguyễn Hiến Lê www.thienquan.net 2. Quê quán 3. Tên

More information

CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN

CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN CONG TY CO PHAN DAu TU san XUAT VA THUONG MAl SEN VIET GROUP.. CHUONG TRINH DAo TAO eo BAN CHUONG TRINH TAp HuAN Sau khi ky HQ'P dong tham gia ban hang da c~p voi Cong ty, Nha phan phoi c6 nghia vu hoan

More information

Phục hồi chức năng bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não

Phục hồi chức năng bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não Cao D ing Y te Plu'i Thp - Tlur vi?n PGS.TS. BSCC TRAN VAN CHUONG PHUC Hdl CH LfC NANG b n h n h a n l i t n u a n g u o i D O T A I B IE N M A C H M A U N A O NHA XUAT BAN Y HOC Ha Noi - 2010 PGS. TS.

More information

2015 Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES) Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gi

2015 Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES) Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gi TÀI LIỆU DỊCH TLD-11 TẦM NHÌN VÀ HÀNH ĐỘNG THÚC ĐẨY CÙNG XÂY DỰNG VÀNH ĐAI KINH TẾ CON ĐƯỜNG TƠ LỤA VÀ CON ĐƯỜNG TƠ LỤA TRÊN BIỂN THẾ KỶ XXI Cơ quan ban hành: Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia, Bộ

More information

hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng. Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một

hùng của dân tộc. Đây là một chấm son trên lịch sử dân tộc nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng. Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một 1 Sự hình thành và phát triển Thiền phái Trúc Lâm Thích Như Pháp Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được gắn liền với tên tuổi của Ngài, với dòng Thiền do Ngài mở lối, là một đại nhân duyên không phải tầm thường

More information

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG INTERNET BANKING HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG DỊCH VỤ SACOMBANK EBANKING Sacombank ebanking phiên bản Ngân hàng điện tử mới Ưu việt Thân thiện An toàn Hãy trải nghiệm các chức năng nổi trội mới của Sacombank - ebanking: Cá nhân hóa

More information

BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve d

BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve d BO CONG AN CONG HOA XA HOI CHTJ NGHIA VIET NAM Boc lap - Tu 1 do - Hanh phiic S6: 213 /TTr-BCA-A61 Ha Not, ngay 26 thdng 6 ndm 2013 TO? TRINH ^ f Ve dy an Luat Nhap canh, xuat canh, cu tru cua ngiroi nircrc

More information

Viện nghiên cứu Phật học

Viện nghiên cứu Phật học Mục lục Lời nói đầu CHƯƠNG I Phần dẫn luận: Khái quát về 5 việc của Đại Thiên và phương pháp nghiên cứu CHƯƠNG II Thảo luận về những nguồn tư liệu liên quan đến Đại Thiên và 5 việc của ông 1. Vấn đề văn

More information

Danh Sách Mã Dự Thưởng Chương Trình Bốc Thăm May Mắn Tháng 6/2018 Mã số dự thưởng cho Khách hàng tham gia chương trình bốc thăm may mắn tháng 6/2018 L

Danh Sách Mã Dự Thưởng Chương Trình Bốc Thăm May Mắn Tháng 6/2018 Mã số dự thưởng cho Khách hàng tham gia chương trình bốc thăm may mắn tháng 6/2018 L Danh Sách Mã Dự Thưởng Chương Trình Bốc Thăm May Mắn Tháng 6/2018 Mã số dự thưởng cho Khách hàng tham gia chương trình bốc thăm may mắn tháng 6/2018 Lucky draw entries for Lucky Draw Program for cycle

More information

Số 76 Bản Tin Thế Đạo ngày

Số 76 Bản Tin Thế Đạo ngày Baûn Tin Theá Ñaïo Soá 76 ngaøy 19-3-2017 TIN ÚC CHÂU: Tường Trình thành lập Điện Thờ Phật Mẫu tạm tại Châu Đạo Victoria, Melbourne, Úc Châu Điện Thờ Phật Mẫu theo mô hình mẫu số 3 do Hội Thánh thiết kế

More information

Ban đầu, con tập dùng hạnh lắng nghe, để tư duy phân biệt tốt xấu, động tĩnh Sau đó tu tập quán chiếu vào tánh nghe không phân biệt, quên hẵn tiếng ng

Ban đầu, con tập dùng hạnh lắng nghe, để tư duy phân biệt tốt xấu, động tĩnh Sau đó tu tập quán chiếu vào tánh nghe không phân biệt, quên hẵn tiếng ng Sự Giác Ngộ và Hóa độ của Bồ tát Quán Thế Âm qua Triết lý Tánh Không - Bát Nhã I-Duyên khởi: Trong nhiều bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, có nói về Bồ tát Quán Thế Âm; một vị Bồ tát luôn luôn khởi lòng

More information

Eyes of Compassion Relief Organization Ngày Nhận Check Date Tỉnh bang Province USD CAD VND Người Đóng Góp - Benefactor Chuyển tiền 16/01/2017 Transfer

Eyes of Compassion Relief Organization Ngày Nhận Check Date Tỉnh bang Province USD CAD VND Người Đóng Góp - Benefactor Chuyển tiền 16/01/2017 Transfer Eyes of Compassion Relief Organization Ngày Nhận Check Date Tỉnh bang Province USD CAD VND Người Đóng Góp - Benefactor Chuyển tiền 16/01/2017 Transfer date Rate: 22735 20-Dec-16 Phac Nguyen CA 400.00 23-Dec-16

More information

Quy tắc mô tả tài liệu thư viện

Quy tắc mô tả tài liệu thư viện 0000023981 u EN THI KIM LOAN (Chu bien) HI HANH, LE THI NGUYET a * a a QUY TAC MO TA TAI LIEU THU5VIEN I a t NHA XUAT BAN THONG TIN VA TRUYEN THONG ThS. N G U Y E N THI KIM LO AN (Chu bien) PH A M TH I

More information

CONG TY CP DAU TU^ THlTONG MAI SMC CONG HOA XA HQI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: /2015/SMC TPHCM, ngay 20 thang 07 nam 2015

CONG TY CP DAU TU^ THlTONG MAI SMC CONG HOA XA HQI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: /2015/SMC TPHCM, ngay 20 thang 07 nam 2015 CONG TY CP DAU TU^ THlTONG MAI SMC CONG HOA XA HQI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: 1 4 8 /2015/SMC TPHCM, ngay 20 thang 07 nam 2015 BAO CAO TINH HINH QUAN TRI CONG TY 06 THANG DAU NAM

More information

Ngân hàng câu hỏi thi, kiểm tra môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

Ngân hàng câu hỏi thi, kiểm tra môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin TS. PHAM VAN SINH (Chu bien) NGAN HANG CAU HOI THI, KlfeM TRA MON NHUNG NGUYEN LY C(T BAN CUA CHU NGHIA MAC - LENIN (Dung lam tai lieu tham khao phuc vu thi, kiem tra cho cac trirang dai hoc, cao d^ng)

More information

UBND TINH SON LA SO' GIAO DUC VA BAO TAO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ttr do - Hanh phuc S6: 1341/KH-SGDDT Son La, ngay 28 thdng 9 na

UBND TINH SON LA SO' GIAO DUC VA BAO TAO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ttr do - Hanh phuc S6: 1341/KH-SGDDT Son La, ngay 28 thdng 9 na UBND TINH SON LA SO' GIAO DUC VA BAO TAO CONG HO A XA H0I CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ttr do - Hanh phuc S6: 1341/KH-SGDDT Son La, ngay 28 thdng 9 nam 2018 KE HOACH Boi duong thuong xuyen can bo quan

More information

Microsoft Word - Sachvck1.doc

Microsoft Word - Sachvck1.doc OSHO OSHO Tín Tâm Minh Sách về Cái không HSIN HSIN MING The Book of Nothing HÀ NỘI 3/2010 @ OSHO INTERNATIONAL FOUNDATION Mục lục Tín Tâm Minh - Sách về cái không Copyright 2000 Osho International Foundation,

More information

Liêt Tử Và Dương Tử

Liêt Tử Và Dương Tử Liêt Tử Và Dương Tử Tác giả: Thể loại: Trung Hoa Website: Date: 24-October-2012 Trang 1/54 NHÂN VẬT LIỆT NGỰ KHẤU Trước hết về bản thân Liệt tử, có một số học giả còn nghi ngờ. Như Cao Tự Tôn (thế kỉ XII),

More information

I CONG TY CP DAU Tir THUONG MAI SMC CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu- do - Hanh phuc So: 1 3 /2016/SMC TPHCM, ngay 12 thang 01 nam 2016

I CONG TY CP DAU Tir THUONG MAI SMC CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu- do - Hanh phuc So: 1 3 /2016/SMC TPHCM, ngay 12 thang 01 nam 2016 I CONG TY CP DAU Tir THUONG MAI SMC CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Tu- do - Hanh phuc So: 1 3 /2016/SMC TPHCM, ngay 12 thang 01 nam 2016 BAO CAO TINH HINH QUAN TRI CONG TY NAM 2015 Kinh gu-i:

More information

2 TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI Kỉnh nguyện hồi hướng cho âm siêu dương thới, quốc thái dân an, đạo pháp trường lưu, chánh giáo hoằng dương, vạn linh thức tỉnh h

2 TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI Kỉnh nguyện hồi hướng cho âm siêu dương thới, quốc thái dân an, đạo pháp trường lưu, chánh giáo hoằng dương, vạn linh thức tỉnh h ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ T H I Ệ N Q U A N G TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI IN LẦN THỨ NHẤT Nhà xuất bản San Martin, California, USA Vía Đức Quan Âm 19-9 Giáp Ngọ (2014) 2 TỰ THẮP ĐUỐC MÀ ĐI Kỉnh nguyện hồi hướng cho

More information

LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI

LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI LỜI GIỚI THIỆU TÂM LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I - VÒNG QUAY ĐẦU CƠ II - SUY LUẬN NGƯỢC VÀ NHỮNG HỆ LỤY III - HỌ IV - HẪM LẪN GIỮA HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI - DỰ BÁO V -NHẦM LẪN GIỮA CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG VI

More information

H

H H.T. THÍCH TRÍ THỦ Chủ trương LÊ MẠNH THÁT Chủ biên TỰ ĐIỂN BÁCH KHOA PHẬT GIÁO VIỆT NAM A Tập II Từ A Di Đà (Tịnh Độ Giáo) đến A Di Đà Tự Phật Lịch 2548 TL 2004 Lời Tựa Từ điển BÁCH KHOA PHẬT GIÁO VIỆT

More information

TONG CONG TY BIEN LI/C MIEN BAC CONG TY BIEN LU~C HA TINH CONG HOA XA H 0I CHU NGfflA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: J b /PCHT-TC& NS V/v th

TONG CONG TY BIEN LI/C MIEN BAC CONG TY BIEN LU~C HA TINH CONG HOA XA H 0I CHU NGfflA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: J b /PCHT-TC& NS V/v th TONG CONG TY BIEN LI/C MIEN BAC CONG TY BIEN LU~C HA TINH CONG HOA XA H 0I CHU NGfflA VIET NAM Doc lap - Tu do - Hanh phuc So: J b /PCHT-TC& NS V/v thong bao ket qua thi nang bac lirong dot 2 nam 2016

More information

Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp

Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp Lời cảm ơn TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN Tiến sỹ Hartmut Morgenroth người đã tích cực đồng hành và giúp đỡ tôi thực hiện cuốn sách này bằng những đóng góp chuyên môn của mình. Chúng tôi cùng nhau chuẩn bị

More information

Microsoft Word _09_04__DS_08__Part_1_Bai_So_00_09_Nghien_Cuu_Bien_Khao_Editing_OK.doc

Microsoft Word _09_04__DS_08__Part_1_Bai_So_00_09_Nghien_Cuu_Bien_Khao_Editing_OK.doc Một Cách Thiền Để Dưỡng Sinh Trong Thái Cực Quyền (Trích sách TẬP THÁI-CỰC DƯỠNG SINH, Let s Practice Nutri-Living TaiChi Exercises! Đỗ Quang-Vinh, Canada, 2013) Giáo Sư Đỗ Quang-Vinh 1-Thái-cực-quyền

More information

Luật hải quan Việt Nam và quốc tế

Luật hải quan Việt Nam và quốc tế TRl/CSNG DAI HOC KINH TE Q U O C DAN KHOA THLfflNG MAI VA KINH TE QUOC TE' Chu bien: PGS. TS. NGUYEN THlTA LOC WIMAN (XMf; NHA XUAT BAN DAI HOC KINH TE Q UO C DAN TRLTCJNG DAI HOC KINH TE QUOC DAN KHOA

More information

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUG VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET Boc lap - Ty do - Hanh phiic NAM S6:^^0 /KH-GD&DT Khdnh San, ngay2, ^ th

UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUG VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET Boc lap - Ty do - Hanh phiic NAM S6:^^0 /KH-GD&DT Khdnh San, ngay2, ^ th UBND HUYEN KHANH SON PHONG GIAO DUG VA DAO TAO CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET Boc lap - Ty do - Hanh phiic NAM S6:^^0 /KH- Khdnh San, ngay2, ^ thdng 4 nam 2017 KE HOACH Xet duyet Sang kien kinh nghiem

More information

TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN Nguyễn Minh Tiến biên soạn Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sa

TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN Nguyễn Minh Tiến biên soạn Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sa TỔNG QUAN KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN Nguyễn Minh Tiến biên soạn Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sao chép, trích dịch hoặc in lại mà không có sự cho phép

More information

Hình này cho thấy, từ giáp cốt văn đến kim văn, đại triện đều là dưới mái nhà có hình con heo. Tiểu triện và lệ thư có bộ 宀 (miên, nghĩa là mái nhà),

Hình này cho thấy, từ giáp cốt văn đến kim văn, đại triện đều là dưới mái nhà có hình con heo. Tiểu triện và lệ thư có bộ 宀 (miên, nghĩa là mái nhà), Gia đình, gia thất Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ấn định đường hướng mục vụ cho Giáo Hội tại Việt Nam trong năm 2014 là năm Tân Phúc-Âm-Hoá đời sống gia đình. Logo năm gia đình của Tổng Giáo Phận Tp.HCM là

More information

SỐ 3 HUYỀN-DIỆU

SỐ 3 HUYỀN-DIỆU Hay là TAM BỬU (TẬP 01) Tây-Ninh Thánh Địa, mùa hoa Đạo nở. Ngày 01 tháng 03 Vía Đức Cao Thượng-Phẩm (Tháng 4 năm 2007) Nữ Soạn-giả NGUYÊN-THUỶ 1 Trọng giá của TAM-BỬU mà CHÍ-TÔN ưa chuộng để dâng Đại

More information

Luatsd: QUOCHOI /2013/QH13 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc LUAT NHAP CANH, XUAT CANH, ClT TRU CUA NGlTOtt NlTCfC NGOAI

Luatsd: QUOCHOI /2013/QH13 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc LUAT NHAP CANH, XUAT CANH, ClT TRU CUA NGlTOtt NlTCfC NGOAI Luatsd: QUOCHOI /2013/QH13 CONG HOA XA HOI CHU NGHIA VIET NAM Doc lap - Ty do - Hanh phuc LUAT NHAP CANH, XUAT CANH, ClT TRU CUA NGlTOtt NlTCfC NGOAI TAI VIET NAM Can cu Hien phdp nude Cong hoa xd hoi

More information

NNT_Lich_Su_Thien_Tong_Trung_Quoc_CVCN

NNT_Lich_Su_Thien_Tong_Trung_Quoc_CVCN LỊCH SỬ THIỀN TÔNG TRUNG QUỐC Biên dịch: Nguyễn Nam Trân Dẫn Nhập Của Người Biên Dịch: Cổ nhân hình tự thú, Tâm hữu ñạo, thánh ñức. Kim nhân diện tự nhân, Thú tâm an khả trắc! (Lời người xưa) Trong tiếng

More information